Vào thời điểm nghiệt ngã nhất của đời sống, chàng trai trẻ rời thành phố ra ở ngoại ô.
"Từ độ về đây sống rất nghèo
 Bạn bè chỉ có gió trăng theo/.
Những thằng bất nghĩa xin đừng đến/.
Hãy để thềm ta xanh sắc rêu"
(Thơ Nguyễn Bính).
Ôi! Đời sống! Chính xác, chàng chưa bao giờ là người giàu có về tiền bạc cả. Nhưng chàng vỡ ra nhiều thứ.
Chàng giận đời. Đời sống thật bạc, thật lạnh lùng, thật tàn nhẫn, vô cảm, vô luân.
Căn nhà ở ngoại ô. Một nơi không có đường đi lại, bị phủ lấp sau những hàng tre, phía trước có một khe nước thải. Thời buổi chính quyền hăng say giải tỏa để lấy đất mở rộng đô thị, một nơi như thế thật hiếm hoi. Căn nhà gỗ ba gian, có một khoảng sân hẹp. Bậc thềm lên xuống không đắp bằng đất mà bằng đá xanh. Hơn năm mươi năm trước, bậc thềm phủ đầy rêu. Bây giờ vẫn là rêu. Rêu phủ tận ra ngoài ngõ. Buổi sáng. Sáng nào cũng thế, chàng mất bảy phút ba mươi bảy giây để quét lá tre trước khi đi làm. Ngày nghỉ, thời gian quét lá tre nhiều hơn. Chàng thử đếm lá rụng. Lá rụng rất nhiều. Đếm đi đếm lại nhầm lẫn lung tung. Đành bó tay. Lần sau đếm lại cũng chịu thua. Nhưng vẫn đếm. Ở đời, có những chuyện ngu ngơ, vô nghĩa như vậy.
"Đêm qua gió to quá!".
Một buổi sáng, người nhà than như vậy.
"Ừ! Gió to quá!".
Chàng mơ màng phụ họa theo từng nhát chổi tàu cau lẹt rẹt. Đột nhiên chàng nghe tiếng cuốc kêu.
 "Cuốc! Cuốc! Cuốc! Tờ rứt... cuốc... cuốc!".
Tiếng kêu phát ra từ bụi lau sậy dưới khe nước thải bên trái nhà. Chàng chụm hai bàn tay lại, bắt chước tiếng cuốc kêu. Đột nhiên, từ dưới bụi lau sậy có tiếng đáp lại rất giòn giã. "Òa! Òa! Òa!". Rồi im bặt. Thuở nhỏ chăn trâu chàng vẫn thường làm vậy. Nhất là những buổi cho trâu ăn đêm để đi cày, chàng dụ được cả bầy cuốc cất dàn đồng ca rất vui vẻ. Những đêm lầm lũi trên lưng trâu như thế chẳng có gì vui hơn. Chàng nhớ mẹ chàng. Mẹ chàng hay hát: "Cuốc lẻ đôi cuốc ngồi cuốc khóc. Huống chi hai đứa mình tang tóc rẽ đôi". Mỗi lần nghe mẹ hát, chàng thấy cuộc đời là một chuỗi những chia lìa tàn nhẫn. Chàng nhớ cha. Cha chàng thường bảo loài cuốc chung tình hơn loài người. Một trong hai con chẳng may chết thì con kia sẽ kêu hết đêm này sang đêm khác. Kêu đến khi thổ huyết ra rồi chết theo luôn. Lúc chết, con cuốc móc chân treo ngược vào cành gai mâm xôi, mắt trợn trắng.
Chàng đã thấy một con cuốc thất tình như vậy. Nó treo chân chết khô trên bụi mâm xôi bên bờ khe Trảu ở đồng Chèo Bẻo. Hai bên má nó bạc phếch. Chiếc mỏ vốn đỏ au nhưng lông cánh thì đen thui. Đôi mắt không còn trợn trừng được vì bị kiến ăn gần hết. Chắc lũ kiến bạo tàn đã ăn không chỉ mắt mà tận vào óc, vào tim con vật thất tình kia. "Đồ ngu! Mi không biết lấy xương nó đem về!". Mấy đứa bạn chăn trâu nghe kể chửi chàng vậy. Chàng vẫn ngu ngơ. "Đem về làm chi?" "Trời ơi! Mi không biết đâu! Giã nhỏ xương của nó hòa với nước bôi lên tóc đứa con gái nào thì đứa đó sẽ thương mi suốt đời!". Nghe bọn nó nói, chàng bật cười. Bọn nó bằng tuổi chàng nhưng đã ranh mãnh, máu gái lắm. Chàng không tin chuyện bùa chú yêu đương như vậy. Chàng chỉ tin vào niềm tin của người cha đáng kính: loài cuốc lương thiện, chung thủy hơn loài người. Chàng không bao giờ dùng ná cao su để bắn nó như vẫn làm với những loài chim khác.
