Ra đến bờ sông, Thị Lộ mới cảm thấy cái lạnh ẩm buốt đầu đông thấm vào người. Tay run rẩy thắp ba nén hương cắm vào nắm cơm để cạnh một quả trứng luộc, dăm cái oản và một nải chuối ngự, nàng chắp tay nhắm mắt lại. Khói hương bay lên uốn lượn, tỏa ra rồi loãng dần trong không, chỉ để lại mùi trầm thơm ngát một khoảnh đê trườn theo dòng nước. Chim trảo trảo từ phía bắc hàng đàn bay về. Chim sà xuống kiếm mồi nơi mực nước còn thấp dưới chân đê. Chúng lông đen, nhưng không to như quạ, mỏ vàng nhạt nhọn hoắt, kêu từng tiếng quang quác như cãi vã nguyền rủa lẫn nhau. Gió ở đâu về đẩy hàng lau mọc trên đất bùn dạt xuống trồi lên, dập dềnh uốn theo chiều thổi bất chừng lúc dọc lúc ngang. Chị phù hộ, chứ cứ thế thì rồi thầy sớm muộn lại mắc vào cái bẫy thế cuộc. Em từng nghe thầy nhắc lại lời chị khi xưa, đừng chỉ lo chuyện đại sự, hạnh phúc trong từng cái nhỏ nhoi. Em nghĩ, đại sự cho một đời người chính là hạnh phúc của người đó. Giản dị thế, nhưng tại sao thầy không hiểu nổi? Chị phù hộ cho thầy, vạch lối chỉ đường để thầy biết rằng thế cuộc như bọt nước, ao bèo, chớp mắt là chìm, chớp mắt là nổi, trong khi đời người thì là một thoáng phù du... Ðời người, một thoáng phù du.Thị Lộ nhắc đi nhắc lại, tay nắm chặt vào nhau như níu lại một cái gì vuột qua trôi chìm tăm tích. Rời Côn Sơn, nàng ghé vào Nhị Khê, xin với Ðào Nương lên thắp hương mộ tổ. Ngạc nhiên, Ðào Nương hỏi, vỡ lẽ là Lộ trên đường đi sông Cầu. Lộ bảo ‘‘...tôi về thăm họ hàng! ’’ rồi không nói gì thêm. Hai hôm sau, Lộ lên đường, mặc dầu bọn cháu gái cố giữ lại, kêu ca ‘‘...lâu mới gặp bác, bác vội gì? ’’. Ðỏ Mỏ và Vành Khuyên rất quí Thị Lộ, một phần vì tuổi tác chênh lệnh không nhiều, một phần vì Lộ giỏi thi văn, thích giễu cợt, làm thơ nhạo cả vua, quan lẫn ông sư, bà vãi.Về lại căn nhà của tuổi thơ, Lộ ngẩn ngơ nhìn hàng dậu bìm leo xiêu vẹo, hồi tưởng lại thuở gia đình chạy loạn đến bến sông Cầu. Thuở còn có mẹ. Thuở còn đủ chị đủ em. Thuở Nguyễn lão ngày ngày đi đánh dậm, tối về khêu đèn dạy cho đàn con dăm chữ vỡ lòng. Thuở nàng còn là con bé câm, muốn nói nhưng thanh âm tắc nghẽn cần cổ, đông đặc như kẹo mạch nha ở cuống họng, để chỉ cho bật ra những thanh âm ú ớ. Cho đến một hôm, cha kể, cái tiếng hát xé lòng giữa một đêm đông cất lên. Và từ đó nàng mới nói được. Nghe, rồi nàng quên. Cuộc sống rải rắc những tình cờ trùng hợp, làm sao mà tiếng hát kia khiến cho nàng, con bé câm, thốt được lên lời. Nhưng khi về ở với Nguyễn Trãi, nghe cái tâm sự của người chồng kể lại câu chuyện bên bờ sông Cầu, nàng mới giật mình. ‘‘ Thầy ơi, câu hát trên dòng sông... hát thế nào? ’’. Trãi nghẹn giọng thầm thì ‘‘...chèo quơ nước ngược chuyến đó ngang ’’.Lạy chị, chị phù hộ. Nước ngược, đò ngang. Kẻ sang sông xưa chở huyễn hão đổi đời. Nhưng rồi thầy đã làm. Làm xong, người ta hạ ngục. Về Côn Sơn, thầy vẫn khắc khoải. Em nhắc, nhưng thầy lẳng lặng không nói gì nữa. Em bảo, thầy ơi, thế cuộc là phù du. Xưa đuổi giặc, ai cũng một lòng. Nay giặc ở chính trong lòng người, nào ai muốn đuổi. Vua Nghiêu Thuấn, dân Nghiêu Thuấn là huyền thoại. Và phải là thiên tài mới tin vào và sốâng được với huyền thoại... .Thị Lộ bỗng giật mình. Tiếng chí chóe đâu đây vẳng lại, mỗi lúc một gần. Nhìn về phía sau, Lộ thấy một người, tay nải, lưng bị, trên vai có một con khỉ lông vàng. Thấy Lộ, người ấy đứng lại nhìn sững sờ, mồm mấp máy. Người lạ nói như nói một mình ‘‘...có phải là người xưa? ’’. Ðúng, cũng cái khóe mắt có ánh hoang dại. Cũng cái miệng khẽ nhếch lên, nửa như cợt đùa, nửa như khiêu khích.Lộ khẽ gật đầu chào người lạ. Ông ta hỏi, giọng có chút ngần ngại ‘‘...bà người ở đây? ’’. Lộ lắc đầu. Ba cây hương đã tàn. Lộ lẳng lặng châm lửa hóa vàng. Gió rít lên, lửa bắt phừng phực cháy, tàn bay ra sông như một đàn đom đóm. Con khỉ lông vàng sợ, kêu rồi rúc vào nách người lạ. Thình lình, ông ta nghe, cũng một giọng hát xé lòng ngày xưa. Ông ta hỏi, nhưng Lộ lại lắc đầu. Nàng không nghe thấy gì. Và nàng cũng không biết người lạ kia là Lý Tử Cấu, kẻ đã chứng kiến cái chết của Xuyến hai mươi năm về trước.°Lợi uể oải ngồi lên, áp lưng vào tường rồi thở ra. Dẫu đã hết đau bụng được gần nửa năm, Lợi vẫn không ăn được, miệng lúc nào cũng nhạt thếch. Lợi sống là nhờ nước sâm, hổ cốt, nhung nai, mật gấu do đám ngự y cắt bốc mỗi ngày. Nay, Lợi để Nguyên Long ở cạnh mình, trước là để bớt phần nào cô đơn, sau là có dịp dạy dỗ một ông hoàng trái nết, chẳng biết kiêng nể gì ai.Vẫy tay gọi Nguyên Long, Lợi hỏi giọng nhẩn nha:- Mi nhớ ta dặn gì hôm qua?Nguyên Long đến cạnh giường, cúi đầu:- Thưa cha...- Không, thưa phụ hoàng. Phụ là cha, hoàng là vua...- Thưa phụ hoàng, phải giữ lấy Ðế nghiệp của giòng họ.- Ðược! Muốn là Ðế là Vương thì phải xưng hô như Ðế, như Vương. Giữ Ðế nghiệp là giữ thế nào?- Thưa phụ hoàng, Ðế nghiệp trên cái ghế, ghế phải vững, số chân phải đủ...- Bao nhiêu chân thì ghế vững, thế nào gọi là đủ?