Con sông bên nào cũng lở... Mùa thu gió hào phóng đuổi dài trên những bãi bắp ven sông. Tiếng gió thổi nghe o o bên tai. Gió thổi rối bù những mái tóc cháy nắng. Lũ trẻ chăn trâu chúng tôi tụ tập lại chơi trò bắn súng lệnh. Tiếng cười, tiếng la hét vang cả một khúc sông. Mặt trời lặn xuống núi Chúa từ lâu, nhuộm một màu tím thẫm trên khắp cánh đồng mà chẳng đứa nào chịu cho trâu về. Má tôi đang đào mấy luống khoai gần đó kêu mãi tôi mới nghe. Tiếng má càm ràm: Không áo quần nào chịu nổi với mấy đứa bay. Tóc tai cứ như tổ quạ... Từ lúc anh tôi thả con trâu Bĩnh ra để làm phụ má những công việc nặng nhọc hơn là tôi suốt ngày dính với cái sẹo trâu. Buổi sáng, tôi đi học, có khi chẳng có ai cho nó ra đồng, chỉ cột ở nhà ăn rơm, trừ những buổi nó phải đi cày. Nên mỗi chiều tôi đều cho nó ra đồng từ rất sớm, tìm chỗ cỏ nhiều cho nó ăn no để đến chiều tối quần lại một đám với lũ nhỏ trong xóm ở bãi sông này. Con Bĩnh lúc đó đã no rồi nên cũng chẳng chạy bậy, vừa gặm vừa nhơi, có khi còn nằm luôn xuống trông thật thảnh thơi, chẳng có vẻ gì là cực như trâu cả. Tới lúc tôi chạy lại mở cái dây sẹo quấn ở cổ nó ra là nó tự động cúi đầu xuống để tôi bước lên cái sừng và phóc luôn lên lưng, nhịp chân hai bên hông nó, cứ vậy nó thủng thỉnh đi về nhà. Những buổi chiều ở bãi sông của tôi ngày nào cũng như ngày nấy nhưng tôi chẳng thấy chán bao giờ. Đầu trần, chân trần, quần áo tơi tả vì ba cái trò chơi trốn tìm, vì mài mãi trên lưng trâu nhưng cứ vui như hội. Cũng có bữa trễ buổi cày tôi phải cho trâu ăn trễ hơn mọi ngày, một mình ở lại ngoài bãi sông tôi mới để ý tiếng chim bà bà kêu. Nghe tiếng kêu của nó tự nhiên tôi thấy sờ sợ hơn là thấy buồn như má tôi thường nói. Má tôi nói con chim đó đang khóc bạn. Tôi hỏi: Tại sao lại phải khóc bạn? Bạn nó đi đâu? Má bảo: Bạn nó chết rồi! Từ Chết với tôi lúc đó chẳng có một ý nghĩa gì đặc biệt nên tôi cũng quên nhanh, dù nhiều khi tôi thấy má ngồi nhìn buồn hiu về phía bến sông, nơi tiếng chim vẫn vang âm âm trong lùm cây dừng, nghẹn ngào, thê thiết. Quê nội và quê ngoại tôi chỉ cách nhau một con sông. Con sông mang cái tên đẹp như con gái: Túy Loan. Ngày ấy, suốt một đoạn sông dài dằng dặc chỉ có một cây cầu bắc ngang nối điểm đầu của 2 xã. Nên ngày má lấy chồng, được rước đi trên con đường vòng xa tới 15 cây số. Con đường ấy cho mãi tới rất nhiều năm sau này, khi anh tôi mua về một chiếc xe đạp chở má đi, má mới trở lại gặp nó. Còn suốt mấy chục năm, lúc nào về thăm ngoại má cũng đi tắt ra bến sông mà đi. Có rất nhiều bến trên đoạn sông này, có bến có đò ngang, có bến để dân làng giặt giũ, tắm rửa. Có bến dành cho lũ trẻ chăn trâu về quậy mỗi chiều. Hồi đó sông bồi về phía bên này, những bãi bồi rộng mênh mông đủ cho chúng tôi chạy chơi mỏi chân. Bờ bên kia lở từng đoạn. Những nhà ven bờ phải đóng cọc chống lở. Má thường đi bến ông