Chương 1

Thứ sáu, 24.06.2005
Chúng tôi tới Hong Kong vào đúng 7:08, giờ địa phương. Ngoài trời 25 độ C. Thời tiết xấu. Mưa lớn, gió mạnh. Chiếc máy bay phải bay vòng vòng trên bầu trời khá lâu mới được lệnh hạ cánh.
Chúng tôi hơi mệt. Suốt 10 tiếng đồng hồ bay từ Frankfurt tới đây, hai vợ chồng chỉ chợp mắt được một hai tiếng đồng hồ vì phải trông ba đứa con còn nhỏ.
Từ trên cao nhìn xuống, Hong Kong hiện ra như một Singapore thứ hai với nhiều hòn đảo nhỏ lấp lánh trong ánh đèn. Vô số những tòa nhà chọc trời nhô cao lên bầu trời. Đường sá chạy ngang dọc như bàn cờ. Tàu bè ở đây đóng theo kiểu Âu châu, trắng như sữa, đậu kín các bãi đáp. Nhiều chiếc đang lướt mình trên biển cả.
Đoạn đường từ lúc máy bay đáp xuống cho đến khi ngừng hẳn rất xa cho biết sân bay này rất rộng. Cơ sở hạ tầng hoàn hảo. Vô số máy bay quốc tế đậu khắp nơi. Máy bay đến và đi nườm nượp.
Hai cô tiếp viên phi hành đoàn đứng ngay cửa giã từ chúng tôi. Họ niềm nở một cách tự nhiên. Suốt hành trình họ đã ân cần lo lắng cho khách hàng, không quản ngại bất cứ điều gì, đặc biệt là không bao giờ thiếu nụ cười trên môi. Đối với người già cả, trẻ em, họ càng lưu ý nhiều hơn. Phải nói, Cathay Pacific là một hãng máy bay có phong cách phục vụ khách hàng rất ân cần theo kiểu Á đông, chìu khách hết mình. Ngay đến một chuyện nhỏ, muốn ăn mì gói, dẫu thứ này không nằm trong thực đơn, vẫn có như thường.
Cathay Pacific đã thành công qua sự tự thể hiện tính hiếu khách truyền thống của người Á châu. Biết khai thác vốn văn hóa, tinh thần sẵn có ấy, họ đã trở thành hãng máy bay số một của thế giới.
Chúng tôi băng qua khu chuyển tiếp. Nhân viên hải quan mặc đồng phục, áo xám nhạt, quần đen tươm tất, uy nghi như sĩ quan quân đội. Họ tươi cười chỉ dẫn khách đường đi, giúp khách đưa xách tay vào máy rà hành lý. Tôi có cái đồng hồ đeo tay để trong túi quần. Khi người nhân viên rà người tôi, máy reo lên, anh ta mỉm cười trấn an "Ông đừng lo, máy reo vì phát hiện ra kim loại. Xin ông cứ lấy vật trong túi ra là xong". Tôi rút chiếc đồng hồ ra. Anh ta nhìn thấy, gật đầu hai ba cái, cảm ơn, rồi giúp tôi lấy nhanh hành lý ở đầu ra của máy rà.
Cách cư xử của nhân viên hải quan Hong Kong tuy nghiêm chỉnh nhưng lịch thiệp, vui vẻ, tận tình giúp đỡ hành khách, chứ không hách dịch đã thuyết phục tôi rằng họ không đến nỗi xấu xí như "người Trung Quốc xấu xí" của Bá Dương.
Rời trạm hải quan, chúng tôi tìm cổng 36, đổi máy bay đi Sài Gòn.
Vào sâu bên trong, du khách hẳn sẽ ngạc nhiên trước một kiến trúc hiện đại sang trọng không thua kém gì Âu châu. Vật liệu chính là kiếng, thép và cẩm thạch. Nhiều đường nét làm tôi liên tưởng đến phong cách hậu hiện đại của Trần Viết Tuyên khi thiết kế phi trường Stuttgart từng được đánh giá là đẹp nhất châu Âu. So với phi trường Singapore hay Bangkok có lẽ nơi này có nhiều cửa hàng duty free hơn. Tuy không thể sánh với mức đồ sộ của phi trường Frankfurt nhưng nó cũng quá đủ lớn đối với một vùng đất nhỏ bé. Hong Kong văn minh, trật tự, tiện nghi, sạch sẽ. Nhà vệ sinh ở đây còn sạch sẽ và tân kỳ hơn ở Frankfurt. Tường và sàn đều lót đá cẩm thạch. Nhà cầu, bồn rửa tay, tiểu tiện bóng loáng. Nước xả tự động. Đến giấy vệ sinh cũng thuộc loại tốt. Không khí hoàn toàn không có mùi hôi. Trong nhà vệ sinh tuyệt đối cấm hút thuốc. Bên ngoài cũng thế. Người hút thuốc có phòng riêng bên cạnh. Phòng hút thuốc, ngoài bọc kiếng, trong cũng được lát đá cẩm thạch sang trọng, có máy lạnh, có ghế salon ngồi thoải mái như ở bên ngoài.
Phi trường Hong Kong đẹp nhưng cũng có cái bất tiện là lối đi quá dài giống như phi trường Amsterdam, Singapore vậy. Dù có đường cuốn, người già cả, trẻ con vẫn bị khó khăn khi phải di chuyển quá xa từ cổng này sang cổng khác.
Du khách Tây phương đến Hong Kong tấp nập. Da vàng da trắng trà trộn lẫn nhau rảo bước với hành lý của mình. Gọi là da vàng nhưng người Hong Kong khá trắng, vóc dáng cao, ăn mặc đẹp, lịch sự, hiếu khách, không tỏ vẻ khinh thường người Á đông khác, chẳng hạn như khi họ gặp tôi. Tôi trò chuyện với họ bằng tiếng Anh. Người Hong Kong nói tiếng Anh hơi khó nghe.
Chúng tôi đã tìm được cổng chuyển tiếp. Mọi việc xảy ra hết sức đơn giản và nhanh chóng: chỉ qua một cổng hải quan là tới đây. Khách xếp hàng chuẩn bị vào máy bay. Người già cả được ưu tiên làm thủ tục trước. Người có con nhỏ cũng được ưu tiên. Nhân viên hàng không làm việc nhanh nhẹn, gọn gàng. Họ đến tận từng người khách đang đứng xếp hàng để xem lại vé và hộ chiếu, chứ khách không cần đợi đến phiên mình được xé vé nơi quầy. Khách đi Việt Nam khoảng 200 người, đa số là người Việt và người Hoa. Số còn lại là du khách Tây phương, khoảng chục người.