- Ba chân là đủ vững. Bốn thì thừa. Thừa thì không vững...Lợi có vẻ hài lòng, với tay lấy tráp, quệt vôi rồi bỏ trầu vào miệng, nhai tóp tép. Thấy vậy, Nguyên Long định chân trước chân sau lui ra. Lợi giật giọng:- Tại sao bốn chân lại thừa?- Thưa phụ hoàng, cái nọ xô cái kia, tất mặt ghế chông chênh.Nhổ bã trầu vào ống nhổ, Lợi lấy khăn chấm quết trầu đỏ lè trên mép, hắng giọng:- Ðược! Nhưng có ba chân, vẫn có cái nọ xô cái kia. Thế thì vững phải thế nào? Ðiều này, ta chưa dạy mi. Cho mi nghĩ. Rồi tối nay trả lời ta, nghe chưa! ’’.Nguyên Long rập đầu, nhìn Lợi phẩy tay cho phép lui ra. Nó đi giật lùi, nhưng vừa đến cửa là tếch chân sáo, một mạch chạy ra vườn Ngự Uyển. Dăm đứa hoạn quan tuổi chạc đôi mươi đã trực sẵn, thấy Long, cùng nhau hò ‘‘...Tướng đã về, hãy dâng lên kiếm! ’’. Một tên quì sụp xuống, tay nâng thanh gươm ngắn, miệng kêu ‘‘ ...gươm thần đã trở về tay! ’’. Long nắm lấy, nhảy phốc lên lưng tay hoạn quan, gào ‘‘ Theo ta, hỡi tướng sĩ!...’’. Thế là đám hoạn quan làm ngựa lổm nhổm bò theo sau. Long cưỡi, tay cầm gươm thẳng tay đập vào đít tên hoạn, miệng hô ‘‘...Ngựa, chạy nhanh lên. Giặc nó trốn! Nhanh, nhanh lên ’’. Tên hoạn nhăn nhó ‘‘ ...nhẹ tay, tướng quân ơi! Ðánh đau thì ngựa què, nhanh thế nào được ’’. Long quát ‘‘ Ðéo mẹ mày con ngựa hèn! Tướng quân đổi ngựa! ’’. Nói xong, Long phóng xuống rồi nắm tai tên hoạn bò sau. Nhảy phốc lên lưng, Long tay giơ gươm quật xuống, hô ‘‘ ...Thiên lý mã, thằng Liễu Thăng trước ải, chạy nhanh ta bắt nó! ’’.Hò hét chán, cả bọn kéo nhau vào hậu cung. Nguyên Long chễm chệ ngồi lên ghế, tay chỉ bọn hoạn, quát ‘‘ Quì xuống! ’’. Cả bọn giả vờ líu ríu, hô ‘‘ Tuân mệnh ’’. Bắt chước Lợi, Long lấy giọng, hỏi: - Bay trả lời. Cái ghế có mấy chân thì ghế vững?Một tên hô: Long trừng mắt:- Ba có vững không?- Không! Cả bọn ồn ào lên đáp.- Chúng bay ngu lắm! Cái ghế bốn chân vững vì để trên mặt bằng. Nếu không, nó không vững. Còn ba chân, mặt đất có thế nào, ghế vẫn vững. Hiểu chưa Bọn hoạn ngơ ngác, nhưng lại đồng thanh hô:- Dạ hiểu!- Ðược, nhưng ta hỏi thêm-...- Muốn thật là vững, chân ghế phải thế nào?-...- Cha tiên nhân chúng bay, đồ ăn hại... Nghĩ đi, đứa nào nói được, ta cho thưởng!Bọn hoạn vẫn ngơ ngác. Một lát, Ðinh Phúc là cháu gọi Thái giám Ðinh Hối bằng bác, giơ tay, giọng ngần ngừ:- Bẩm tướng quân, chân không được chân dài chân ngắn!Ngẫm nghĩ, Long quắc mắt reo:- Ðúng! Không được dài ngắn khác nhau quá đáng thì ghế vững. Mày khá!Nói xong, Long xua tay đuổi bọn hoạn, chỉ giữ lại một mình Ðinh Phúc. Nó kéo Phúc vào căn phòng riêng, thưởng cho Phúc một đồng tiền Thuận Thiên. Phúc nhận, rồi lạy tạ. Long lại bảo:- Ngày sau, bay là một cái chân ghế...Nói xong, Long leo lên giường, hai tay tuột quần kéo xuống. Ðinh Phúc biết Hoàng thái tử muốn gì. Lẳng lặng đến kéo tấm mành che ánh sáng hắt vào từ bên ngoài, Phúc đến cạnh Long, tay thò vào mân mê một lúc rồi há miệng ra cúi xuống.Một lát sau, chỉ có tiếng Long rên nho nhỏ. Rồi Long thiếp ngủ. Ðinh Phúc chùi mép, kéo chiếc chăn đơn phủ lên mình Long, rón rén bước ra. °Ngồi khuất mặt trong bóng tối, Ðại tư đồ Lê Sát nhìn Lợi vàng vọt dưới ánh đèn, không biết trả lời thế nào cho phải. Câu hỏi như búa bổ vào đầu Sát tóe lửa, bất ngờ đến độ Sát ngẩn ngơ như người mất hồn. Nhấp một ngụm nước, Lợi chậm rãi:- Ðấy! Cháu giữ lấy ngôi, là Ðế Nghiệp vẫn của giòng họ ta, ta có về với tổ tiên mới yên tâm được...Sát vội ngắt:- Tâu Hoàng thượng, thần...Giơ tay lên chặn, Lợi giọng buồn bã:- Thôi, cứ gọi ta bằng cậu như xưa. Cháu vào với ta thì cái tình máu mủ trước, nghĩa quân thần sau!Sát đập đầu xuống đất rồi ngửng lên:-...cậu vẫn đây, bệnh hoạn chữa chạy rồi cũng khỏi!- Không! Ta biết mệnh ta rồi.- Hiện, cậu đã phong Tư Tề là Quốc Vương. Em nó cũng thành niên, rèn luyện ít lâu thì lên ngôi ắt cũng giữ được Ðế Nghiệp!Lợi cười nhạt:-Không! Cái thằng vô loài đó, tửu sắc như vậy, lại bất tài bất tướng, giao nghiệp cho nó thì sẽ toi! Không được... Ngẫm nghĩ, Lợi đằng hắng - Hiện cháu làm phần vụ của Tể tướng, nắm hết quần thần, nay ta định giao cho giữ luôn cả đạo Ngự Tiền Thiết Ðột. Cháu lên ngôi, là do ta truyền, có ai nói gì được!Sát nghiêng mặt nhìn lên. Trong một thoáng, cái ánh sắc lạnh của cặp mắt Lợi khiến Sát rùng mình. Theo Lợi chinh chiến trước cả ngày hội thề ở Lũng Nhai, Sát biết rõ khả năng quyền biến của người cậu ruột. Và nhất là cách hành xử dứt tình đoạn nghĩa khi cần. Thận trọng, Sát thưa:- Còn Hoàng thái tử Nguyên Long...Lợi chặn lời Sát, thở ra:- Long còn bé, làm vua thì theo lệ là phải để Thái hậu buông rèm coi chính sự. Mà cháu biết đấy, đàn bà nhà ta dốt nát, làm gì được! Giá như còn Lưu Nhân Chú để mà phò Nguyên Long thì khả dĩ còn giữ được nghiệp!Nghe đến tên Chú, Sát rùng mình, người lạnh toát. Thời gian Lợi ra lệnh bức tử Trần Nguyên Hãn, Sát vốn ghét ganh với Chú, lên tâu với Lợi, thổi phồng chuyện Chú không thuận tình. Nhắc lại mối giao tình giữa