Năm 1975, đã xảy ra rất nhiều sự kiện lớn. Năm đó, trong lịch sử của Trung quốc mới, bất kể từ ý nghĩa nào mà nói, vẫn là một năm không thể xem thường.Năm đó Mao Trạch Đông bị bệnh đục thuỷ tinh thề, đôi mắt gần như đã bị loà, không thể đọc công văn cũng không thể đọc được sách nữa. Trong tình trạng đó, nội dung trọng yếu nhất, đồng thời cũng là niềm vui thú nhất trong đời sống của Mao Trạch Đông coi như bị tước bỏ. Sự bất lực, sự buồn phiền và đau khổ mà Mao Trạch Đông phải chịu đựng, có thể nghĩ mà thấy được.Mao Trạch Đông bị rơi vào tình trạng ấy, những đồng chí ở Trung ương mà đại diện là Chu Ân Lai lo lắng cho ông ta nhất. Bệnh mắt của Mao Trạch Đông, có thể điều trị được hay không, điều trị như thế nào, và làm thế nào bảo đảm được an toàn khi điều trị, đã trở thành một vấn đề lớn mà Bộ Chính trị trung ương hết sức quan tâm.Ngày 6.7.1975, mặc dù bệnh tật đầy người, Chu Ân Lai vẫn cố gắng điều khiển hội nghị Ban thường vụ Bộ Chính trị mở rộng, bao gồm Diệp Kiếm Anh, Đặng Tiểu Bình, Trương Xuân Kiều, Uông Đông Hưng cùng Vương Hải Dung, Đường Văn Sinh v.v... tham gia, để nghiên cứu phương án điều trị mắt cho Mao Trạch Đông. Ngày 20.7.1975, thêm một lần nữa, Chu Ân Lai lại điều khiển hội nghị Ban thường vụ Bộ Chính trị mở rộng, có Diệp Kiếm Anh, Đặng Tiểu Bình. Trương Xuân Kiều, Uông Đông Hưng v.v... tham gia, bàn bạc việc mổ mắt điều trị cho Mao Trạch Đông, đồng thời nghiên cứu phương án mổ cụ thể. Chữa đục thuỷ tinh thể chỉ có một biện pháp duy nhất là mổ. Mao Trạch Đông không thích khám bệnh và lại càng không thích mổ. Nhưng chỉ có mổ mới có thể nhìn lại được, cuối cùng ông ta phải đồng ý với Bộ Chính trị, mổ mắt.Tối ngày 23.7.1975, chuyên gia nhãn khoa nổi tiếng Đường Do Chi chủ trì kíp mổ, tiến hành mổ mắt cho Mao Trạch Đông, một người đã gần tám mươi hai tuổi.Chu Ân Lai, đặc biệt rời khỏi bệnh viện đang điều trị của mình, tới nơi ở của Mao Trạch Đông, ngồi trực cho đến khi ca mổ được hoàn tất an toàn, thuận lợi. Sau khi mổ, Mao Trạch Đông có thể đeo kính, đọc sách trở lại, ông ta vô cùng phấn khởi. Lại có được ánh sáng, lại có thể đọc sách, đọc công văn, phê văn kiện, tâm tư tình cảm của Mao Trạch Đông đương nhiên cũng tốt lên rất nhiều. Trong khi Mao Trạch Đông chữa mắt, công tác chỉnh đốn toàn diện cũng phát triển với quy mô lớn hơn, đối với việc chỉnh đốn và những thành quả mà chỉnh đốn thu được, về cơ bản là Mao Trạch Đông ủng hộ và tán thành. Nhưng đối với những vấn đề mà ông ta còn nghi ngờ, ông ta tỏ thái độ giữ gìn, như về mấy vấn đề của công tác khoa học kỹ thuật” (tức “Đề cương báo cáo”) của học viện khoa học khởi thảo, vẫn còn nằm lý ở chỗ Mao Trạch Đông, không được thông qua. Khi làn gió phấn chấn mới của công cuộc chỉnh đốn thổi tràn trên, dưới, khắp toàn quốc, chẳng ai lại ngờ rằng, chẳng bao lâu sau, tình hình đã phát sinh sự chuyển xoay cực kỳ quan trọng. Nguyên nhân của sự việc là như sau:Bệnh thuỷ tinh thể bị đục của Mao Trạch Đông được điều trị, tuy có chuyển biến tốt, nhưng thị lực vẫn còn rất kém, vì thế khi muốn xem sách lại cần nhờ người đọc cho nghe. Ngày 14.8 nữ giáo sư Trung văn trường đại học Bắc Kinh, Lô Địch đọc cho ông ta nghe bộ tiểu thuyết cổ điển Thuỷ Hử, Mao Trạch Đông vừa nghe vừa tiện miệng bàn bạc và đánh giá về tiểu thuyết cổ điển. Đầu tiên ông ta nói về “Tam quốc diễn nghĩa”(1), Hồng Lâu mộng v.v... sau đó nói tới Thuỷ Hử. Mao Trạch Đông nói: “Bộ sách Thuỷ Hử này, hay là hay ở chỗ đầu hàng. Có thể coi như tài liệu phản diện, để cho nhân dân biết về cái phái đầu hàng. Thuỷ Hử chỉ chống tham quan, không chống hoàng đế. Gạt Tiểu Cái ra ngoài một trăm linh tám người, Tống giang đầu hàng, theo chủ nghĩa xét lại, đem Tụ Nghĩa Sảnh của Tiểu Cái đổi thành Tụ Nghĩa Đường để chiêu an lòng người. Tống Giang đấu nhau với Cao Cầu(2) chỉ là phái này đấu với phái kia trong nội bộ giai cấp địa chủ là thôi. Tống Giang đầu hàng xong, liền đi đánh nhau với Phương Tạp(3). Ông ta nói: “Lãnh tụ của cánh quân nông dân khởi nghĩa này, kém! Lỗ Tấn(4) bình Thuỷ Hử, bình rất hay. Lỗ Tấn nói: Bộ Thuỷ Hử đã nói được rất phân minh rõ ràng: vì không chống lại Thiên Tử, nên khi đại quân tới là nhận chiêu hồi ngay, thay thế nhà nước đi dành cường đau khác, không là cường dạo “Thế Chiến hành đạo” cuối cùng sẽ thành nô lệ”.Mao Trạch Đông yêu quý mãnh liệt văn học cổ đại Trung quốc, đối với mỗi bộ sách cổ điển nổi tiếng không những ông ta thuộc lâu, mà còn có những kiến giải độc đáo. Khi ông ta đọc lại Thuỷ Hử, ông ta vừa nghe, vừa cảm thụ và suy xét, đó là một việc vô cùng tự nhiên. Nhưng chuyện rắc rối lại chính từ đó mà sinh ra. Nếu chỉ là một con người bình thường, đưa ra một lời bàn, dù đưa ra lời bàn thế nào đi nữa, đều chẳng liên quan gì tới đại cục. Nhưng đưa ra nhận lời bàn lần này, chẳng phải là một con người bình thường, mà lại là Mao Trạch Đông, một người có quyền uy tuyệt đối và một địa vị tối cao vô thượng. Trong những năm tháng ấy, chỉ thị của Mao Trạch Đông là “một câu chọi vạn câu”, dù rằng đó chỉ là một câu nói rất bất chợt, rất tuỳ tiện mà nói ra, đều có thể biến thành “chỉ thị tối cao”, cao chót vót, không gì cao hơn. Những người sống trong thời lại đó, đều nhớ được rằng mỗi khi có “chỉ thị mới nhất của Mao Chủ tịch” đưa ra, liền lập tức truyện đi khắp đông tây nam bắc, khắp hang cùng ngõ hẻm của đất nước. Bất luận là ngày trắng hay đêm sâu, chỉ cần có “Chỉ thị mới nhất” đưa ra, là người người lập tức đua nhau xô ra hè phố, ào đến quảng trường Thiên An Môn, để hoan hô, để mít tinh tuần hành. Rất nhiều những “tiến trình cách mạng” trong Cách mạng văn hoá, đều dùng cách thức đó để chỉ đạo tiến hành. Mỗi một “chỉ thị mới nhất” được đưa ra, bao giờ cũng được tính toán trước, cho một “phong trào”, hay “một cuộc đấu tranh” bùng nổ. Hơn nữa, trong Cách mạng văn hoá, còn có rất nhiều người sẵn có “tấm lòng”, giống y như