Đúng 8:55, chúng tôi rời Hong Kong.
°
Còn vài tiếng nữa là đến Việt Nam. Chín năm rồi tôi chưa về lại. Riêng bà xã tôi thì đây là lần đầu. Đã đến lúc cho mấy mẹ con về thăm nhà và nhất là cho bên nhà biết mặt ba đứa nhỏ. Chúng tôi có ba đứa con. Thằng lớn năm tuổi. Hai đứa nhỏ sinh đôi gần ba tuổi, một trai, một gái. Lũ trẻ nóng lòng hỏi mãi "tới Việt Nam chưa ba?".
Tôi cũng cảm thấy nôn nao như tụi nhỏ. Không biết Việt Nam giờ ra sao, nhưng vẫn tin rằng, đất nước phải khá hơn xưa, phải đẹp hơn, văn minh không kém ai; đời sống dân chúng phải thoải mái hơn, trình độ dân trí phải cao hơn, không thua kém gì dân Hong Kong. Xem đài truyền hình VTV 4 ai cũng thấy bộ mặt Việt Nam hôm nay sáng sủa hơn xưa rất nhiều. Thật đáng mừng. Đọc báo Tuổi Trẻ, VnExpress, tôi thật cảm động trước những hình ảnh kiều bào được chào đón nồng nhiệt nơi phi trường; các cụ già, gia đình có con nhỏ được được người tình nguyện giúp đỡ tận tình. Truyền thống người Việt xưa nay là vậy, có tình người, hiếu khách chứ không lạnh lùng như dân Âu châu.
Tôi đã về Việt Nam làm việc vài lần. Nhưng lần này, cũng như 1996, tôi chỉ muốn làm một người bình thường về quê thăm nhà, nghỉ ngơi, đi chơi cho thoải mái, nhân tiện, gặp gỡ nhóm ngôn ngữ học, bạn bè và ghi lại những gì mình thấy, mình cảm nghĩ trong những ngày sống ở đây để kể cho mọi người cùng nghe. Riêng bà xã tôi thì lại muốn sinh hoạt với gia đình, bạn bè và cũng ủng hộ chương trình của tôi. Trong dịp này, tôi còn quan tâm đến đề tài ẩm thực Việt Nam.
°
Chiếc máy bay mang số CX 767 Cathay Pacific đang lượn vòng vòng trên không. Ngó xuống, Sài Gòn bên dưới. Tôi có thể nhận ra con sông Đồng Nai nước đỏ ngầu và con sông Sài Gòn uốn khúc ngay bán đảo Thanh Đa. Bầu trời Việt Nam trong vắt, không một áng mây. Nhà cửa bên dưới lúc nhúc, cái cao, cái thấp. Xa xa là những ngôi nhà mái ngói đỏ của một vùng ven đô nào đó. Đường sá hiện ra càng lúc càng lớn hơn, ngập tràn xe gắn máy như hai đàn kiến bò ngược chiều. Trên mặt đất, màu của nhà cửa, đường sá nhiều hơn màu xanh cây cỏ. Càng xuống sâu mới thấy mật độ xây dựng dày đặc chiếm hết thiên nhiên.
Ngồi bên cạnh tôi là một cô người Việt ở Mỹ thường về Việt Nam. Cô giải thích, bên dưới là khu Rạch Dừa, cầu Sài Gòn, rồi đến làng Đại học Thủ Đức. Chiếc máy bay lượn một vòng nữa tới Bình Quới, Gò Vấp, Tân Bình,... cuối cùng đáp xuống phi đạo và thắng gấp. Phi đạo không được bằng phẳng lắm làm máy bay tưng tưng, kêu kình kịch. Sau vài phút máy bay ngừng hẳn. Đường vào nhà khách phi trường quá ngắn.
Sân bay Tân Sơn Nhất hôm nay không thay đổi mấy. Vẫn những vòm bê tông hình chữ U làm nơi tránh pháo kích cho phi cơ chiến đấu, cũ, đen mốc và loang lổ. Vẫn lác đác vài khu nhà kho, trạm bảo trì máy bay đã xuống cấp trầm trọng. Hai chiếc máy bay trực thăng cũ kỹ của Liên Xô phơi mình giữa nắng. Hai chiếc Airbus của hãng Vietnam Airlines sơn trắng mang biểu tượng con chim. Chỉ có một chiếc Boeing lớn sơn xanh mang biểu tượng hoa sen vàng. Ngoài ra không có một chiếc máy bay hãng quốc tế nào khác ngoại trừ chiếc Boeing của Cathay Pacific mà chúng tôi đang ngồi trong đó.
Xa xa bên tay trái là một khu rất lớn đang được xây dựng, hình như là phần mở rộng của phi trường.
Khác với mọi nơi trên thế giới, sân bay Tân Sơn Nhất có một điểm đặc biệt là chỗ nào cũng treo cờ quốc gia. Ở đằng xa có một dãy nhà còn kèm thêm những lá cờ xanh, đỏ, trắng, vàng, hồng, tím nhạt,... Không hiểu sao các nước Cộng Sản thích treo những lá cờ như thế, có ý nghĩa gì.
Mặt đường nhựa bốc hơi nóng làm hình ảnh lung linh như những bóng ma. Tôi đoán bên ngoài rất nóng. Vài công nhân áo xanh, gầy gò lểu thểu bước đi. Một số ngồi chồm hổm dưới mái hiên, tránh nắng.
Cái tiến bộ của phi trường Tân Sơn Nhất ngày nay là hành khách có thể đi thẳng từ máy bay xuyên qua đường hầm di động vào tận sảnh đường thay vì phải đi xe bus. Bước vào trong, phòng có máy lạnh mát mẻ. Khu này hình như mới được sửa lại sau này. Tuy không hiện đại nhưng rộng rãi hơn xưa và sạch sẽ. Một bà công nhân mặc đồng phục xanh kiểu quần áo bà ba đang cầm chổi quét nơi này một chút, nơi kia một chút. Đối với du khách, đây là cái lạ đầu tiên khi vừa đặt chân tới Việt Nam. Ở những xứ khác, công việc quét dọn đều được sắp xếp vào lúc vắng người, không ai cầm cây chổi đi lều bều giữa chốn đông người như thế. Rất thiếu thẩm mỹ. Ở phi trường lại càng không nên vì đó là bộ mặt của quốc gia mà người ngoài sẽ nhìn thấy đầu tiên khi đặt chân đến.