Hãn và Chú khi cả hai cầm quân phá thành Xương Giang, Sát mong Lợi nhân dịp đó hạ thủ loại Chú vốn là người đất Thái Nguyên. Lợi nghe, chỉ buông thõng ‘‘...lúc cần, mới làm! ’’. Mấy ngày sau, Sát bất ngờ đưa Thiết Ðột đến vây nhà Chú, xông vào giết hết già trẻ lớn bé. Trịnh Khắc Phục, là em cùng mẹ khác cha của Chú, chạy vào đập đầu dưới chân Lợi kêu khóc. Lợi lệnh cho Sát vào, phủ đầu ‘‘ Sao mi giết tướng của ta? ’’. Ðể Sát bù lu bù loa xong, Lợi bảo ‘‘ Ta nói lúc cần mới làm, nhưng có bảo mi thế nào cần và làm thì làm gì đâu! Cớ sự này, mi mà không là máu mủ nhà ta thì ta chém đầu! Nhớ lấy! ’’. Tìm cách đền bù lấp tiếng, Lợi cấp đất cho bọn con cháu Lưu Nhân Chú chạy thoát được và thăng chức cho Trịnh Khắc Phục. Lơ đi để tội Sát lơ lửng, Lợi mang chém hai viên quan nhỏ trong Viện Nội Mật, đổ tội khai báo bậy bạ. Sát ở cái tình thế gươm treo trên cổ, thấp thỏm cho đến ngày nay.Lợi ho lên khù khụ, tay nâng ly nước sóng sánh, đổ lên áo. Sát vội moi khăn ra chùi. Ðợi khi Lợi dứt cơn ho, Sát rập đầu, run giọng:- Xin cứ để Sát này phò Hoàng thái tử, nếu hai lòng thì đấng Hoàng thiên chu diệt cả giòng cả họ. Có ngọn đèn đây chứng giám cho!Quay mặt đi để giấu một nụ cười, Lợi lại giả vờ ho lên. Sát rót nước đưa lại. Cầm chén nước, Lợi uống từng hụm, trầm ngâm:- Cháu đã định thế, cái nghiệp họ Lê chắc là còn... Nhưng phần ta, ta chưa yên tâm. Ðể ta nghĩ lại đã!Nói vậy, nhưng thật ra Lợi đang bày cờ và biết là ván cờ thế cuối cùng đời mình.°Ðến Ðông Kinh, Trãi vào nhà Nguyễn Mộng Tuân, thắc mắc không biết vì cớ gì Lê Lợi hạ chỉ gọi mình về gấp. Trên đường đi từ Côn Sơn, Trãi ghé Nhị Khê, chỉ kịp viết cho Lộ vài chữ nhờ Ðỏ Mỏ mang lên sông Cầu. Trãi hỏi dò, nhưng Tuân không biết gì, chỉ bảo Trãi nghỉ ngơi rồi chính mình vào điện Cần Chính báo cho đám giám quan biết Trãi đã về phụng mệnh.Quay về căn nhà của Nguyễn lão ven Tây hồ, Trãi bồi hồi ngơ ngẩn. Nhìn rặng bìm bịp trổ hoa, hình ảnh Thị Lộ chợt xập về, hệt như buổi Trãi kê vai gánh chiếu cho nàng dạo nào. Mở cánh cửa khóa trái, Trãi bước vào, cảm động nhìn quanh. Vướng vất đâu đây giọng nói tiếng cười, đêm chàng say rượu, buổi xin Nguyễn lão cho Thị Lộ về làm vợ. Mơ hồ có tiếng chân bước, tiếng củi nổ tí tách và giọng ấp úng của siêu nước sôi những lần uống trà ngày xưa. Ðến đêm, Trãi khêu đèn nằm dài trên chiếc trõng tre. Chàng hít hà, mong tìm ra mùi hương bồ kết, lòng se sắt nỗi nhớ Lộ. Khi rời Côn Sơn, Lộ vỏn vẹn để lại dăm chữ, ý nửa đùa, nửa trách. Nàng viết ‘‘...thầy ơi, em nhỏ nhoi, chỉ là cái bọt nước trong cơn triều dâng cuồn cuộn ’’.Câu tấm lòng ưu ái cũ ám ảnh đêm ngày như nước triều dâng ta viết ra đâu phải là cho Xuyến, người tình khi xưa nhắc nhủ rằng hạnh phúc nằm trong từng cái nhỏ nhoi. Cũng đâu phải chỉ Lê Lợi, kẻ không nương tay, giết Hãn rồi Xảo và đem ta hạ ngục. Hình ảnh con dán đến ăn bữa cơm tù lại hiển hiện ra trước mắt. A, con vật nhỏ nhoi hôi hám. Ðến bầu bạn, nó thực sự đã mang lại cho ta cái sinh khí cần thiết để tìm sống trên con đường men cạnh cái chết. Nhưng ngay khi thoi thóp giữa bốn bức tường ngục tù, ta cũng chưa cô đơn như lúc này. Không có Lộ, đã đành. Nhưng ghê rợn hơn, là ta không hiểu được. Và chẳng phải ta không hiểu Lộ. Người đàn bà đó, như mọi người đàn bà, chỉ có tình yêu là đủ. Cái ta không hiểu, là nỗi khắc khoải của chính mình. Niềm ưu ái cũ kia là nỗi ước mơ xây nền làm móng cho một xã hội mới. Sống, ý nghĩa gì nếu không còn mơ ước. Nền móng! Cái triều chính quờ quạng hiện nay đang đổ lên đất. Ðất kia, lại là đất bùn. Nó trùi xuống, có thể thành đầm lầy chôn đi mọi kỳ vọng. Có thể vùi chính bản thân ta. Cớ sao ta không thể quên đi? Thảnh thơi như Lộ, sáng vui với mây sáng, chiều vui với ráng chiều. Nàng biết cái quí báu của hiện tại, của từng giây, từng phút. Còn ta, cớ sao ta cứ phải hướng đến tương lai ta thêu dệt, như con thiêu thân lao vào bóng đèn? Phải chăng vì ta tham lam? Vì ta đòi sống dài hơn cái cũn cỡn trăm năm một đời người? Trời chớm vào xuân, nhưng lòng chàng chình chịch một nỗi buồn nhớ khôn nguôi. Ðám quan văn Nguyễn Thiên Hựu, Nguyễn Thiên Tích tìm đến thăm. Chàng ừ ào đáp lễ, trống vắng như nước mặt hồ ơ thờ trải rộng, thấp thỏm chờ tin Lộ, tựa bọt nước con cá quậy dưới đám hoa lục bình xô dạt vào bờ.Sáng ngày mồng bảy tháng hai, đích thân Nội Mật Viện chưởng quan Nguyễn Thúc Huệ đến mời Trãi vào chầu. Theo chân Huệ vào điện Kính Thiên, lòng chàng hoang mang không biết Lợi gọi mình vào là về việc gì. Lố nhố dưới thềm, bọn đại thần đang đứng chờ. Có Lê Sát, Lê Ngân. Có cả Lê Vấn, Lê Văn Linh, Lê Quốc Hưng. Lát sau Nguyễn Thúc Huệ bước ra hô ‘‘ Hoàng thượng triều thiên! ’’. Ðám đại thần vén áo thụng, quì xuống rập đầu.