Năm. Gọi là bến ông Năm vì nhà ông Năm ở ngay bến sông và ông làm nghề đưa đò. Nhưng vì ông Năm ở bờ bên kia nên mỗi khi tới đầu bến bên này là má la thiệt to: Ông Năm ơi, qua chở con về với. Ông Năm dù lúc đó đang ăn dở bữa cơm cũng đứng dậy xuống bến chống đò sang. Ông biết má tôi từ hồi má còn nhỏ xíu. Lần đầu tiên má từ bến sông này kêu ông Năm qua chở con về với mà nước mắt nước mũi ràn rụa, cuống quýt, ông Năm mới biết má được gả về bên này. Ông Năm chỉ hỏi: Bao lâu rồi mới được về? Má tôi chỉ ngồi đó khóc nghẹn. Ông Năm cũng biết tiếng khó của bà nội tôi nên không hỏi thêm gì nữa. Lên bờ không kịp chào ông Năm má cắm đầu mà chạy, bỏ cả cái nón lại trên đò. Khi tôi lớn lên, thỉnh thoảng má cho theo về thăm ngoại. Cũng bằng đường sông. Ngồi trên đò chao qua chao lại, nghe gió thổi giật cả chân tóc, tôi cứ có cảm giác mình đang bồng bềnh ở đâu đó. Má cười nói: đi có một chút mà cũng bị say đò. Có bữa ông Năm không có nhà má dắt tôi lội sông. Qua đến giữa sông, nước ngập ngang cổ tôi, má úp cái nón xuống mặt sông cho tôi vịn, má vừa lội vừa đẩy tôi qua. Chỉ có lúc lội qua con sông này để về thăm ngoại tôi mới thấy má vui, mắt má lấp lánh lại còn đùa giỡn tạt nước với tôi. Đó là những ngày tươi đẹp, hồn nhiên nhất trong đời mà mãi sau này mỗi khi ngồi nhớ lại tôi mới cảm nhận được. Lũ trẻ chăn trâu ngày ấy giờ mỗi đứa mỗi nơi. Có đứa thành ông này bà kia, có đứa lấy chồng, lấy vợ ở lại làng tiếp tục với những mảnh ruộng. Tôi cũng lang thang xứ người, lao đao lận đận... Lâu lâu mới về thăm má mà có khi cũng không kịp ghé ra bãi sông. Má tôi giờ chỉ quanh quẩn với mảnh vườn nhỏ bên nhà. Chỉ thi thoảng mới ra bãi sông. Ngoại mất đã lâu, má cũng không còn nước mắt đầm đìa cắm đầu chạy về bên ấy nữa. Sau khi ông Năm mất, bến ông Năm cũng không còn lại chút dấu vết nào, đất sạt lở vào sâu cả mấy căn nhà. Mà nhiều năm rồi đâu còn ai kêu Đò ơi nữa. Hình như chỉ có má là nhớ tiếng gọi đò, nhớ tiếng chim bà bà buồn bã trong những chiều hiu quạnh. Bây giờ người ta bắt cầu khắp nơi. Cầu nọ cầu kia đủ cả, làng này bắc cầu, làng kia cũng bắc cầu. Nhưng con sông giờ không chỉ lở về bên kia. Cả hai bờ đầy những vết thương sâu hoắm. Người ta nói do mấy chiếc ghe hút cát, hút hết năm này qua năm khác, hết khúc trên xuống khúc dưới, con sông quằn quại sạt lở khắp nơi như một cơ thể đầy thương tích. Rồi luật cấm cũng được ban ra khi đã quá muộn. Tôi không còn thấy những bãi bồi ngút mắt, mỏi chân ngày xưa. Không thấy những bến sông tấp nập mỗi chiều. Cái mà con người tìm cách bảo tồn còn không giữ được huống gì cái mà người ta có ý thức phá. Vả lại có ai đi giữ gìn nổi những góc ký ức của mỗi người? Chiều nay, tôi thấy nhớ quá tiếng chim bà bà, thương con sông nhìn bên nào cũng lở, nó mòn mỏi trôi, đau xót trôi, cuốn theo một thời thiếu nữ của má, một thời tuổi thơ của tôi... Thu Hoài