Cái nhận xét tổng quát của tôi ngay lúc bước vào trong sảnh đường là phi trường Tân Sơn Nhất còn thô sơ và quá nhỏ so với phi trường của Bangkok, Singapore, Hong Kong. Du khách Tây phương quá ít. Hầu hết là kiều bào về thăm nhà. Không nhờ số đông này, có lẽ không khí còn vắng nữa.
Chuyến bay đến trễ hơn một tiếng do thời tiết xấu dọc đường. Chắc chắn người nhà chúng tôi đang nôn nóng đợi bên ngoài. Giống các nơi khác, trước hết du khách làm thủ tục nhập cảnh. Phi trường Tân Sơn Nhất có khá nhiều quầy công an làm việc này. Nhiều hơn Frankfurt. Trước sau gì cũng trễ, chúng tôi không hấp tấp, chấp nhận làm những hành khách cuối cùng. Giả như ở Hong Kong, người già cả, gia đình có con nhỏ sẽ được ưu tiên làm thủ tục nhanh hơn, nhưng ở Việt Nam thì không.
Chúng tôi xếp hàng sau cùng. Trước chúng tôi là 6 người. Người thứ nhất đang bị công an hỏi giấy. Anh ta thiếu tờ giấy màu vàng mà tiếp viên hàng không đã phát cho mỗi người trên đường đến Việt Nam, đại để là dùng để kê khai tên tuổi, đến Việt Nam làm gì, đã bao lần, mang theo bao nhiêu đô la, có mắc bệnh truyền nhiễm không,... Anh ta bị buộc phải đến một quầy cuối dãy nhà để làm thủ tục ấy.
Hai người kế tiếp có lẽ là thương gia Nhật, Đại Hàn hay Đài Loan gì đó. Mỗi người trình giấy tờ, chỉ sau một phút là xong.
Người thứ tư là một phụ nữ Việt dắt đứa con. Cô chìa hộ chiếu Mỹ, mặt lộ vẻ lo sợ. Tuy vậy mọi việc đã diễn ra nhanh chóng và êm đẹp. Trước khi ra ngoài, cô trở lại nói với nhỏ với cô bạn đứng sau "Phải! 5". Cô bạn liền rút tiền nhét vào hộ chiếu. Người trước thoát, vào trong đứng đợi người sau. Những gì vừa xảy ra làm tôi hơi bất nhẫn, nhưng nó vẫn xảy ra bất chấp điều lưu ý trên tấm bảng yết thị treo trước mặt: khách không để tiền trong hộ chiếu.
Đến phiên chúng tôi, hai người lớn, ba trẻ nhỏ, tôi đưa ra giấy tờ đầy đủ. Tôi nhất định không cho ăn, xem anh công an này làm gì. Tôi ghi nhớ tên anh trong đầu.
Anh công an kề cà hỏi đủ thứ, cháu nào sinh đẻ ở đâu, quốc tịch gì, dầu đã biết các dữ liệu có ghi bằng tiếng Anh trong hộ chiếu Đức mà anh đang cầm trong tay. Cử chỉ anh thật chậm chạp. Đến phiên xem hộ chiếu tôi, người đã có quốc tịch Đức, anh ta giở từ trang này sang trang khác như thể trong đời làm việc, anh chưa hề thấy một cuốn hộ chiếu như vậy. Phải mất 15 phút, anh mới đánh xong tên tuổi vào máy tính. Kiểm tra lần nữa, xem hình t pháo, mắm tôm, dưa chua, canh cua rau đay nấu mướp, rau muống xào tỏi, cá trê chiên chấm mắm gừng,... Đại loại là vậy. Đơn giản, bình dân, nhẹ bụng, ăn hoài không chán. Giá cả ở đây cũng phải chăng. Đồ ăn nấu không ngọt. Đúng gu người Bắc.
Chi nhánh "cơm bà Cả" này đông khách không thua kém các chi nhánh khác. Khách gồm đủ dân ba miền chứ không riêng gì dân Bắc. Người Việt hải ngoại khá đông.
Quán ăn ngon nhưng vẫn kém về mặt vệ sinh. Giống như Trà đạo, Võ đạo, có lẽ Việt Nam cần một cái nữa là Thực đạo để xứng đáng là bậc thầy của thế giới về nghệ thuật ăn uống.
Tôi đã được dịp đi nhiều nước và được thưởng thức nhiều món ăn địa phương nhưng chưa thấy nơi nào bằng Việt Nam. Đồng nghiệp tôi cũng có cùng nhận xét. Việt Nam, nhìn chung, không có kỹ thuật, không làm được gì khó ngoài biệt tài nấu ăn và tính hiếu khách.
Cho nên, biết cách phát triển và hoàn thiện về Thực đạo, Việt Nam dễ dàng trở thành một địa điểm du lịch ẩm thực độc nhất vô nhị trên thế giới. Phải làm sao tạo được một hình ảnh đặc trưng, giống như nhắc đến Mỹ, người ta sẽ liên tưởng đến Wall Street; nhắc đến Đức, người ta sẽ liên tưởng đến chiếc Mercedes; nhắc đến Ba Tây, người ta sẽ liên tưởng đến bậc thầy về bóng đá. Còn nhắc đến Việt Nam, người ta sẽ liên tưởng đến cái bếp của thế giới: Bạn thích ư? Hãy đến Việt Nam ăn. Vừa ngon, vừa rẻ, vừa lành, vừa sạch, vừa thanh. Bạn sẽ được tiếp đãi nồng hậu và được thưởng thức món ăn đặc biệt của từng vùng, bất kể nơi nào bạn tới: Huế, Sài Gòn, Hà Nội, Phú Quốc, Cần Thơ, Tây Ninh, Vũng Tàu, Phan Thiết, Mũi Né, Cam Ranh, Nha Trang, Đà Lạt, Ban Mê Thuộc, Pleiku, Tuy Hoà, Hội An, Đà Nẵng, Quảng Trị, Thanh Hoá, Sầm Sơn, Hải Phòng, Vịnh Hạ Long, Điện Biên Phủ, Lạng Sơn, Bắc Kạn, Lào Cai, Cao Bằng,...