Ði từng bước ra đến ngai vua, Lợi ngồi lên, dáng mệt nhọc. Hất tay cho phép bọn đại thần ngồi dậy, Lợi chậm dãi:- Các ông là rường là cột triều đình, hôm nay có đủ mặt để ta thông báo. Ta quyết định giáng Quốc Vương Tư Tề làm Quận Vương. Và chính thức công bố cho thiên hạ bốn phương rõ rằng Hoàng thái tử Nguyên Long được truyền tông thống, thay ta trị vì ngày ta về với ông bà tổ tiên.Bắt chước bọn đại thần, Trãi lại rập đầu, tai nghe tiếng đồng thanh hô ‘‘ Phục mệnh! ’’. Ngước lên nhìn, mặt bọn Sát, Ngân, Vấn... không biểu lộ mảy may một chút ngạc nhiên. Trãi hiểu rằng quyết định của Lợi đã được bàn bạc. Với Sát và Hưng là những kẻ mang kim sách phù Nguyên Long, điều này hẳn dễ. Nhưng với Vấn, Linh và nhất là Lê Ngân, là ba vị đại thần mang kim sách phù Tư Tề, chắc chắn sự thỏa thuận phải có giá của nó. Y rằng vậy, ba vị Ðại đô đốc, Tư đồ và Tư khấu được chỉ định phò tá Nguyên Long là Vấn, Sát và Ngân. Kẻ được Lợi giao phó cho trách nhiệm viết chiếu giáng Tư Tề xuống làm Quận Vương và phong Nguyên Long lên làm Thái Tử kế vì không ai khác hơn là Trãi.Khi bọn đại thần lui ra, Lợi giữ Trãi lại, giọng mỏi mệt:- Ông thấy, ta đuối sức rồi. Chẳng còn bao lâu nữa!-...- Chắc là vụ án Phạm Văn Xảo làm ông động lòng?- Tâu Hoàng thượng, hạ thần đã lui ra khỏi vòng danh lợi và nguyện rằng chẳng bận lòng đến chuyện triều chính...Lợi cười nhạt, hừ lên một tiếng, tiếp:- Nguyên Long còn nhỏ, chuyện triều chính là chuyện trăm họ đổ mắt trông vào... Ta biết lòng ông, triều chính sau ra sao là tùy ông uốn nắn Nguyên Long. Ta định phong ông làm Thị Giảng cho Hoàng thái tử...Trãi lạnh người. Thế có nghĩa chàng sẽ là cái đối tượng búa rìu của đám quan lại nhòm ngó quyền thế. Vội vàng rập đầu, Trãi thưa:- Tâu Hoàng thượng, việc thị giảng cho Hoàng thái tử là việc lớn. Thần thiển nghĩ, nên giao cho năm ba người lo việc trau dồi cho Thái tử mới là thượng sách...Như đoán được ý Trãi, Lợi hạ giọng cắt:- Nếu ông lo một mình cáng đáng là mang họa vào thân thì ta đã có cách...Ðánh nhẹ vào chiếc khánh trên án thư, Lợi vẫy. Ðại tư đồ Lê Sát sau bức hoành phi bước ra. Lợi bảo:- Sát sẽ lo việc phụ chính cho Ấu chúa, quyền Tể Tướng. Sát cũng đồng tình với ta để ông làm Thị Giảng nên ta mới vời ông từ Côn Sơn về đây. Khi có Sát, ông không phải lo ngại gì đến an nguy. Nhìn Sát chòng chọc, Lợi gặng - Có đúng không?Lẳng lặng gật đầu, Sát không nhìn Trãi, giọng quả quyết:- Cúi xin vâng mệnh Hoàng thượng. Ngày nào Sát còn thì tính mạng của quan Thị Giảng cũng như tính mạng của Sát vậy!Vẻ hài lòng, Lợi vỗ vỗ lên tay Sát, nhắc:- Cháu thề đi, thề cho ta yên tâm!Nghe Sát trịnh trọng nhắc đến đấng cao thiên rồi thốt lời thề nặng, Trãi biết là mình không thể lui được nữa. Chàng trạnh lòng nghĩ đến Lộ, chua xót nhớ tiếc những ngày êm đềm lắm lúc có thể quên tiệt nhân gian. Vái cả Lợi lẫn Sát, Trãi nghiêm giọng:- Hạ thần đội ân mưa móc, được giao cho công việc thị giảng này bởi thánh ý cao minh chắc biết rằng thời văn trị đã tới rồi. Hạ thần xin nguyện một lòng cùng Hoàng thái tử đưa xã tắc vào nếp Thuấn - Nghiêu, mang đạo thánh hiền làm rường cột triều chính.°Vượt quá con đê ngoặt vào đầm Bà, những mái nhà lợp gianh hiện ra thấp thoáng sau những tàn cây sồi lung linh bóng nắng. Mặt hồ sánh biếc màu cốm non. Lộ men từng bước đến chân đê, lòng nửa rộn rã, nửa bâng khuâng. Khi nhác thấy rặng bìm bịp chập chờn sắc hoa tím nhạt, nàng rưng rưng nước mắt.Ðẩy cửa, Thị Lộ hồi hộp bước vào căn nhà thuở còn con gái. Trên án thư, xấp giấy và nghiên mực. Cạnh cái trõng tre, Trãi cuộn chăn màn thành một đống. Dưới bếp, tro tàn nguội lạnh. Lộ bỗng mủi lòng. Bức thư Trãi viết như một tiếng kêu trời ‘‘ Em ơi, sao nỡ bỏ nhau đi. Ta nay là con chim không có tổ!... ’’. Trao thư, Ðỏ Mỏ bảo ‘‘ Bác cháu vội vàng vào Kinh, trông bác vừa buồn vừa lo, tội lắm ’’. Ði với cô bé cháu về đến Nhị Khê, Lộ dặn Ðỏ Mỏ chào Ðào Nương hộ, một mình đi thẳng về Ðông Kinh. Ðến gõ cửa nhà Nguyễn Mộng Tuân, Lộ mới biết Trãi tạm trú ở Tây Hồ.Sẩm tối, Trãi về. Tung cửa chạy vào, Trãi kêu một tiếng ‘‘ Em! ’’, nước mắt ứa ra chảy xuống đọng trên hàm râu bạc như cước. Trãi ôm choàng lấy Lộ, xiết vào như sợ Lộ biến mất, cố ghìm cơn nức nở khiến toàn thân rung lên như một sợi dây đàn chực đứt. Phải đến một khắc sau, Trãi mới thốt lên lời:- Sao em nỡ bỏ ta đi một mình như vậy?Thị Lộ nghẹn ngào:- Ðể thầy so cái em nhỏ nhoi này với đại sự to lớn kia...- Làm sao so được?- Thầy ơi! Thầy quên xưa đã nói với em thế nào là tình yêu rồi chăng?- Không, ta không quên!Lộ nói, lời thê thiết:- Làm sao giữ được tình yêu trong cõi này, hở thầy?Nghĩ đến công việc đã nhận với Lê Lợi, Trãi thốn đau, cắn răng lại. Lưng Lộ mềm mại uốn theo vòng tay Trãi, mỏng manh làm sao, nhỏ nhoi làm sao, nhưng như một phép màu, cũng huyền diệu làm sao. Chàng dìu Lộ, để nàng lên chiếc trõng tre dạo nọ, tay lần vào giựt giải yếm, và chìm vào tiếng thở, tiếng rên, tiếng thì thào gọi cho đời sống vùng lên từ cái bí mật khôn dò của thân xác.Ðêm hôm ấy đầy trăng. Cây chuối sau nhà hoa nở, hương ngan ngát thoảng qua cửa sổ. Gió nồm đến hẹn lại về, phà hơi nóng vào mái gianh, thỉnh thoảng thổi xào xạc lá rặng sồi mọc cạnh hồ. Lộ âu yếm vuốt tóc Trãi:- Thầy nhớ bài thơ ngày nọ chứ?