Chiếc tàu không động cơ

- Lửa cháy! Lửa cháy! Ông nội ơi, lửa cháy gần tới Lung Tràm rồi.
Thằng Đậu đứng ngoài sân, chổng mông réo ông nội nó tựa đuổi bò ăn mạ. Bác Ba Phi với tay lên gác chụp vội cây chèo, chạy ra sân. Nhưng bác lại chạy trở vô, đến bên đầu vách vớ lấy chiếc khăn choàng tắm tiều bịt khấc lên đầu, quay trở ra. Vừa đến thềm nhà, bác lại quên chiếc áo và gói thuốc bánh giồng, lại quay trở vô lần nữa. Bác lận gói thuốc vào lưng quần, vắt chiếc áo lên vai. Bác Ba Phi lại chạy ra. Khi bác xuống tới bến thì thấy thằng Đậu đã cầm sào đứng sẵn trước mũi ghe.
Nhìn ông nội lính quýnh, thằng Đậu mắc cười, nó dậm chân, réo quyết liệt:
- Rút đi! Ông nội cứ cà rịch cà tang để rùa nó bò xuống lung "chém vè" hết trọi.
Bác Ba Phi nhảy vội xuống lái ghe, xeo bung ra dòng nước. Vừa kềm lái thả xuôi theo dòng nước chảy, bác Ba  vừa sửa lại chiếc khăn bịt khấc trên đầu, vắt lại chiếc áo từ vai này qua vai kia, vận lại cái lưng quần lá nem lưng trắng. Chiếc ghe bị nước U Minh đạp trôi nhanh quá, tấp hông vào cọc cây cầu khỉ bắc ngang kinh, rồi hất ra một cái làm hai ông cháu bác Ba  chới với. Chiếc ghe chòng chành. Thằng Đậu cằn nhằn ông nội:
- Vậy đó! Ông nội kềm lái gì đâu...
Bác Ba lụp chụp quơ chèo nạy mạnh cho chiếc ghe bung ra giữa dòng, hào hển bảo cháu:
- Không sao, còn kịp...
Chiếc ghe tam bản sức chở hàng chục tấn của hai ông cháu bác Ba Phi đã cặp lại mé Lung Tràm. Quả như bác dự kiến, ngọn lửa đốt đồng còn cháy xa lơ tận trên kinh Đường Ranh. Lửa giăng thành hình vòng cung, cháy nà xuống. Mùa khô cỏ cao ngập đầu, xuống ủ thành một lớp bổi khô làm mồi cho lửa cháy nhạy vô cùng! Dưới lớp cỏ bổi ấy là mặt đất lỗ chỗ những hố lá, lò rèn. Một địa thế như vậy rất thuận lợi cho các loài rùa, rắn, ếch, chuột xây dựng những "thành phố" mà sống mọc râu. Nhưng hôm nay, bọn chúng phải bồng chống nhau chạy trối chết bởi ngọn lửa ác hại này.
Ngọn lửa như một lũy tre, đỏ kéo giăng từ mé biển vô tới Kinh Ngang, cứ ào ào từ trên gió cháy nà xuống. Các loài rùa, rắn, trăn, chồn chạy dồn xuôi theo chiều gió mà tỵ nạn. Bởi vậy hai ông cháu bác cột sợi dây đỏi ghịt mũi ghe vào gốc cây, dùng sào banh cặm ép lái ghe sát vào bờ. Rồi hai ông cháu hè hụi khiêng một tấm ván lớn làm cây đòn dày bắc từ be ghe lên bờ thành một nhịp cầu. Lặn ngụp trong biển khói mù mịt của ngọn lửa từ trên gió thổi xuống, hai ông cháu bác Ba vẫn mắm môi gần ngạt thổi, nước mắt chảy ràn rụa, họ cố làm cho xong cái "bến phà" cho các loài vât từ trên bờ bò xuống.
Xong đâu đó, hai ông cháu bác Ba cầm hai thanh gỗ, quấn khăn trùm mặt để chống khói, kẻ ngồi mũi, người ngồi lái ghe mà chờ. Lửa cứ từ trên gió cháy đùa xuống một cách tàn bạo! Lửa bay tàn đỏ trời, rơi vãi đầy người bác Ba và thằng Đậu, họ phải luôn tay đập phủi để khỏi bị lửa ngún cháy quần áo.
Hàng rào lửa cháy tràn xuống còn độ vài trăm mét nữa tới mé Lung Tràm, nhưng ông cháu bác Ba Phi vẫn chưa thấy động tĩnh gì. Thằng Đậu sốt ruột:
- Coi mòi bữa nay trớt quớt rồi đó ông nội!
Bác Ba cũng hoài nghi:
- Không lẽ kỳ vậy. Chờ chút coi.
