Chiều tối làm được bài thơ đầu tiên Đêm tôi mơ thấy một giấc mơ kỳ diệu. Tôi đang đi trên một cánh đồng đầy hoa rực rỡ. Nằng dìu dịu và gió cũng dìu dịu. Những cánh hoa, mơn mởn nâng bàn chân tôi lên. Đột nhiên từ phía chân trời bay đến một con ngựa có cánh. Ngựa hí vang những giai điệu tuyệt tác. Tôi cũng cất giọng ca vang những làn điệu nồng nàn mê say. Ngựa và người cùng ngân nga hòa quyện. Đất trời như bừng sáng hơn. Hoa lá rực rỡ hơn. Chính lúc đó từ bóng ngựa có cánh đổ dài xuống thảm cỏ, tôi nhìn thấy một gương mặt phụ nữ. Một gương mặt u buồn thầm kín. Tôi sững lại, chăm chú nhìn. Không, đó là bóng của con ngựa có cánh và vòng nguyệt quê trên đầu đang say sưa hí vang các giai điệu tuyệt tác. Tôi quên đi. Tôi lại cùng ngựa ca vang những làn điệu nồng nàn mê say. Đất trời lại bừng lên rực rỡ hơn. Hoa lá rực rỡ hơn. Chính lúc đó tôi lại nhìn thấy một người đàn bà khác. Một gương mặt méo mó với đôi mắt rừng rực toát lên một ý chí ngạo nghễ. Đôi mắt giễu cợt nhìn tôi thách thực. Tôi trừng lại nhìn chăm chú. Không, chỉ là bóng của con ngựa có cánh và vòng nguyệt quế trên đầu đang say sưa hát vang các giai điệu tuyệt tác. Tôi lại quên đi. Từ lồng ngực ca vang những làn điệu nồng nàn mê say. Đất trời như bừng sáng hơn, hoa lá rực rỡ hơn. Chính lúc đó từ lưng ngựa đổ dài, một người phụ nữ lì lợm, chai sạn, tã tợi. Đôi mắt lướt qua tôi để xem tôi có phải là gã đàn ông hay không. Rồi mệt mỏi lướt qua. Tôi chăm chú nhìn. Không đó chỉ là bóng ngựa. Cuối cùng xuất hiện một gương mặt sao mà giống tôi thế. Gương mặt chưa bị phủ lấp bởi thời gian, trong suốt. Gương mặt chăm chăm nhìn tôi. Đôi mắt sáng nhìn tôi đầy ý nghĩa. Đôi môi mấp máy. Tôi tiến lại gần giơ tay ra. Gương mặt tiến lại phía tôi, gần hơn, gần hơn rồi cuối cùng ghé sát vào mặt tôi biết mất. Tôi quay lại tìm con ngựa có cánh. Nó đã biến mất. Tôi quay lại, tìm hoa lá. Hoa lá cũng biến mất. Đen, tối đen như mực. Và bên tai tôi tiếng ai đang thì thầm. Ngày ấy tôi vừa tốt nghiệp đại học. Trước ngưỡng cửa cuộc đời là những tháng dài chờ việc. Sự chờ đợi nào cũng thật khủng khiếp. Tôi là co bé hiếu động. Căn nhà đó mà tôi có cảm giác như một chiếc mũ cứ chụp xuống đầu mà bóp chặt. Tôi nhức nhối, khắc khoải đếm từng phút cho chóng qua một giờ và một giờ cho chóng qua một ngày. Sự chờ đợi không thể làm được việc gì cho ra hồn. Tôi không biết làm gì cho chóng qua những ngày chờ đợi. Sáng ra tôi mong đến chiều để ngồi thẫn thờ trước cửa nhìn những dải mây đi nhởn nhơ mà muốn đánh đổi số kiếp. Đôi khi thái quá tôi ngồi đánh bi với mấy đứa trẻ con đã gọi tôi là cô. Một hôm tôi nảy ra ý định viết văn. Tôi cũng đã có viết những mẩu nho nhỏ ngày học phổ thông. Sau đó là những năm sôi động tôi không còn thời gian để viết nữa. Tôi viết về những cảm xúc, viết những gì yêu mến. Có lẽ cái tâm hồn cô nữ sinh lớp mười chưa nỡ rời bỏ tôi sau những năm học đại học nên tôi rất thích hình ảnh những người lính. Tôi thường viết về họ. Tôi viết về những điều nghe kể, bằng những hình ảnh bắt gặp bằng cả những điều đã học. Tự tôi bật cười và cảm thấy xấu hổ khi đọc lại những điều đã viết. Trẻ con và nhố nhăng - đấy là câu bình luận cuối cùng cho tác phẩm đã viết, rồi xếp vào xó. Tuy thế tôi vẫn ham viết. Rồi tôi