- Quên thế nào được! Nay cũng vậy. Nhưng dẫu buồng không lạ, sự màu nhiệm của đêm nay vẫn như xưa...Lộ khẽ đọc hai câu cuối ‘‘Tình thư một bức phong còn kín. Gió nơi đâu, gượng mở xem ’’. Nghe xong, Trãi bật lên thổn thức. Lộ ngạc nhiên, nhưng cứ để Trãi khóc vùi. Không hỏi, nhưng Lộ đoán hiểu. Trong một thoáng, có lẽ Trãi cảm nhận được cái mất mát vĩnh hằng của một cõi thiên đường bèo bọt, nếu có thì ở đằng sau. Phía trước chỉ là cái bóng của những ngày đã qua.Cứ thế, Trãi khóc. An ủi một thiên tài không khó. Chỉ cần im lặng. Lộ không nói gì, chỉ dịu dàng vuốt ve. Ðến khi Trãi nguôi ngoai, Lộ khẽ ru, bài ru những đứa trẻ lạc loài trong thế giới ăm ắp trăm ngàn toan tính. Nội Mật học sĩ Lê Cảnh Xước rằng ‘‘ Quân - Sư - Phụ ’’ đặt thầy sau chỉ Vua, bắt Hoàng thái tử Nguyên Long đến nhà để học. Nghe Xước tâu, Lợi hiểu Trãi khẳng định thêm một lần cái trật tự thứ bậc Khổng-Trình. Không để Long đến căn nhà lá của Nguyễn lão ở Tây hồ, Lợi cấp cho Trãi một tư dinh trong Kinh gần phường Kim Mã. Ở đó, Trãi thảo chiếu ‘‘ Hậu tự huấn ’’ gồm những điều dạy Thái Tử, và dâng lên cho Lợi, ý để mọi người biết nội dung công việc thị giảng đã được vua chấp thuận. Lợi phong Trãi làm Gián Nghị đại phu. Ðến ngày Lợi ban hành chiếu để quần thần ai ai cũng rõ thì Trãi mới cho Nguyên Long đến học.Dẫu Trãi đã cẩn thận phòng thân khi nhận việc thị giảng cho Hoàng Thái Tử, Nguyễn Mộng Tuân vẫn lo ngại. Làm một bài thơ mừng tân gia, Tuân kết:‘‘ Huề hồ nghĩ dục đồng thanh thưởng Giai túy tùy nhân vật độc tinh ’’nghĩa làÔm bầu rót rượu mời nhau uốngSay cùng nhau, chớ tỉnh một mình!để nhắc lại lời khuyên Trãi năm nọ. Trãi chỉ cười, đáp lại: Mừng người, phượng đậu nơi đền các Thẹn ta, mây giạt nhớ trời cao.°Nhìn ông lão tóc trắng, Nguyên Long khinh khỉnh giả như không thấy ai, cất tiếng hỏi trống không:- Ai là Nguyễn Trãi?Ðã nghe tiếng Nguyên Long ngỗ ngược, Trãi không đáp. Lẳng lặng quay ra cửa, Long gọi đám lính Ngự tiền, ra lệnh đưa mình về. Ngơ ngác, tay chưởng đội chạy vào thưa với Trãi. Trãi nói nhỏ vào tai thế nào không biết mà đám lính kéo nhau đi, để mặc Long đứng lại trong sân.Ðứng chán chê, Long lò mò vào. Nó lại khinh khỉnh:- Cho miếng nước!Trãi quát:- Vào nhà thì cởi giày ra! Mi là ai?- Ta là Nguyên Long!- Láo, Nguyên Long là Hoàng thái tử, đâu có ăn nói mất dạy, không trên chẳng dưới như mi. Nếu mi là Nguyên Long, mi có biết Nguyên Long đến đây làm gì không?- Biết, đến để học...- Học có cần thầy không?- Hừm... cần!- Nguyên Long muốn học, thì phải biết kính thầy. Trên là Vua, rồi đến Thầy. Thầy còn hơn cha, mi có biết thế không?-...- Hôm nay, ta đuổi mi về cho mi nghĩ lại. Mai lại đến xem sao!Sáng hôm đó, Nguyên Long lủi thủi đi bộ về Hoàng cung. Chiều Lợi gặp, hỏi biết sự tình. Hôm sau, Long lại đến. Lần này, nó tự động cởi giày, nhưng đứng trân trân nhìn. Trãi bảo:- Khi gặp thầy, vòng tay lại chào! Không biết thì lại về...Ðến ngày thứ ba, Long nghiến răng vênh mặt lên:- Chào thầy ạ!Trãi bảo:- Khi chào, cúi đầu xuống!Nguyên Long vòng tay, cúi đầu, miệng lại nhắc lại lời chào. Lúc nó ngửng lên thì bên cạnh Trãi là Thị Lộ. Nó ngạc nhiên, mắt đăm đăm nhìn. Lộ cười, dịu dàng:- Kính chào Hoàng thái tử! Tiện nữ là Thị Lộ, nội tướng của quan Gián Nghị.Sau buổi gặp gỡ Thị Lộ lần đó, Nguyên Long thay đổi hẳn. Trãi để Thị Lộ dạy Nguyên Long mặt chữ và tập cho Long viết. Phần mình, Trãi giảng kinh nghĩa, chú tâm đến phẩm chất và cung cách con người.Học chữ dễ. Chỉ trong vòng ba tháng, Nguyên Long đã đọc thông Luận Ngữ. Thị Lộ khéo léo khích tính hiếu thắng của Nguyên Long, nhưng Long hình như học chỉ để làm Lộ vui lòng. Với Trãi, Nguyên Long tuy kính nể nhưng vẫn giữ tật ương ngạnh. Một hôm, Trãi nhẹ nhàng:- Hoàng thái tử sẽ lên ngôi Cửu trùng. Vậy có biết làm Vua là để làm gì không?Nguyên Long đáp:- Sách bảo là Thế thiên hành đạo! Còn cha tôi làm vua thì để nhăn nhó kêu đau bụng!Sợ lỡ lời phạm thượng, Trãi tần ngần rồi tiếp:- Hành đạo là thế nào?- Cha tôi bảo là thu hết về một mối và giữ cái ngai vua cho chắc!Biết Long trêu chọc, Trãi lờ đi, lại hỏi:- Thế sách, sách bảo sao...- Sách bảo cứ lấy đời Ðường, Ngu làm chuẩn. Vua hiền thì như Nghiêu, không tham giữ gì cho mình, truyền ngôi cao cho Thuấn, kẻ thương dân đen như thương thân mình.- Hoàng thái tử có làm được như Nghiêu như Thuấn không?- Không!- Tại sao?- Dân thời Ðường - Ngu không như bây giờ. Thời này, hở một cái là ăn cướp, ăn giật. Thầy cứ ra xem ở chợ người ta lừa lọc chửi bới nhau thế nào tất biết!Trãi rùng mình, gượng nói:- Vua Nghiêu vua Thuấn, tất sẽ có dân Nghiêu dân Thuấn...Long cười, giọng rất tự nhiên:- Không phải thế. Dân là dân Nghiêu dân Thuấn, ắt Vua mới không thể khác đi được. Dân Kiệt, Trụ mà Vua lại Nghiêu, Thuấn thì chỉ ba bảy hai mươi mốt ngày là cả trăm cả nghìn đứa nó đè lên cổ. Cha tôi bảo, cái sợ đầu tiên của bậc Ðế Vương là lũ quần thần xung quanh hăm he quyền thế. Vì thế, giữ Ðế nghiệp như đặt cái ghế ba chân rồi ngồi lên thì mới vững!