Bác Ba Phi nói vừa dứt, bỗng thấy trên mé lung, chỗ đám cỏ xanh rì vụt động đậy. Thằng Đậu nhóng lên xem. Bác Ba  cũng nhìn theo. Có lẽ là hơi lửa quận vào lùm cỏ rung rinh. Họ càng nhìn kỹ. Không! Có một con gì xạo xự bên dưới. Ơ, không phải chỉ một con, mà có đến cả bầy! Rồi bất thần một con chuột cống nhum lông đen sì vọt ra. Con chuột chạy ra khoảng trống, vội dừng lại, giương đôi mắt tròn đen, nhìn ngơ ngác. Rồi một con chồn đèn vàng óng cũng vọt ra, dừng lại cạnh con chuột, đảo cặp mắt lừ đừ nhìn chuột như muốn dò hỏi một chuyện cơ mật. Chuột cống quay lại nhúc nhít hai hàng ria mép có lẽ muốn trao đổi một vấn đề quan trọng với anh bạn đồng hành. Nhưng phía sau, từ trên đám cỏ đã xao động rào rào do đàn chuột cống và chồn đèn tràn tới. Thấy hai loại nầy là đồ vô dụng, bác Ba Phi lắc đầu chán nản, vung thanh gỗ lên ra vẻ từ chối. Con chuột cống với con chồn đèn càm đầu thấy thái độ người chủ ghe không đồng ý tiếp đón, chúng liền mở mũi sang hướng khác, dàn đàn tuôn đại xuống Lung Tràm, lội qua bên kia. Ông cháu bác Ba ngồi trên ghe nhìn chuột và chồn lội đầy nghẹt một khúc sông mà vỗ tay cười ngất. Họ đậu ghe ở đây là để đón bắt loại rùa, có giá trị hơn.
Thế rồi đến những con trăn vằn vện lần lượt bò ra, bất chợt lọt đến khoảng đất trống, con nào cũng cất đầu lên, le le cái lưỡi ba chia dường như hỏi chào bác Ba Phi để thăm dò đường đi. Bác Ba  cũng vung thanh gỗ lên, lắc đầu, làm lũ trăn cụt hứng, quay đầu bò đi hướng khác. Nhìn theo những con trăn, bác Ba lẩm bẩm:
- Ai công đâu bắt chúng nó về. Da trăn lúc này rẻ mạt, thịt xảm xì. Dù có mướn cũng không ai thèm ăn.
Bác Ba Phi cùng thằng Đậu cứ cầm hai thanh gỗ ngồi chờ. Và sau đó, lúc hàng rào lửa bủa xuống còn độ một trăm mét, bấy giờ cái "mặt hàng" của hai ông cháu bác Ba  chờ đợi mới lần lượt xuất hiện. Mé cỏ rung lên như có một con trốt xoáy, một số rùa nho nhỏ bằng cái chén ăn cơm rải rác bò ra. Rùa vàng, rùa quạ, rùa nắp, rùa hôi đều có mặt. Ra đến khoảng trống, chúng xếp thành hàng đôi đi xuóng "bến phà" cà rì cà rụp. Thằng Đậu thấy rùa nhỏ con tỏ vẻ không hài lòng, đưa mắt ngó chừng để dò ý ông nội. Bác Ba  chặt lưỡi, lắc đầu ngầm bảo là mình cũng chán. Hai ông cháu bác Ba  ngồi nhích lại hai bên đầu cầu, dùng thanh gỗ gạt những con rùa đang bò, rơi xuống nước. Rùa rớt bao nhiêu thì bám vào be ghe bấy nhiêu.
Lửa cứ cháy nà tới. Rùa xếp hàng ba rồi hàng tư vội vã chạy rụp rụp xuống ghe một cách khẩn trương. Bấy giờ có những con rùa lớn hơn, mai đen ngời bằng cái tô úp đầu.
Thằng Đậu cũng lại dòm chừng ông nội để hỏi ý kiến. Bác Ba có hơi suy nghĩ rồi mới chíp môi, nhự gật đầu.
Đến lúc hàng rào lửa đã cháy còn độ năm mươi mét nữa là tới mé lung, bây giờ rùa bự mới lụp cà lụp cụp bò tới. dẫn đầu là một chú càng đước mai lớn bằng cái sàng gạo, hai đầu yếm nhọn lởm chởm hình răng cưa. Khi đến đầu cầu, chú càng đước dừng lại, đưa tay chùi nước mắt và hả họng cúi đầu chào bác Ba. Bác Ba Phi vuốt râu, mỉm cười và gật đầu một cách hài lòng. Từc thì đàn rùa xếp thành hàng bốn bò thẳng xuống.