nhận thấy tháng ngày trôi qua nhanh hơn và cũng gặp những điều hay hay khi đọc lại những gì đã viết. Khi viết được một số truyện ngắn tôi muốn thử sức một lần. Nhưng tôi ngại ngùng đến nỗi chỉ thoáng bắt gặp ý nghĩ gửi truyện ngắn cho các báo hoặc tạp chí nào đó là tôi vội vã xua đi ngay. Tôi rất sợ người ta cười. Tôi nghĩ và viết tiếp. Rồi con quỷ nhỏ bắt đầu xuất hiện. Nó vẽ ra trong tôi những viễn cảnh vinh quang của nhà văn. Thoạt đầu là một truyện ngắn được đăng, rồi đến nhiều tác phẩm khác. Rồi đến sự vĩnh hằng. Tôi yêu văn học, bởi thế tôi hâm mộ tất cả những nhà văn, tôi cứ nghĩ họ thật siêu nhân vì họ đã viết ra những điều hay ho như thế. Từ đó tôi viết không phải chỉ bằng những xúc cảm mà bằng cả lý trí của con quỷ nhỏ thúc giục. Rồi một lần tôi đọc thấy thông báo về cuộc thi truyện ngắn. Con quỷ nhỏ thúc giục thôi thêm phần can đảm. Tôi gửi đi một truyện ngắn dự thi. Gửi đi rồi tôi sống trong hoảng loạn đến buồn cười. Tôi cứ ngơ ngơ ngẩn ngẩn vì tưởng tượng ra những cảnh như thế này. Người ta đọc bài của tôi xong chun mũi lại như khó ngửi. Người ta sẽ phá lên cười và vo viên lại. Người ta sẽ không thèm động đến... Toàn những viễn cảnh bi đát cho số phận của mẩu truyện đầu tiên ám ảnh tôi suốt những ngày sau đó. Tôi ân hận vì mình đã viển vông để biến thành trò cười. Vì ở đời “văn nghiệp” đã làm cho không biết bao nhiêu kẻ thành gàn dở, làm trò cười cho thiên hạ. Rồi đến khi sự dày vò làm tôi mệt nhọc, tôi quên phắt việc đã làm. Đúng vào những ngày quên mất thì một hôm bố mang về cho tôi phong thư mang dấu của báo. Bố cũng ra chiều vui vẻ. Bố bảo: “Chị mà thành công là nhờ tôi một nửa đấy nghe chưa”. Mẹ thì không vui. Mẹ nói: “Vứt cái trò viết lách ấy đi, rồi chẳng hay ho gì đâu”. Tôi còn nhớ như in những ngày ấy. Những ngày cuối xuân đẹp tuyệt vời. Nắng xuân bừng lên rộn rã đã làm cho lòng người rạo rực lắm rồi. Trong tôi con quỷ nhỏ nhảy múa. Nó cứ như nâng người tôi lên. Con quỷ nhỏ đọc những lời của ông tiên chắp cánh cho nó. “Tôi đã đọc các truyện ngắn dự thi của chị. Cái cốt truyện thật độc đáo. Chúng tôi có hàng trăm bản thảo nên không thể trao đổi riêng với từng người. Chị là trường hợp hãn hữu vì ít nhiều có hy vọng...”. Đối với con quỷ nhỏ đó là phần thưởng vô giá. Nó đã chắt lọc trong bức thư những lời khen nó để quên đi cái duy nhất mà quyết định là phải phá ra viết lại. Người biên tập viên đó là một nhà văn quen thuộc. Tôi đã có lần đọc tác phẩm của người ấy rồi. Con quỷ nhỏ bắt đầu khuấy động tôi nghịch ngợm. Tôi biết người biên tập viên đó hơn tôi mười lăm tuổi nhưng tôi sẽ viết đi một bức thư ngang hàng, vì người đó đã gọi tôi là chị kia mà. Một đứa bạn gái đã từng tiếp xúc với nhiều nhà văn can tôi: - Đừng viết thế! Các ông nhà văn rất thích các cô gái viết văn trẻ. Muốn thành công hãy tỏ ra trẻ trung. Con quỷ nhỏ thấy phải viết đi một lá thư như thế này. “Chú ạ, đó là câu chuyện bạn cháu kể cho cháu nghe và cháu tưởng tượng thêm để ghi lại. Thực chất cháu chỉ là một cô bé hay tưởng tượng viển vông. Cháu gửi đi để thử sức. Gửi đi rồi cháu lo sợ sẽ bị cười. Thế là chú đã không cười cháu tí nào mà lại còn trân trọng những điều cháu viết. Chú hiểu chứ, những nhà văn được giải thưởng đặc biệt cũng chỉ vui như cháu là cùng