Đã trở thành một trung tâm du lịch ẩm thực lớn nhất thế giới, Việt Nam sẽ có nhiều việc làm. Không cần xuất khẩu gạo, trái cây, tôm cá,... với giá rẻ mạt. Bảy tám chục phần trăm dân số là nhà nông, ngư dân tha hồ mà sản xuất cung cấp sản phẩm tươi cho cái bếp toàn cầu ngay tại chỗ. Những vùng hẻo lánh cũng trở nên thịnh vượng. Chính những vùng hoang dã mới là điểm du khách xứ kỹ nghệ muốn tới. Khách vừa vui tinh thần, vừa gián tiếp giúp chính phủ xoá nạn đói nghèo.
Nói tóm lại, ngay lập tức, Việt Nam nên biến mình thành một trung tâm du lịch ẩm thực độc đáo của thế giới nhờ sở trường vốn có của mình. Đừng để các nước láng giềng Trung Quốc, Thái Lan,... qua mặt. Phải gấp rút nghiên cứu thật kỹ, đón nhận ý kiến kiều bào, du khách nước ngoài, nắm rõ tâm lý khách đến thăm Việt Nam, lập bài bản phát triển một cách chuyên nghiệp.
°
Trời đã quá trưa. Về nhà, tắm rửa mát mẻ, ngủ được một giấc ngon lành.
°
Chiều nay Cao Xuân Hạo mời tôi tới chơi với nhóm ngôn ngữ học của ông. Thay vì đến trường Sư phạm, ông đề nghị tôi đến thẳng "quán sinh viên" Lotus, 369 Nguyễn Trãi.
Anh tài xế taxi quen thuộc chở tôi đi. Đến 369 Nguyễn Trãi, không phải. Xe quay đầu về hướng Sài Gòn dò địa chỉ 369 Nguyễn Trãi khác thì gặp. Một con đường mà có nhiều địa chỉ cùng số, tuỳ phường, tuỳ quận. Một sáng kiến lạ lùng.
"Quán sinh viên" Lotus nhỏ, sạch sẽ, đèn để vừa đủ sáng, ấm cúng. Không khí không có vẻ "sinh viên" cho lắm. Khách phần đông đều cỡ tuổi trung niên trở lên. Phong thái lịch lãm, đạo mạo, từ tốn.
Cái bàn nhỏ bé đủ sức chứa một làng ngôn ngữ học mini gồm Cao Xuân Hạo, Bùi Mạnh Hùng, Hoàng Dũng, Hoàng Xuân Tâm, Nguyễn Đức Dương, những tên tuổi gạo cội thuộc trường phái Ngữ pháp Chức năng (Functional Grammar) ở Việt Nam.
Đáng mừng thay dần dần ở Việt Nam đã có những cái hội nhỏ, câu lạc bộ nhỏ được sinh hoạt trong bầu không khí độc lập, thoải mái, không sợ công an canh chừng. Thực ra, đối với người sống ở miền Nam trước 75, chuyện này rất bình thường. Ở các xứ khác hoặc ở nơi tôi đang sống, việc lập đoàn thể sinh hoạt độc lập cũng rất bình thường, miễn hữu ích, đừng vi phạm pháp luật và điều quy ước. Còn ở Việt Nam, tự do lập hội trên thực tế hình như vẫn còn bị giới hạn, dù nó hoàn toàn hữu ích. Tôi không hiểu tại sao. Hay tại chính quyền muốn tránh những ý kiến đối lập? Thế nhưng đối lập một cách xây dựng vẫn hữu ích chứ? Tự do mang tính xây dựng rất cần thiết cho sự phát triển đất nước và đáng phải có hơn là những tự do quá trớn như giao thông hỗn độn, xây dựng tự phát,...
Mặc dầu tôi được hiểu là người thiên về trường phái Ngữ pháp Tạo sinh nhưng vẫn không bị nhóm Ngữ phái Chức năng "kỵ rơ". Buổi gặp gỡ thật thoải mái, thân tình. Chúng tôi vừa thảo luận, vừa nói chuyện đời vui vẻ, chỉ tiếc là tôi không uống được rượu vang.
Dùng Ngữ pháp Chức năng để giải thích tiếng Việt tôi cho là một lựa chọn thích hợp. Theo như những gì tôi đọc được của nhóm Cao Xuân Hạo, phải nói, họ đã thành công. Những công trình nghiên cứu có bài bản, trường phái rõ rệt, có giá trị thuyết phục. Ngoài Trương Vĩnh Ký, Nguyễn Tài Cẩn, hầu như tôi chưa tìm thấy một tác giả nào có thể giải thích tiếng Việt đúng đắn và dễ dàng như nhóm Cao Xuân Hạo. Nguyễn Kim Thản, một nhà ngôn ngữ danh tiếng ở Hà Nội, cũng không thành công cho lắm.
Như đã nói, điều đáng mừng là Việt Nam đã có một nhóm ngôn ngữ học có trường phái hẳn hòi. Tuy nhiên điều quan trọng nhất vẫn là cho phép người có tâm huyết được tự do làm việc một cách độc lập. Được vậy mới giải quyết được vấn đề, chẳng hạn những vấn đề liên quan đến tiếng Việt hôm nay. Làm sao để người Việt biết nói những tiếng cực kỳ đơn giản như "Xin lỗi", "Cảm ơn". Làm sao để công chức, cảnh sát, cán bộ biết dùng cụm chữ "xin vui lòng" giống các dân tộc khác, văn minh, lịch sự. Làm sao giảm bớt tệ nạn chửi thề. Làm sao soạn sách giáo khoa Việt ngữ tốt hơn. Làm sao đào tạo giáo viên Việt ngữ tốt hơn. Làm sao để người làm việc trong ngành thông tin đại chúng sử dụng tiếng Việt giỏi hơn, văn chương hơn hầu giúp người dân nâng cao phẩm chất tiếng Việt. Làm sao hiện đại hoá được ngành ngôn ngữ học trong thời đại tin học ngày nay mà Việt Nam đang bị thế giới bỏ quá xa. Làm sao để các nhà ngôn ngữ học ngồi lại với nhau mà làm việc.
Thứ ba, 19.07.2005
Sáng nay H. đưa chúng tôi đi thăm trường cũ. Đúng 8:00, cô bạn đến đón L. và tôi.
Ngày xưa L. học bên Khoa học, còn tôi bên Nông nghiệp IV. Hai trường láng giềng cùng nằm trong làng đại học Thủ Đức.