-??? muốn thế thì lúc nào cũng có thể chặt chân ghế. Cha tôi dạy không ngó ngàng thì cái chân ghế nào cũng tự nó cứ dài ra. Muốn chặt, để chúng phạm tội. Cần chặt, mới xử. Ðó là công việc của Nội Mật viện...Nghe Long nói, cơn bực bội của Trãi bùng lên. Nhưng đó chỉ là một đốm lửa. Nỗi buồn như nước triều dâng lên dìm tắt ngấm đốm lửa kia, mênh mang biến thành một niềm ngậm ngùi không bờ bến. Nhìn vẻ thơ dại sót lại trên khuôn mặt tinh quái của Long, Trãi hiểu rằng chưa, chưa hoàn toàn đến nỗi tuyệt vọng. Còn nước, còn tát. Chàng trầm tĩnh, giọng cương quyết:- Hoàng thái tử! Tiên học lễ. Thừa thì giờ ta mới học văn.°- Khi đến nước Vệ, học trò đức Khổng Tử là Hữu hỏi ‘‘ Dân đông rồi, nên làm gì? ’’. Ðáp ‘‘ Làm cho dân giàu! ’’. Hữu lại hỏi ‘‘ Ðã giàu rồi, nên làm thêm gì? ‘‘. Ðáp ‘‘ Phải dạy dân! ’’. Ðó là, có thực mới vực được đạo. Chính trị, trước là làm sao cho dân giàu, sau là làm cho dân trên hiếu dưới hòa, cẩn thận cung kính mà chân tình thật ý, mở lòng nhân yêu cả mọi người... Hoàng tử nghĩ thế nào?Nguyên Long cắn môi, cúi đầu:- Tôi cho rằng thầy...Trãi đưa tay ra dấu, rồi thưa:- Bậc Vương Ðế xưng mình là quả nhân và gọi bầy tôi bằng chức phẩm, xin Hoàng tử để tâm cho...- Quả nhân cho rằng Gián Nghị đại phu nói ý thì vẫn chỉ là ý chung chung, còn làm thế nào thì quả nhân chưa rõ. Trừ một điều, muốn dân giàu thì chớ để quan quân tham nhũng, cướp của hại người, vơ vét của cải... Còn dạy dân, dạy đọc dạy viết thì mở trường, nhưng đại phu cứ xem đám sinh đồ ở Quốc tử giám, chúng nào có biết thế nào là cung kính, hiếu hòa đâu... Quả nhân nghe phụ hoàng dặn đám thẩm hình quan rằng chúng quấy phá thì cứ bắt, cứ giam, cứ phạt mà rồi sau lại đâu vào đấy... Trừ cho sạch thì phải giết hết ư?Trãi lắc đầu:- Không! Bất giáo nhi sát, vị chi ngược. Bất giới thị thành vị chi bạo. Không dạy mà mang giết, gọi là ngược. Không răn mà đòi thành người thì gọi là bạo. Ngược bạo là hai tội ác của kẻ trị dân. Dạy là dạy lễ. Lễ không phải là hình thức nghi trượng. Lễ là nghĩa, phòng điều bất nhân, ngăn ngừa tội phạm. Lễ khác với Pháp. Pháp để trừng trị tội phạm, nhưng khiến dân sợ mà phục tùng. Lễ dùng cái lẽ con người với nhau để dân thuận mà theo. Nhưng dạy thế nào? Lấy thân mình ra làm gương thì không cần nói. Ðó là thượng sách. Nếu thân chưa tu, thì phải giảng. Nhưng giảng đạo nghĩa, như Hoàng tử vừa kể, có người hiểu, kẻ không!Nguyên Long ngắt lời Trãi, mắt nhướng lên:- Bậc Vương Ðế tu thân thế nào?- Chương Thuật nhi, sách Luận ngữ, bảo Chỉ ư đạo, cứ ư đức, y ư nhân, du ư nghệ, nghĩa theo Vương đạo là giữ Ðức, dựa vào con Người, và vui với cái Ðẹp. Ðức người quân tử như gió. Gió thổi thì đức của đám lê dân như cỏ ngả theo. Kết quả là bất lệnh như hành, vô vi nhi trị giả, kì Thuấn dã dư. Không cần lệnh, dân đã tuân. Không can thiệp mà nước đã trị, nghiệp vua Thuấn đạt được như thế đó!°Giá như không có Thị Lộ thì Nguyên Long sẽ tìm mọi cách để khỏi phải ngày ngày nghe Gián Nghị đại phu giảng nghĩa lý kinh sách. Thời gian đầu, Long có dịp là nói ngược những điều thầy dạy. Trãi nói :- Vương đế, cũng là người. Mạnh Tử dạy, vua Thuấn xuất thân từ đám dân cày, Phó Duyệt là thợ nề, Bách Lý Hề ở trong đám lái trâu. Trời trao mệnh lớn cho ai thì thử thách để họ phát động lòng tốt, luyện cái tính mà tăng tài năng. Nhưng Vương Ðế là ngọn. Dân là gốc. Gốc bền, ngọn mới tốt tươi. Muốn cho bền, phải vun xén. An ủi vỗ về dân, sửa cho ngay lòng tin, uốn cho thẳng tính tình, khiến dân an vui với đạo là trách nhiệm Ðế Vương. Muốn thế, vua là vua Nghiêu vua Thuấn, thích lễ thì dân không ai không dám bất kính, thích nghĩa thì dân không ai không dám không phục... Long vặn:-...dám hỏi đại phu, lời Mạnh Tử chiœ ra Vương đạo cho thế gian, nhưng tại sao cuối đời ngài than: trẻ học đạo Nghiêu Thuấn, lớn lên muốn thực hành, ngờ đâu vua chư quốc lại răn là hãy bỏ cái học kia đi mà theo ý ta, thì làm sao bây giờ! Vậy, phải chăng là sau Nghiêu - Thuấn, chẳng bao giờ còn có Nghiêu, có Thuấn nữa? Ngạc nhiên, Trãi lại kiên nhẫn giảng giải, không để ý rằng Nguyên Long dẫu nghe nhưng đầu óc để đâu đâu, thỉnh thoảng lại che miệng giả như đang ngáp. Với Lộ, việc học khác hẳn. Lộ mang Kinh Thi so sánh với những ghi chép bằng chữ Nôm trong Nam Dao chí, ra câu đố, câu ví và tập cho Long làm Từ, làm Thơ, xướng họa với nhau cả buổi. Long một hôm nói:- Giá mà không phải học Kinh nghĩa với đại phu thì Long này có thể xướng họa với phu nhân cả năm mà không chán. Quả nhân nói thật, kinh nghĩa chẳng dùng được việc gì cả!Lộ dịu dàng:- Hoàng tử quên chữ nhẫn. Cần lắm, biết nhẫn là biết đợi. Không nóng vội, không hấp tấp, để nhìn cho xa, nghĩ cho sâu. Quan Gián Nghị dùng kinh nghĩa để trỏ ra lối đi trong rừng thiêng núi thẳm. Ai cũng đi, thì đạp bụi đạp cỏ mãi thành