khi cháu đọc thư chú”. Thế đó. Tôi lại lao vào viết những truyện ngắn khác. Bây giờ tôi viết có mục đích và tự tin hơn. Điều đáng nói là tôi đã thấy niềm vui trong những ngày chờ đợi. Với tôi bây giờ là hai sự chờ đợi: Chờ xếp việc và chờ thư người ấy. Chẳng bao lâu thì người ấy trả lời. “Đã nhận được thư của cháu. Rất cảm ơn tấm lòng dồn về nghệ thuật và sự cởi mở đến tin cậy của cháu. Viết đi và cứ gửi lên, tôi cố gắng làm người đọc tận tình và có trách nhiệm nhất. Nếu lên được đây, tôi sẽ góp ý cho mọi thứ thật kỹ lưỡng. Hết sức ghi nhớ: hãy viết những gì trong lòng mình thấy rung động nhất. Bình dị và chân thực đó là bí quyết của thành công”. Con quỷ nhỏ hoàn toàn thỏa mãn. Một chân trời mới mẻ như mở rộng trước mắt nó. ở đời có niềm vui nào bằng ước mơ của mình được chắp cánh. Bên cạnh đó lại có một thứ tình cảm mới hình thành trong tôi. Đó là thứ tình cảm với người ấy. Tôi biết diễn đạt thế nào bây giờ nhỉ? Thực chất tôi chưa biết mặt người ấy và cũng chẳng tưởng tượng ra nhiều. Chỉ có điều rằng những tâm sự sâu kín nhất trong lòng tôi đã thổ lộ với người ấy không hề ngại ngùng. Những vướng mắc của cuộc đời tôi nhờ người ấy lý giải hộ. Mỗi lần nhận được thư của người ấy là một niềm hạnh phúc ập đến với tôi. Một thoáng đỏ mặt, rồi là cảm giác êm ả và rạo rực như cơn nắng giữa mùa đông rét mướt. Thư của người ấy viết cho tôi càng nhiều thì thứ tình cảm ấy càng tăng lên. Một thứ tình cảm thật khác lạ: trân trọng như người thầy và ấm áp như tình yêu. Khi viết thư cho người ấy tôi cũng cảm thấy hạnh phúc. Lòng tôi rạo rực theo từng dòng chữ. Bởi trân trọng như vậy nên tôi viết những dòng thư tôi muốn thì thầm và gửi cà tấm lòng đang cuộn sóng vào dòng chữ, không phải tôi mà có lẽ con quỷ nhỏ, giọng nó thật ngọt ngào vang bên tai. Đến lá thư người ấy viết cho tôi bằng “ơi người bạn trẻ. Giá được gặp mặt và tâm sự nhỉ? Chắc cuộc sống lúc ấy có ý nghĩa hơn” thì tôi được phân công công tác. Tôi lên thành phố với bao hạnh phúc tụ hội. Tôi sẽ được gặp mặt người ấy. Bao nhiêu ngày mong đợi gặp mặt đều không át đi được nỗi sợ hãi mơ hồ. Bởi những dòng thư và thực tế. Như trước khi bước vào phòng thi là những phút sợ hãi (tại sao tôi cứ nghĩ thành công hay không là phụ thuộc vào những cuộc gặp gỡ). Bởi vì lần đầu hẹn hò. Đã đi đến cổng báo mà tôi không đủ can đảm bước vào, phải quay về. Chiều, tôi rủ thêm một cô bạn gái. Tôi không dám cả gõ cửa. Đứa bạn tôi thay tôi làm việc đó. Tiếng gõ cửa của nó vang lên thì tôi muốn bỏ chạy. Cánh cửa mở, tôi nép mình vào tường. Một người đàn ông thật lạ. Dáng người rất đàn ông, gồ ghề, sắc cạnh, tôi đã quan sát thấy qua khe cửa. Đứa bạn tôi hỏi thăm. - Cho cháu hỏi có phải chú là... - Chính tôi đây. Xin mời vào. Tôi và đứa bạn bẽn lẽn bước vào. Người ấy quay sang tôi nhìn và hỏi: - Xin lỗi, hình như bạn là Thùy Dương có phải không? - Vâng ạ. - Ô, cô bé... Tự nhiên và lịch sự. Tôi thật thoải mái trong lần gặp đầu tiên. Đứa bạn tôi cũng thế. Nó đã tự nhủ, nó chỉ đi làm “vệ sĩ” cho tôi. Nó đã cố tình tỏ ra bộ mặt lạnh lùng. Rút cục nó cũng phải nói cười và cởi mở. Gần đến lú ra về người ấy mới trao đổi riêng với tôi dăm ba câu chuyện về văn chương và tặng tôi một tập giấy viết. Tôi gửi lại người ấy vài bản thảo.