Đại học Nông nghiệp IV đã đổi tên thành đại học Nông Lâm T.P. Hồ Chí Minh. Trên chuyến du lịch từ Đà Lạt về lại Sài Gòn, chúng tôi có ghé lại đây nhưng người ta không cho vào. Hôm nay chúng tôi chính thức được vào trong sau khi đã thông báo với người bảo vệ có giảng viên C. của trường sẽ hướng dẫn chúng tôi thăm lại trường cũ.
Con đường chính chạy thẳng tới khu giảng đường hình chữ U. Hai hàng cây dầu lúc chúng tôi trồng còn bé tí, giờ, sau ngót 30 năm đã thành những cây cổ thụ cao ngất. Nhiều cây đã chết. Thay vào khoảng trống là cây mới trồng còn thấp, không cùng giống.
C. còn trẻ, thua chúng tôi mười mấy khoá, hiện là giảng viên của trường. Anh dẫn chúng tôi đi thăm nơi làm việc của anh. Trong văn phòng của anh có treo một tấm bản đồ thế giới bằng tiếng Đức. Anh kể đây là phòng làm việc của một giáo sư người Đức, sang Việt Nam làm việc với trường được vài năm và đã quay về nước.
Khu này ngày xưa hoàn toàn trống trải, giờ đây là một khu nhà mới được xây dựng. Cảnh vật bên hông nhà cũng đổi khác. Tôi còn nhớ ngày xưa có một con đường mòn đất đỏ dẫn ra một cái hồ thiên nhiên mà chúng tôi thường bơi lội vào mỗi buổi chiều. Cái hồ ấy cũng là nơi các chị tập bơi và thỉnh thoảng khóc thét lên vì bị đỉa bám vào người. Con đường mòn giờ cũng không còn thấy nữa.
Khu giảng đường hình chữ U xuống cấp thảm hại. Cây phượng trong sân trường lúc chúng tôi trồng còn bé, giờ cũng đã già cội. Giữa mùa hè, hoa phượng đỏ vẫn còn nở rộ trên những cành cây. Lác đác một vài băng đá. Chỗ này, vài sinh viên đang ngồi học bài, chỗ kia một đôi tình nhân đang kề vai chuyện trò tình tứ.
Bên ngoài nắng chói chang, bước vào trong, không gian đột ngột tối. Tôi muốn đi thăm lại hội trường.
Hội trường nằm bên cánh phải của cấu trúc hình chữ U, rộng như một rạp chiếu bóng. Đây là nơi cả đám sinh viên đông như kiến từng tới đó không phải để nghe giảng về một môn học chuyên môn, hoặc xem chiếu bóng mà là nơi đến để nghe giảng về chính trị. Đây còn là nơi tiễn đưa sinh viên đi bộ đội, được gọi là những người "tình nguyện" được hân hạnh đứng vào hàng ngũ Quân đội Nhân dân đi làm nghĩa vụ cộng sản quốc tế, giải phóng Campuchia khỏi ách quân Khmer Đỏ. Đó là vào năm 1978. Bây giờ là năm 2005. Tôi muốn ghé vào trong thăm lại nhưng cánh cửa đã đóng.
C. dẫn chúng tôi lên lầu. Lầu 3 là khu Thuỷ Sản. Tôi nhớ vậy. Giờ vẫn vậy. Những phòng học vẫn mang số 301, 302,... nơi chúng tôi từng học môn sinh hoá, di truyền học,...
C. đưa chúng tôi đi thăm thầy cũ. Người đầu tiên là cô Y. Phải lục lại trí nhớ, tôi mới biết bà là ai. Tôi nhớ mang máng bà từng phụ trách môn sinh vật năm đầu, lúc trường còn ở đường Đinh Tiên Hoàng dưới phố. Từ từ tôi mới nhớ thêm chi tiết; bà giáo hay mặc áo blouse trắng thường cho chúng tôi bài tập mổ con cá, con giun, con thằn lằn,... xong rồi vẽ lại những bộ phận bên trong. Tôi còn nhớ, mổ nát con cá xong, không vứt đi mà bán lại cho công nhân viên nhà trường trong thời buổi kinh tế khó khăn.
Không riêng tôi, lâu lắm rồi H. cũng không về trường. Để hai thày trò nói chuyện, tôi đi một vòng.
Hành lang hẹp và tối. Một cánh cửa phòng để mở; ánh sáng hắt ra. Tôi liếc nhìn vào trong. Một cái labor hoá học. Các chị sinh viên đang thực tập mắc cở vì thấy người lạ mặt.
Phía cầu thang sáng hơn. Ánh sáng chiếu vào trong để lộ những bức tường cũ ngà, loang lổ. Cái ổ điện hư sút ra ngoài thật nguy hiểm mà không ai sửa lại. Cái toilet cũng bị hư, ngoài cửa để tấm bảng "nhà vệ sinh bị hỏng". Cái cửa sổ cũng hư,... Cuối hành lang, một cái nhà kho chứa toàn bàn ghế, đồ đạc hư hỏng.
Tôi được dịp trò chuyện với sinh viên đôi chút. Họ xưng hô với tôi bằng "chú, cháu". Tôi tự giới thiệu mình cũng từng học ở đây. Mọi người đều ngạc nhiên và đổi lại cách xưng hô bằng "anh, em". Biết "đàn anh" hơn "đàn em" ngót 30 khoá, cả đám lại vội vàng đổi cách xưng hô với tôi bằng "chú, cháu", làm tôi không nhịn được cười.
Người Việt có nhiều cách xưng hô nhất thế giới mà vẫn chưa đủ. Người mới gặp nhau lần đầu vẫn lúng túng, không biết xưng hô thế nào. Từ lâu tôi đã có một ý nghĩ trong đầu, sao giới Việt ngữ học không tổ chức một cuộc thi sáng tạo ra tiếng xưng hô trung hoà để giải quyết vấn đề này.
Hỏi chuyện mới biết việc học hành, ăn ở của sinh viên thời nay. Chương trình học, cách giảng dạy hầu như không thay đổi.
H. tiếp tục dắt tôi đi giới thiệu cô H. Bà học trước chúng tôi hai ba khoá, sau 75 trở thành giáo sư dạy chúng tôi môn gì tôi không nhớ rõ. Hình như bà cũng không biết tôi là ai, bởi thực sự mình không để lại một ấn tượng gì đặc biệt. Thế nhưng bà nói, bà vẫn nhớ tôi.