Nhưng cái thứ "thầy rùa" này cũng gian manh đáo để, trong mỗi đầu hàng tư chúng lại xen vào một chú nhỏ. Hai ông cháu bác Ba cương quyết không chấp nhận, thấy con rùa nào nhỏ bò lộn trong hàng liền bạt tai một cái, rơi xuống nước. Lũ rùa bị rơi thành dề đeo theo hai bên be ghe, một tay quạt nước nâng tấm thân nặng nề cho nổi lên khỏi chết đuối.
Lửa cháy ào tới. Đám cỏ xanh mỗi lúc một xáo động. Cỏ guộng giồng và ngã liệt. Đó là những đàn rùa lớn nhất chạy chết, đang tràn tới. Chúng chạy loạn xạ không còn trật tự gì cả. Mạnh con nào nấy mang chiếc mai kình càng của mình mà chồm đại lên lưng đồng loại để tranh nhau xuống phà. Chúng bị khói un, nước mắt nước mũi chảy choàm ngoàm, nhưng vẫn cứ chạy bằng ba chân còn một chân đưa lên che lấy mặt.
Rùa xuống đã đầy ghe. Bác Ba  ra lịnh cho thằng Đậu mở sợi dây cột đằng mũi. Bác rút đòn dày rồi nhổ sào banh xô chiếc ghe bung ra. Những con rùa tới sau phải nhảy bừa xuống sông, kết bè với đám rùa đeo theo hai bên be ghe nãy giờ, thế là hai ông cháu bác Ba Phi cho ghe bung ra giữa dòng sông, xuôi theo nước trở về.
Đàn rùa đeo theo hai bên ghe, khi ra giữa sông sợ bị chìm, chúng hoảng vía đạp nước quyết liệt. Cứ một chân vịn vào be ghe, ba chân đạp nước làm cho chiếc ghe của hai ông cháu bác Ba Phi lướt tới ào ào. Ghe càng lao tới thì đàn rùa càng sợ sút tay rơi lại, chúng càng quyết liệt bám chặt và bơi miết. Chiếc ghe mỗi lúc một tăng tốc. Chồm chồm cỡi nước tạo thành hai vệt sóng cuộn tròn hình chữ V trắng xóa. Hai ông cháu bác Ba Phi khỏi phải chèo, bơi gì nữa.
Thằng Đậu ngồi trước mũi ghe gõ dầm cộp côp mà ca bài "Dân Liên Xô vui hát trên đồng hoa". Bác Ba  thì ở sau lái cứ cắp chèo vào nách mà kềm cho ghe đi đúng hướng. "Chiếc tàu không có động cơ của hai ông cháu bác Ba Phi cứ lướt sóng chồm tới. Gió phất phơ chòm râu màu bông sậy dưới cằm làm cho bắc Ba nghe lòng mênh mong thơ thới. Bác lận lưng lấy gói thuối bánh giồng ra vừa kềm lái vừa vấn hút. Bác cứ nhả khói, nhìn mây, hiu hiu ánh mắt kềm con tàu lướt sóng ào ào mà không nghe một tiếng vang, một nhịp chao động rung rinh nào của máy nổ. "Chiếc tàu" của hai ông cháu bác Ba Phi đang độ tăng tốc, bỗng có tiếng đàn bà đâu đó kêu réo chí chóe trên mặt sông:
- Tàu tóp máy! Tàu làm ơn tóp máy.
Bác Ba  giật mình nhìn sang. Ơ kìa, những chiếc xuồng chở lúa khẳm mẹp chèo đi ngược chiều. Xuồng của họ đang bị những đợt sóng tàu của hai ông cháu bác Ba  đánh bổ chòng chành sắp bị lật đến nơi! Bác Ba  vội rà máy chèo làm động tác hãm tốc, nhưng không kham. Chiếc ghe cứ chồm tới ào ào, mũi vẹt nước bung ra hai luồng sóng dữ. Mấy người đàn bà chèo những xuồng lúa sợ bị đánh chìm, cứ kêu réo thất thanh. Bác Ba không biết phải làm sao, đành thét:
- Tàu rùa! Tàu không có gắn máy. Tàu rùa, tóp máy không được!
 - Và cứ thế, bác Ba  kềm lái cho chiếc ghe chở rùa của mình chạy một mạch về tới nhà, lủi tuốt vô ụ bến.
Bác Ba  gái nghe hai ông cháu thằng Đậu về tới, vội chạy ra mở tấm đăng sậy chận ngang họng đìa cho chiếc ghe chở rùa chống vô đậu luôn phía bên trong rồi mới bửng tấm đăng lại. Hai ông cháu bác Ba Phi mệt đừ, lững thững lên nhà. Thằng Đậu thì sà xuống ôm lấy con chó Đuổi, còn bác Ba  ngồi dựa trên ghế trường kỷ, lột khăn bịt khấc, gỡ áo vắt vai ném vào góc giường, thở ra, bảo bác gái:
- Tối rồi, dọn cơm ra bỏ bụng ba hột đi bà!
ANH ĐỘNG - 1977