Dù không tin nhưng chàng cũng tò mò. Hôm sau chàng trở lại bên bờ khe Trảu thì thấy ai đó đã lấy mất con cuốc chết khô trên bụi mâm xôi. Chàng hơi khó chịu. Những đêm cho trâu ăn để đi cày trong tiết tháng tư tháng năm như thế thật buồn tẻ và đơn điệu. Cuộc đời quá im vắng. Rơm rạ ngủ yên. Chỉ có tiếng trâu gặm cỏ sột soạt. Tiếng côn trùng rả rích. Con trâu cày ăn mải mê dọc theo bờ cỏ bên khe. Ánh trăng thượng tuần mờ mờ. Có mấy đụn mây vảy cá xếp lớp thành hình con thú. Chàng mải mê nhìn mây. Đột nhiên, chàng giật mình, tim thót lại. Ngay trước đầu con trâu của chàng có một cô gái đang ngồi. Cô gái đội chiếc nón trắng, mặc áo bà ba sẫm màu. Nón che khuất mặt. Máu chàng như đông cứng lại. Hai quai hàm cũng cứng luôn. Mãi một khoảng thời gian rất lâu chàng mới trấn tĩnh lại. Chàng sờ vào lưng, rút cây liềm cắt cỏ ra nắm chặt trên tay.
- Ai đó? - Chàng quát to, thảng thốt!
Cô gái vẫn ngồi im lìm. Đồng không mông quạnh chỉ có tiếng côn trùng và tiếng của chàng.
- Ai đó? - Chàng quát thêm tiếng nữa, cảm giác như sắp khóc òa lên.
Rất nhanh, cô gái đứng phắt dậy. Cô quay mặt về phía chàng. Con trâu thấy có người vội ngừng ăn, ngẩng đầu lên dò xét. Hai mũi nó thở ra khì khì. Cô gái từ từ giở chiếc nón trắng ra. Trời ơi! Chàng thấy hai bên má cô gái có hai chòm lông vũ bạc trắng. Chiếc mỏ dài và đỏ chót màu càng cua luộc chín. Chàng chết lặng mất mấy giây. Cô gái bỗng bật ra một tràng cười sằng sặc. Tiếng cười vỡ ra thành những tiếng "òa, òa". Chốc lát cô vỗ cánh cái vù và biến mất giữa đồng không. Chàng thúc mạnh hai gót chân vào hông con trâu một cái, phi thẳng về trại. Đến nơi, chàng chỉ kịp cột trâu, nhảy từ lưng trâu xuống lao thẳng vào trại ngồi bệt xuống khóc.
Cha chàng bảo:
- Đừng sợ! Chỗ đó có con ma thất tình. Nó chẳng làm chi được mình. Con người mới đáng sợ! Không có chi tốt bằng con người. Cũng không có chi ác hơn con người. Con người mới đáng sợ!
Con người mới đáng sợ! Con người mới đáng sợ! Điệp khúc ấy đã làm vơi được nỗi sợ hãi trong chàng. Chàng bao giờ cũng chỉ tin vào người cha đáng kính. Một niềm tin mãnh liệt. Cha chàng chỉ là một nông dân. Nhưng là một nông dân có khả năng tiên tri về con người. Những lúc khó khăn nhất, yếu đuối nhất, ngã lòng nhất chàng lại nhớ đến cha mình. "Ta là chiếc lan can nằm dọc ven sông. Kẻ nào có thể nắm được ta thì cứ việc nắm! Nhưng ta không phải là vật nương tựa cho các người". Sức mạnh của người cha đáng kính từ đó mà ra. Một niềm kính cẩn, một sự an ủi vô bờ cho chàng cũng từ đó mà ra!
Một trăm ba mươi tám, một trăm ba mươi chín, một trăm bốn mươi, một trăm bốn mươi mốt... Một trăm... Một trăm... Lại lẫn lộn mất rồi. Chàng vừa quét lá tre, vừa nghe tiếng cuốc kêu lạc lõng trong thành phố, vừa nghĩ đến cha chàng. Vậy là lại lẫn lộn.
Chàng lại nhầm lẫn, lẫn lộn về thiên tính của con người. Bao nhiêu buổi sáng của cuộc đời, bao nhiêu tuần, bao nhiêu tháng như vậy chàng vẫn cứ nhầm lẫn lung tung. Chàng đếm lá tre từ lúc có hai tiếng cuốc cho đến khi có thêm cả bốn tiếng cuốc chim chíp ngoài bờ khe nước thải. Cặp vợ chồng cuốc đã sinh được bốn con. Những con cuốc con đen quàu quạu, tròn như nắm tay chạy nháo nhác bên cha mẹ. Chàng đã nhìn thấy nó trong một lần tình cờ. Đứng trên sân, chàng thử đưa tay ra nhứ một cái. Bốn con cuốc con vụt chạy ra sau lưng bố mẹ. Hai con cuốc lớn đứng dạng chân ra, xòe cánh, xù lông và kêu "òa, òa" rất dữ tợn. Nhìn hai chòm lông vũ màu trắng và chiếc mỏ màu đỏ, chàng giật mình, nổi da gà nhớ lại hình ảnh con ma thất tình ngày chăn trâu bên bờ khe Trảu. Chàng vội quay mặt đi.