Bà vừa rót nước pha trà, vừa kể chuyện cũ nhưng tôi hoàn toàn không nhớ. Căn phòng làm việc chật chội chỉ đủ sức chứa một cái bàn giấy, một cái bàn tiếp khách và những kệ sách chất đầy hồ sơ, giấy má. Trong một góc tường còn có một cái bàn nhỏ có máy tính. Một cô sinh viên đang ngồi gõ máy, hình như đang làm luận án. Tường treo nhiều tranh ảnh, bảng minh hoạ các loài cá và cả bằng khen của Thủ tướng Phan Văn Khải.
Nghe bà kể, năm nào trường cũng tổ chức họp mặt sinh viên cũ. Nhà trường rất hoan nghênh sinh viên cũ trở về thăm trường. Bà giở album cho chúng tôi xem hình chụp kỷ niệm với nhiều người Việt hải ngoại đã từng học ở đây về họp mặt và mời chúng tôi tham dự dịp kỷ niệm ngày thành lập trường sẽ được tổ chức trọng thể trong thời gian tới.
Sau gần 30 năm, tôi lại đưể ngủ qua đêm, còn ban ngày thì sinh hoạt bên nhà, nên không đòi hỏi nhiều tiện nghi. Tuy vậy phòng khá tốt, có hai giường đôi tạm đủ chỗ cho hai người lớn và ba đứa nhỏ, có sa lông, TV, máy lạnh, điện thoại, toilet sạch sẽ, bồn tắm, vòi sen, nước nóng. Giá 160000 mỗi ngày, khoảng 10 US$.
°
Chiều, tôi có hẹn với cô bạn học cũ, đã 27 năm rồi không gặp.
Ra khỏi nhà sớm, tiện đường, tôi muốn đi thăm khu nhà thờ Đức Bà trước khi đến quán Thanh Niên đúng 6 giờ chiều.
Khu nhà thờ Đức Bà có nhiều thay đổi. Vương Cung Thánh Đường được sửa sang mới mẻ và có lẽ vì vậy mà mất hẳn nét cổ kính. Tượng Đức Mẹ màu trắng ôm quả địa cầu, đứng thẳng giữa vườn hoa ngước mặt lên trời vẫn như xưa. Bưu điện thành phố được trùng tu, sáng và sang trọng. Khu này có thêm hai kiến trúc mới: tòa nhà Diamond Pazza nằm sau nhà thờ Đức Bà, đẹp và hiện đại; tòa nhà Metropolitan phía trước, màu xanh lá cây cao ngất cũng hiện đại không kém. Khung cảnh toàn khu vực khá hài hòa giữa cũ và mới. Những hàng cây cổ thụ cao chót vót vẫn còn. Đường phố sạch đẹp. Nhiều du khách nước ngoài qua lại. Vẫn còn nhiều xe ôm và người bán hàng rong.
Trời đã tối. Đèn đường đã bật sáng. Tôi đi bộ về quán Thanh Niên trên đường Nguyễn Văn Chiêm.
Quán Thanh Niên là một trong những quán Café đẹp đầu tiên của Sài Gòn thời 90. Hồi hai vợ chồng mới quen nhau, 1995, chúng tôi thường tới đây vào buổi tối, ngồi uống nước nghe nhạc. Ban nhạc có ba người, một chàng thanh niên chơi violin, một người đàn ông cỡ ngũ tuần thổi saxophon và một người phụ nữ thường mặc váy đen dài phủ chân, dáng hơi tròn, sang trọng, chơi piano với hết tâm hồn. Họ chỉ chơi nhạc hòa tấu của Phạm Duy, Cung Tiến, Văn Cao, Trịnh Công Sơn, Ngô Thụy Miên,... Quán yên tịnh, thanh lịch. Bây giờ cũng vậy. Khách ngồi ghế mây ngoài sân, chung quanh toàn tre trúc, bonsai, thật tuyệt. Chỉ tiếc là ban nhạc không còn nữa.
Lâu rồi tôi mới được hưởng lại không khí ngồi quán café Việt Nam. Điều mà tôi thích nhất là phong cách phục vụ của người Việt. Nhẹ nhàng, lễ phép, chìu khách, khác hẳn lối tiếp khách lạnh lùng của người Đức. Tôi gọi một chai bia Heineken. Anh tiếp viên trẻ còn cho tôi thêm một đĩa đậu phộng mặc dầu tôi không đặt. Kể cũng ngộ. Thế nhưng uống bia có chút đậu phộng nhấm nháp cũng vui.
Đang ngồi ghi nhật ký thì cô bạn tới.
Gần mười năm không về Việt Nam đã cảm thấy ngày trở về như một giấc mơ, giờ gặp lại bạn cũ, sau mấy chục năm, càng thêm ngỡ ngàng. Bất chợt biết bao kỷ niệm dồn dập đến.
H. cỡ tuổi tôi, dáng quý phái, gương mặt đẹp, phúc hậu, vẫn chưa có nét nhăn nào đáng kể. Ít ai nghĩ cô ấy đã 50. Ba mươi năm về trước, chúng tôi học chung lớp, khóa 1, khoa Thủy Sản, đại học Nông Nghiệp 4, Sài Gòn. Năm 1978, tôi đi vượt biên. H. cũng đi, không đến, đành ở lại, giờ có một công ty xuất khẩu hàng thủy sản rất thành đạt.
Để trở thành một thương gia thành đạt, H. phải thoát ra khỏi một công ty quốc doanh. Từ cương vị một phó giám đốc, H. có thể được chế độ nâng cao hơn với điều kiện phải vào đảng. H. từ chối và cũng không thể được bởi H. là một tín đồ Thiên Chúa Giáo.
H. nói, tôi là người may mắn đã thoát đi được, còn không sẽ nếm mùi cải tạo lao động xã hội chủ nghĩa, phải cắn răng thi hành ý tưởng xây dựng con người xã hội chủ nghĩa như thế nào. Tất cả phải lao động như trâu bò thì mới thỏa khẩu hiệu "Lao động là vinh quang".
Một người phụ nữ mảnh mai, yếu đuối như H. trong lúc mang thai cũng không được một ân huệ ngoại lệ. H. phải làm những việc nặng nhọc của đàn ông như tải rác, khuân vác hàng tôm cá,... trong môi trường hôi hám và nhơ nhớp. Làm quá sức H. đổ bệnh nhưng vẫn phải ráng vực dậy mà lao động tiếp, đồng thời sợ đánh mất đi đứa con nằm trong bụng mình.