đường. Bỏ bê, cây hoang cỏ dại um tùm tất dấu vết con đường mất đi. Mất là thế nào rồi cũng đi lạc...Ngả người ngồi dựa vào phản, Long nhác thấy bóng mình và Lộ phản chiếu trong tấm gương to bản để cạnh tường. Nó nắm tay Lộ, chỉ:- Phu nhân nhìn xem. Trong tấm gương kia, có phải là Long hay không phải là Long?Chưa kịp phản ứng, Lộ ngạc nhiên thấy giọng Long buồn hẳn đi:- Quả nhân thì đây, chứ không phải là trong tấm gương soi đâu! Nhưng cho đến bây giờ, ai cũng muốn Nguyên Long là cái hình ảnh trong gương, đặt làm thái tử thì làm thái tử. Thái tử phải học, thì bắt học. Học làm vua, thì phải như Nghiêu, như Thuấn. Còn Long thật, ngồi đây, có ai thực tâm đoái hoài tới đâu!Ngỡ ngàng, Lộ nói, giọng ngập ngừng:- Ðâu phải ai cũng được như Hoàng tử! Hoàng thượng đã sắp đặt thế, chắc mẫu hậu cũng vui lòng...Không ngờ nghe đến đấy, Nguyên Long chồm lên chụp nghiên mực ném vào tấm gương. Trong tiếng thủy tinh loảng xoảng vỡ chói tai, Long gào lên:- Ta làm gì có mẹ! Ai là mẫu hậu? Ai? Còn ta, ta không muốn làm vua, không...Lộ hoảng sợ, hai tay đặt lên vai Long, kéo về phía mình, van vỉ:- Hoàng tử yên nào. Cho tôi xin!Trưa hôm đó, Long vuột chạy về Hoàng cung. Ra nhặt những mảnh gương vụn rơi trên nền gạch đỏ, Lộ nhìn vào mặt gương vỡ rạn thành những vệt cong chúi vào những điểm đồng tâm hoắt nhọn. Ðằng sau, thấy khuôn mặt mình biến dạng chồng chéo lên nhau, Lộ bỗng đau xót. Ngay chính Lộ, Lộ nào muốn ở đây, là phu nhân của Gián Nghị đại phu đang chấp hành việc thị giảng cho một ông vua tương lai. Ðời bắt vậy. Trãi không dứt được nỗi khắc khoải của một kẻ muốn uốn nắn thế thời, bỏ đi nhưng rồi cũng phải quay trở lại chốn cung đình, như bị một thứ hấp lực của định nghiệp. Còn nàng, chẳng lẽ đành vậy?Tối đó, Trãi đi chầu về báo sáng mai nhà Vua sẽ chính thức ban chiếu giáng Tư Tề và lập Nguyên Long làm Thái tử kế vì. Lộ thuật lại phản ứng của Long buổi trưa nay. Nghe Trãi kể, Lộ mới biết là đẻ ra, Nguyên Long đã mồ côi mẹ, người đàn bà họ Phạm bị mang tế sống cho thần Phổ Hộ ở giòng sông Ác gần mười năm về trước. Lộ lặng lẽ một hồi rồi thủ thỉ:- Thầy ơi! Có lẽ đã đến lúc nên về Côn Sơn rồi!Trầm ngâm, Trãi liên tưởng đến hoàn cảnh một ông vua thơ dại bị giằng co tung hứng giữa một đám quyền thần lăm le bon chen tranh giành. Thị Lộ lại nhắc:- Sang đầu tháng này, là ngày giỗ ông ngoại...Lúc đó Trãi thốt:- Ừ thì về. Chạnh lòng, Trãi thì thào - Thật tội cho Nguyên Long, không biết phải làm thế nào để giúp được...Nắm lấy tay Trãi, Lộ áp lên môi, giọng bùi ngùi:- Em đã thay thầy, nhắc cho Hoàng tử chữ nhẫn.°Sau khi đã xếp đặt chu đáo việc kế vị, Lợi biết sức mình đã kiệt. Thấy chỉ vài tháng mà Nguyên Long thay đổi, đã biết đọc và viết, bớt trái tính trái nết, Lợi vui ra mặt, bỏ hết thời giờ gần Long. Lợi bảo:- Khi ta chết, con lên ngôi có những kẻ phụ chính. Họ đều lầm lỗi, ta tha nhưng không quên, ghi lại mọi sự việc. Với đám quan lại, ta đã đuổi nhiều đứa ra Diễn Châu, Hoan Châu. Chúng đều căm giận bọn còn tại chức ở triều đình. Khi con đủ sức, lấy chúng nó về, phong lại quan chức, làm chỗ dựa cho mình...- Thưa Phụ hoàng, đủ sức là làm sao?- Ðủ sức là lúc cái chân ghế thứ ba dài bằng hai cái kia. Chưởng quan Nội Mật Nguyễn Thúc Huệ và Thái giám Ðinh Hối là cái chân ghế đó! Con hiểu chưa?-...- Về phần Tư Tề, ta dặn. Thứ nhất, khi lên ngôi rồi thì cấm quan lại không cho giao du đi lại với Tư Tề. Thứ hai, giữ Tư Tề ở Kinh Ðô, không để dời cư đi đâu. Thứ ba, cực chẳng đã thì giáng xuống làm dân, không được giết...- Thưa Phụ Hoàng, tại sao không giết...Câu Long hỏi khiến Lợi giật mình. Quay lại nhìn, Lợi rờn rợn, thấy ánh mắt Long ánh lên như thép nguội. Lợi định bảo, giết nó, nhỡ mày giết phải cha mày thì sao? Nhưng kìm lại, Lợi chần chừ rồi nghiêm giọng:- Anh em không ai đi giết nhau!Cuối tháng bảy năm Quí Sửu, Lợi quyết định cùng Nguyên Long về Lam Sơn bái yết sơn lăng. Lên núi Chí Linh là nơi xưa nghĩa quân bị quân nhà Minh vây hãm, Lợi kể cho Long nghe ba tháng đói khổ, phải giết voi giết ngựa, ăn cây ăn củ, cái chết rình rập trong đường tơ kẽ tóc. Lòng bùi ngùi, Lợi khẽ nói:- Nghiệp nhà đâu phải một sớm một chiều mà có! Buột miệng, Lợi than - Chẳng hiểu có giữ được không...Nguyên Long nghe, nhanh nhảu:- Thưa Phụ hoàng, quan Gián Nghị Nguyễn Trãi khi dạy con có bảo cứ thường thì Ðế nghiệp thịnh ở đời thứ ba. Và kéo cho dài thì được hai trăm năm, đến đời thứ tám, thứ chín...- Ðó là xét trên sử sách thì có thế. Nhưng hậu sự tùy vào nhiều yếu tố, lắm điều không ngờ trước được! Chốn quyền thế như hang rắn. Cổ lai bất độc bất anh hùng!