Một buổi tối mùa đông. Chàng đi về khuya, đã say khướt. Dạo này đêm nào chàng cũng say. Thời gian này chàng không biết từ chối một cuộc rượu nào cả. Chàng có thể cụng ly với thượng đế. Chàng cụng ly cả với lũ đầu trộm đuôi cướp dọc đường.
Đến trước con đường lớn rẽ vào căn nhà ba gian chàng thấy đèn điện sáng trưng. Người người lố nhố. "Con người ngó rứa mà bạc". "Chuyện chi vậy?". "Thì có chuyện chi đâu. Thằng con về xin tiền cha, cha không cho nó rút dao đâm một nhát ngọt xớt. Đi đời luôn. Mẹ nó bỏ nhà đi theo trai cả mấy tháng nay". Một người khác rẽ đám đông đi qua, vừa đi vừa cằn nhằn. "Tránh ra! Tránh ra cho người ta đi! Chuyện người ta, kệ họ! Có chi công an nó lo!". Chàng cũng bỏ đám đông đi về.
Vừa về đến ngõ rêu, chàng chợt nghe tiếng xe máy đuổi theo. Con đường về nhà vốn tối om bỗng sáng lóa. Hai người đàn ông lạ mặt đi trên chiếc xe máy mang theo khẩu súng hơi. Trên đầu hai gã có hai chiếc đèn pha. Chàng hiểu ngay. Tiếng cuốc lẻ loi giữa thành phố này đã dẫn dụ bọn săn chim cho quán đặc sản. Tiếng kêu của nó quá đặc biệt. Tai họa sắp giáng xuống đầu chúng chính vì tiếng kêu của chúng. Những loài chim khác tiếng kêu nhỏ hơn, ít thống thiết hơn hoặc bọn chúng biết cách bay cao bay xa. Loài cuốc chỉ quen chạy và lủi trong bụi bờ, nào biết cách bay lên để tránh.
Chàng bèn giở trò láu cá.
- Quý vị đi bắt rắn à? - Chàng vừa nói vừa chỉ vào lùm lau sậy bên trái căn nhà dưới khe nước thải - dưới đó có con rắn hổ chúa to lắm. Quý vị bắt được thì bắt giùm tôi.
Hai gã thợ săn nghe vậy vội co người lại.
 "Thôi! Thôi! Tôi đi đây!".
 Hai gã lên xe rồ máy chạy biến. Thời buổi này láu cá rất hiệu quả. Nếu không, đàn cuốc đã bị chúng bắn chết đêm đó rồi. Chàng nghĩ vậy.
Dạo này thành phố mở mang mọi hướng. Đường sá láng o như mỡ. Đèn đuốc sáng choang. Ở căn nhà của chàng vẫn như một thế giới biệt lập. Chỗ sót lại cuối cùng không dành cho những người hiện đại. Chàng cảm thấy mình đang lạc hậu. Chỗ này, chàng nghĩ, nếu dành cho những bậc chân nhân như Phong Thanh Dương hay Trương Tam Phong ở thì hay hơn. Chiều chiều, các vị ấy trở về với ống sáo trúc trên lưng con trâu xanh. Tóc bạc, râu dài quyện với mây bay vần vũ trên đầu. Chàng lại thấy mình hạnh phúc khi được làm người lạc hậu.
Buổi sáng, chàng thôi không còn đếm lá tre rụng nữa. Chàng cảm thấy cay đắng. Chàng biết, đấy là chuyện vô ích, vô nghĩa, thậm chí xuẩn ngốc. Thời buổi bây giờ quân vô đạo quá nhiều. Chúng đã bắn mất những con chim cuốc của chàng. Những con chim cuối cùng sót lại trong thành phố. Chàng đã theo dõi bầy chim bằng ánh mắt trìu mến từ lúc có hai con nay thành một đàn sáu con. Bây giờ buổi sáng chúng không còn được kêu nữa. Có thể chúng đã bị giết chết ngang nhiên giữa ban ngày. Có thể chúng bị giết chết vào ban đêm. Cũng có thể chúng rời bỏ đi nơi khác vì thành phố không còn thích hợp với chúng. Đó không phải là quê hương của chúng. Bụi khói ồn ào, những nhu cầu, thói tật, sự tham lam của con người đã giết chết chúng. Những viên đạn nhằm sau lưng siết cò. Những miếng mồi đường mật có tẩm thuốc độc rải khắp nơi.
Ôi! Những đêm chăn trâu cắt cỏ tuổi ấu thơ. Những đêm vàng ngọc trên cánh đồng rơm rạ tháng tư tháng năm thơm nức cùng tiếng côn trùng rả rích. Tất cả đã qua rồi. Đã vụt qua rồi. Chỉ để lại một tràng cười cùng tiếng vỡ òa như bóng ma thất tình bên bờ khe Trảu. Tiếng vỗ cánh của chúng nghe sao thật lạ lùng.
 

Xem Tiếp: ----