Thật điên rồ.
H. muốn biết ở Ðức và các xứ tư bản Âu châu thế nào. Tôi kể H. nghe.
Tất nhiên đối với người cộng sản, xã hội tư bản là một thứ vô nhân đạo cần phải diệt trừ. Vậy mà ở đó để phụ nữ mang thai làm việc nặng nề là một điều tuyệt đối cấm. Có chuyện gì xảy ra, người bố trí công việc sẽ đi tù. Một người mẹ đang mang thai cần phải được nghỉ ngơi, dưỡng thai, phải được khám sức khỏe và chăm sóc cẩn thận. Dĩ nhiên mọi thứ đều miễn phí. Chẳng hạn ở Đức, phụ nữ có thai 6 tháng không được phép đi làm mà vẫn lãnh lương. Sinh con xong, người mẹ còn được tiền thưởng, được ở nhà nuôi con và được trả tiền. Khi con được ba tuổi, nếu người mẹ muốn đi làm trở lại, bắt buộc hãng phải nhận. Không những người mẹ mà người cha cũng có quyền nghỉ việc một thời gian để nuôi con. Bảo hiểm sức khỏe sẽ trả tiền cho công việc đó. Người có con còn được giảm thuế thu nhập, được hưởng thêm tiền trẻ con, mỗi đứa khoảng 3 triệu đồng (khoảng 150 €) mỗi tháng. Không phải một đất nước giàu có như Đức mới ưu đãi bà mẹ có thai mà cả những nước nghèo ở châu Âu như Hy Lạp, Bồ Đào Nha cũng vậy, cũng có tính xã hội tùy theo khả năng mình.
Nhiều lần lao động chân tay quá nặng, sợ hư thai, H. không còn chịu nổi, phải năn nỉ cấp trên cho mình một công việc nhẹ hơn. Nhưng không được. Họ cương quyết buộc người lao động phải vận động bắp thịt làm việc cực khổ thì mới đúng nghĩa là lao động. H. lý luận, một người phụ nữ như tôi đã biết mình yếu đuối, không thể lao động chân tay, nên mới chọn con đường vào đại học để lao động tri thức. Lao động tri thức cũng là lao động vậy. Nhưng vô ích.
Hệ quả là đất nước long đong, toàn dân chới với chỉ vì những con người lãnh đạo thiếu đầu óc, phạm hết sai lầm này đến sai lầm khác.
H. hỏi tôi về thân phận người vượt biển. Tôi chỉ kể sơ bởi không có gì vui. Tôi định bụng khi nào gặp lại nhiều bạn cũ hơn, tinh thần thanh thản hơn, sẽ kể nhiều hơn.
Ngồi nói chuyện buồn, tiếng mưa rơi bên ngoài làm không khí càng thêm buồn bã. Chúng tôi ngưng lại. H. kêu người tính tiền. Trời đã khuya, cô bạn còn muốn mời c ngồi trong một phòng học cũ. Vẫn cái bàn dài, cái băng dài, rải rác vài cái ghế đơn có gắn thêm miếng gỗ bên tay dựa làm bàn viết. Vẫn cái bục giảng. Vẫn cái phòng hẹp thiếu ánh sáng. Ít có gì thay đổi ngoài tấm bảng màu xanh lá sẫm còn mới và tường không còn treo nhiều khẩu hiệu.
Hôm nay chúng tôi được đóng một màn kịch sống lại thời sinh viên. H. và tôi ngồi bàn đầu. Cô Y. đứng trên bục giảng. Anh C. quay phim.
Đáng lý bà giáo đã nghỉ hưu nhưng vẫn làm việc vì trường đang thiếu giảng viên. Bà than, trường đã xuống cấp quá sức mà không có tiền sửa sang; tiền để dành xây dựng khu mới bên kia.
Thăm mọi người xong, chúng tôi chào từ giã và đi thăm nơi khác.
Sân đá banh ngày xưa bây giờ được xây dựng thành một khu giảng đường mới hoàn toàn, rất đẹp và hiện đại. Cũng gần xong. Cái ao trồng rau muống của chúng tôi ngày xưa cũng biến mất. Trường đã quá chật chội, nhà cửa xây kín mít, không còn nhiều đất trống.
Chúng tôi vào thăm khu cư xá sinh viên cũ. Toàn khu được rào kín bằng những song sắt chứ không còn để mở như xưa. Nhà ăn bây giờ đề bảng Restaurant. Bên trái nhà ăn là cư xá A, bên phải là cư xá B. Sân bóng chuyền hai bên hông nhà ăn vẫn còn. Cái bếp đằng sau vẫn còn. Bên hông cái bếp là nơi chúng tôi thường nấu ăn thêm vào mỗi tối cho đỡ đói. Đồ ăn chẳng có gì đặc biệt. Một vắt mì nấu chung với rau muống cộng chút muối. Đôi khi có thêm quả trứng. Vậy là sang lắm. Có nước mắm càng sang nữa. Nhiều khi không còn gì để nấu phải đi ăn ké. Người bỏ của, người bỏ công đi nấu và rửa chén.
H. đưa tôi vào tận cư xá A nơi tôi ở ngày xưa. Nhìn lại cảnh cũ mà cảm thấy chạnh lòng. Cư xá A tồi tàn quá sức. Suốt một dãy nhà dài, quần áo phơi đầy trước cửa sổ. Bước vào trong, ngay cửa ra vào vẫn còn cái bàn của dân bảo vệ, ngày xưa chúng tôi gọi là dân "cờ đỏ". Đám đầu đen lố nhố tò mò nhìn khách lạ. Chúng tôi đi dọc theo hành lang hẹp và tối đến từng phòng. Mọi phòng đều đóng cửa. Bất thình lình một người bảo vệ đến yêu cầu tôi không được chụp hình. H. phân trần với anh ta, chúng tôi là sinh viên cũ về thăm trường, muốn chụp hình làm kỷ niệm nhưng anh ta nhất định từ chối. Chúng tôi phải đi ra.
Cư xá B cũng cùng một hình ảnh tiêu điều. Mỗi cửa sổ là một nơi phơi quần áo, nhếch nhác không thể tưởng. Cư xá C giống vậy, chỉ khác là có thêm một dãy cần xé chất đầy rác. Rác rơi vãi đầy mặt đất. Ruồi nhặng bay mịt mù.