Ðúng, xưa nay không độc thì mấy ai thành anh hùng! Nhìn đám mây đùn thành gò thành đống trên đỉnh non trải ra trước tầm mắt, Lợi hồi tưởng đến thuở bơ vơ chẳng biết đi về đâu. Ngay trên khoảng đất núi chơ vơ này, Lợi đã nghĩ đến chuyện đầu hàng quân Minh khi đám võ tướng mệt mỏi định bỏ kiếm buông cờ. Lạ thay, đúng lúc đó thì Trãi, kẻ chỉ một hai dùng nhân tâm mà chiến đấu với giặc lại là kẻ quyết không chịu qui hàng. Thật ra, nghe theo Trãi nhưng Lợi vẫn nghi rằng một ngày kia nghĩa quân có thể chiến thắng một lực lượng xâm lăng đông hơn đến hai mươi lần. Dụng tâm công chẳng qua là để duy trì cái đoàn quân nhỏ nhoi của mình. Lợi lại cũng không ngờ gió có thể trở cờ, thời có thế có thì con đường tiến về giải phóng Ðông Quan lại thênh thang đến vậy. Lên ngôi vua, hoài nghi trở thành một thứ phản xạ vô điều kiện, kể cả hoài nghi chính mình. Vì thế, Lợi giết Hãn, Chú rồi Xảo. Phần Trãi, người tin, và tin tuyệt đối vào những điều Lợi không bao giờ tin như nhân nghĩa, Lợi chần chừ cho đến lúc thấy vô hại mới tha chết. Vả lại, Lợi dựa vào ai với cái triều đình non trẻ ngỡ ngàng đi tìm mình, không thấy nên chẳng có cách nào khác hơn là núp vào cái bóng quân quyền nhà Minh. Kẻ thù xưa dẫu chiến bại nhưng vẫn là tay trên, có lễ nhạc và nhất là một mô hình tổ chức xã hội chính trị. Còn ta, người chiến thắng? Quay lại mẫu mực Lý-Trần? Hay đi lên phía trước theo gót lịch sử? Nhưng về đâu? Không biết thì cứ giữ rịt lấy ngôi vua! Làm sao hơn được?Nhưng chỉ bám vào quyền hành thì được bao lâu? Nhìn Nguyên Long, Lợi tự hỏi chẳng biết cái quyết định phế Tề lập Long đúng sai thế nào. Nỗi hoài nghi như những tế bào nhiễm độc lại phá ra gậm nhấm xương tủy. Ho lên xù xụ, Lợi cảm thấy rã rời. Những ngày cuối đã đâu đây. Ðiều này là sự chết, điều Lợi không thể hoài nghi được. °Ở Lam Sơn ít lâu, hai cha con Lợi lên đường về Kinh. Lợi lệnh cho đi qua những địa điểm xưa là đường nghĩa quân đi chặn, vây và đánh quân nhà Minh. Khi đến sông Ác, mặc dầu thuyền nhân ra sức chèo, thuyền ngự không qua được sông, cứ nhích lên là lại trôi tuột xuống. Lợi thầm khấn thần Phổ Hộ:- Xưa ta đã hiến Ngọc Trần cho thần, nay còn đòi gì...Ðột nhiên, trời nổi gió xoáy, thuyền ngự quay vòng vòng. Lợi nghe văng vẳng tiếng cười the thé. Rồi tiếng quát:- Cái hạn ba năm tới rồi đó!Từ lúc đó, Lợi hôn mê. Gió ngừng, sông êm, thuyền ngự khi ấy mới qua sông. Ðoàn ngự giá đi gấp về Kinh.Chiều ngày hai mươi hai tháng tám, Thuận Thiên năm thứ năm, thì Lợi tỉnh lại. Cho gọi đám phụ chính và Nguyên Long vào, Lợi nhìn chung quanh, mắt nhướng lên trắng rã, thều thào:- Mọi việc ta đã xếp đặt thế nào, cứ thế ấy mà làm! Ðế nghiệp nhà Lê là của chung...Nắm lấy tay Long, Lợi tiếp:- Các vị phụ chính đều là người dòng họ nhà ta. Con lên ngôi, đừng quên những điều ta dặn.Sử chép, Vua băng hà ở chính tẩm vào lúc sao chổi mọc ở phương Tây.Nhục cốt của Lê Lợi, Thái Tổ nhà Lê quàn ở cung Vạn Thọ hai ngày ba đêm trước khi đưa về Lam Sơn mai táng. Ðại thần từ hàng nhất phẩm trở lên được vào kiến diện tiên đế trước khi tẩm liệm, nối nhau đi mặt mũi thi nhau rầu rĩ, người khóc được cố tình thút thít khiến những kẻ không mau nước mắt tím dạ căm gan. Ðứng đằng trước hai vị hoàng phi, Tư Tề và Nguyên Long nhận những cái vái của đám thần tử, nghiêm nghị nhìn im lặng. Bên cạnh, ba vị phù chính Lê Sát, Lê Vấn và Lê Ngân nét mặt đăm đăm, tính thầm trong đầu những cảm tình riêng tư hoặc ràng buộc ân nghĩa của những kẻ diễu hành qua mặt mình.Ðêm cuối, Long ngồi cạnh thi hài cha. Giữa áo quan lót lụa trắng, Lợi lọt lỏm trong bộ hoàng bào, da tái khô, mặt vô cảm như đất nặn. Hai hàng nến trắng cắm dọc hắt ánh vàng vọt lên trần, lung linh theo gió lùa qua những bức hoành phi, chiếu lên vách hình bóng chập chờn hư thực.Khi đám hoạn quan lui ra, Long ngả người trên chiếc ghế bành trước Lợi vẫn ngồi. Nó chưa bao giờ cảm thấy trơ trọi đến thế. Lần đầu nó chua xót thương thân. Rồi không kìm được, nó hộc lên khóc. Cứ thế, thời gian trôi theo tiếng nức nở ấm ức. Dần dần Long thiếp đi. Nó mơ màng thấy một người đàn bà áo trắng từ sau lưng đến đặt tay lên vai nó, mơn trớn, vuốt ve rồi thì thầm:- Ngủ đi con! Mai mốt là lễ đăng quan! Phải ngủ cho khỏe...- Ai, ai đấy?- Mẹ đây con. Mẹ sẽ về sông Ác. Con phải ở lại đây một mình...- Một mình à, con sợ lắm!- Ai làm vua mà chẳng một mình, đừng sợ!Long ngoái cổ nhìn. Người đàn bà áo trắng nhạt nhòa hóa ra sương khói mờ dần nhưng đủ để Long nhận ra dáng dấp Thị Lộ. Nó gào lên:- Chị, chị ơi! Ðừng bỏ em một mình!Bật dậy, nó vừa khóc vừa kêu, vừa chạy vồ cái không nắm bắt được cho đến lúc Ðinh Phúc, tên hoạn quan thân tín, chạy vào lay.font-family:"Times New Roman"'>Nguyên Long tỉnh ra. Nó lấy tay quệt mắt, mím miệng lại. Từ hôm đó, nó quyết định gọi mẹ là chị. Cách gọi đó thành tục lệ trong cung vua suốt kỷ nhà Lê kéo được quãng ba trăm năm mươi năm sau. Nhưng nói cho ngay, đến năm Ðinh Hợi (1527) đời Cung Hoàng thì nhà Lê mất thực quyền. Họ Mạc tiếm ngôi, rồi sau là thời nhà Chúa với cuộc Trịnh –Nguyễn phân tranh. Cho đến đời cuối cùng là Lê Chiêu Thống thì vị vua này đi cầu cứu nhà Thanh bên Tàu và mất luôn chính danh năm Kỷ Dậu (1789). Nhà Lê thực sự cáo chung như bất cứ những triều đại, sau và trước, mắc tội cõng rắn cắn gà nhà.