Toàn cảnh khu cư xá nam trông tồi tàn như một khu nhà ổ chuột. Thế nhưng tôi lại nghĩ, có lẽ do tính con trai sống bê bối hơn con gái nên mới vậy. Nhưng không. Cư xá D của con gái cũng hệt vậy. Quần áo treo đầy cửa sổ. Bất chợt có một người đàn bà lái Honda ngừng lại trước mặt chúng tôi, yêu cầu không được quay phim chụp hình. Người đàn bà búi tóc, đeo khẩu trang che kín mặt, có một giọng Bắc cương quyết hơn anh bảo vệ bên cư xá A. Một lần nữa, H. lại phân trần với bà ta, chúng tôi là sinh viên cũ về thăm trường muốn chụp hình làm kỷ niệm. Nhưng bà vẫn không chịu. Bà cảnh cáo, muốn quay phim chụp hình kỷ niệm phải có giấy phép của ban giám hiệu nhà trường. Một anh bảo vệ từ đâu tới cũng xen vào cự nự chúng tôi. Tôi tính hỏi lại, hãy chỉ cho tôi thấy chỗ nào đề bảng "cấm chụp hình", chỗ nào đề bảng thông báo "muốn chụp hình phải xin phép ban giám hiệu" như bà nói. Nhưng nghĩ lại thôi, bởi vì tôi thừa biết cái máu luật rừng vẫn còn phổ biến ở Việt Nam. Đối thoại bằng lý lẽ vô ích.
Chỉ cần quan sát sơ cũng đủ thấy cái tính dã chiến phổ biến của con người hôm nay xuất hiện khắp nơi, không chỉ ngoài đường phố mà còn trong đại học. Đáng lý đại học phải là một nơi gương mẫu, nơi đào tạo con người gương mẫu về mọi mặt chân thiện mỹ để phụng sự xã hội mai sau. Xã hội có tốt đẹp hay không là tuỳ thuộc vào lớp sinh viên trẻ này, giới lãnh đạo tương lai này. Nhân xấu cho quả xấu. Không thể giải quyết vấn đề bằng cách cấm đoán, giấu nhẹm những cái xấu do tự ái mặc cảm, thiếu tự tin mà phải đưa nó ra ngoài ánh sáng, phân tích, nhận diện, nhận thức cho thấu cái sự thật và tìm giải pháp dứt điểm nó. Ngay một chuyện quá nhỏ rất dễ làm mà không làm được là chỗ phơi quần áo cho sinh viên. Bởi không có chỗ, các em mới phơi bừa bãi như vậy. Tại sao không biết làm ra một vật dụng dành cho việc này. Ví dụ, một cái dàn phơi quần áo hình chữ X. Nguyên tắc của nó giống như chiếc ghế bố có thể mở ra xếp vào, thay vì tấm bố thì là những sợi dây. Khi mở dàn, dây sẽ căng ra, có thể phơi quần áo trong phòng. Không cần nữa thì xếp lại, cất đi. Một dụng cụ bằng nhôm hết sức đơn giản, Việt Nam thừa sức chế.
Hình ảnh ngôi trường Nông Lâm hôm nay làm tôi thất vọng. Vẻ quê mùa nghèo nàn khiến tôi càng nhớ những năm xưa. Trong khoảng thời gian khắc nghiệt phi lý ấy, chẳng ai còn hứng thú làm gì. Thày không hứng thú dạy, trò không hứng thú học. Thày giỏi tìm cách đi vượt biên. Trò nối đuôi theo. Kẻ ở lại bon chen vào hội, vào đoàn, vào Đảng không phải vì lý tưởng cộng sản (thực sự họ chẳng biết gì) mà vì muốn thủ thân, vì chủ nghĩa có lợi. Thời thế đã dạy cho con người như thế. Đáng tiếc vô cùng.
Sự phân biệt đối xử cũng là một điều đáng tiếc. Tôi còn nhớ thuở đó, dân thanh niên miền Nam như chúng tôi không được ưa thích. Chúng tôi bị liệt vào thành phần tư sản. Tư sản là kẻ thù không đội trời chung của vô sản, cho dù mức độ tư sản của gia đình anh không hơn một tiệm phở, một tiệm bán tạp hoá, đừng nói giàu sang như nhiều cán bộ đảng viên hôm nay. Sự ghét bỏ chúng tôi cũng hiện rõ rệt trên mặt các đảng viên, dân cách mạng chỉ vì một cái lỗi không đáng gì. Trong khi đó, dân đảng viên, cách mạng làm gì không ai dám động tới. Mỗi lần bị kiểm điểm, tôi có cảm tưởng người ta trách móc, xỉa xói mình cốt yếu cho hả giận cá nhân chứ không nhằm mục đích khuyên răn, giáo dục. Bây giờ, chính những người ấy mới cảm thấy xấu hổ và ân hận về hành vi đối xử thiếu tử tế của mình với bạn bè năm xưa. Tôi biết họ ngượng và tránh gặp lại tôi kỳ này.
Phải nói, thế hệ sinh viên chúng tôi không được đào tạo tốt để trở thành những kỹ sư tốt, nhển lãm. Th. kinh doanh rất giỏi. Cô bạn có một quán cà phê ở góc đường Nguyễn Du - Đồng Khởi tên là Café Paris. Hiện nay cô còn đang đầu tư xây dựng một khu du lịch sinh thái bên Hồ Tuyền Lâm Ðà Lạt rộng hằng chục hecta. Ngoài các công việc cực nhọc ấy, Th. còn lo việc từ thiện, đi dạy học cho trẻ em nghèo.
Vị khách thứ hai là Cao Xuân Hạo. Ông cụ ngoài 70, dáng xương xương, tóc hoa râm, gương mặt phúc hậu, để ít râu mép, đeo kính cận, trí thức, trầm ngâm, tuy vậy khá nghệ sĩ và chịu chơi. Ông cũng hút thuốc (Basto xanh), uống bia, tán gẫu vui vẻ.
Dịp này, tôi tặng ông một cuốn sách ông thích. Ông tặng lại tôi những cuốn sách mới của ông.
Trong nước, Cao Xuân Hạo được biết đến như một nhà ngôn ngữ học hàng đầu của Việt Nam. Không đảng viên, bình dị, ghét sự giả dối. Có lẽ ông không giàu có nhưng đã cống hiến cả đời mình cho tiếng Việt.
Trời mưa dứt. Anh chị tôi và những người khách khác cũng lần lượt tới.