lũ bốn tên, dù vào lúc nào, ở chỗ nào cũng chú tâm nghe ngóng những động thái mới, những phát ngôn mới của Mao Trạch Đông để một khi nhận thấy có thời cơ, là lập tức “không để mất thời cơ”, thêm mắm muối, tô vẽ, lợi dụng, làm “vũ khí đấu tranh” của họ. Ngay rạng ngày Mao Trạch Đông nói chuyện về Thuỷ Hử, giáo sư Lô Địch đem những lời nói của Mao Trạch Đông chỉnh lý thành văn. Cũng ngay hôm đó, cây bút “nhớn” của lũ bốn tên, Diêu Văn Nguyên đã biết mọi sự tình, hắn như vớ được của báu, thấy rằng thời cơ đã đến, lập tức viết thư cho Mao Trạch Đông. Trong thư có câu “Vấn đề này rất quan trọng”, đối với những người cộng sản Trung quốc, giai cấp vô sản Trung quốc, bần nông, trung nông lớp dưới và tất cả quần chúng cách mạng trong hiện tại và trong tương lai, những người kiên trì chủ nghĩa Mác, những người chống chủ nghĩa xét lại của thế kỷ này và thế kỷ sau, cùng những người kiên trì đường lối cách mạng của Mao Trạch Đông, đều có một ý nghĩa rất trọng đại, rất sâu sắc. Cần phát huy hết tác dụng của bộ “tài liệu phản diện” này. Diêu Văn Nguyên đề nghị cho đem bài nói về “Bình Thuỷ Hử và thư của hắn viết cho Mao Trạch Đông “in và phát tới các đồng chí trong Bộ Chính trị ở Bắc Kinh, phát thêm cho Cục xuất bản, báo Nhân dân, Cờ đỏ, báo Quang Minh, cùng đồng chí Tạ Tĩnh Nghi ở tổ phê phán của trường đại học Bắc Kinh và tổ văn bản của thành uỷ Thượng Hải”. Sau khi đọc xong thư của Diêu Văn Nguyên, Mao Trạch Đông vui vẻ bút phê: “Đồng ý”.Như vậy là việc bình Thuỷ Hử đã trở thành một sự kiện chính trị to lớn. Trung ương đảng chuyển phát bài nói chuyện của Mao Trạch Đông về Thuỷ Hử. Ngày 28.8.1975, với kế hoạch của Diêu Văn Nguyên, tạp chí Cờ đỏ của đảng cho in bài bình luận ngắn với đầu đề là: “Cần coi trọng bài bình luận Thuỷ Hử. Hạ tuần tháng tám, Giang Thanh triệu tập bộ trưởng Bộ Văn hoá tới họp, nói điểm cốt yếu của bình Thuỷ Hử là nằm ở chỗ Tiều Cái ngồi chơi xơi nước. Mụ rắp tâm hiểm độc lập lờ nói: “Bút phê của Chủ tịch với Thuỷ Hử mang ý nghĩa hiện thực. Huyệt hiểm của bài “bình luận Thuỷ Hử là Tiều Cái ngồi chơi xơi nước. Hiện nay ở bộ Chính trị cũng cho Chủ tịch ngồi chơi xơi nước đó”. Với sự bố trí khéo léo của lũ bốn tên, ngày 31.8.1975, báo Nhân dân của đảng in lại bài bình luận ngắn đã đăng trên tạp chí Cờ đỏ ngày 28.8.1975. Cùng hôm đó, báo Nhân dân còn cho in một bài văn chương trứ danh “Bình Thuỷ Hử”. Đọc những tiêu đề nhỏ của bài văn chương này một chút xem sao: Một, Một đường lối đầu hàng chủ nghĩa. Hai, Một phái đầu hàng điển hình. Ba, Một pho triết học đầu hàng chủ nghĩa. Nhưng, phàm là những người sáng mắt, chỉ cần nhìn qua những tiêu đề nhỏ giật gân trắng trợn đó, là đã thấy ngay dụng ý sâu độc, mê hoặc lòng người.Sau khi báo Nhân dân đăng bài viết này, với sự giật dây, gây rối của lũ bốn tên đã bùng lên một phong trào “Bình Thuỷ Hử”, “Phê phán phái đầu hàng”.Ngày 4.9, báo Nhân dân cho in bài xã luận: “Mở rộng việc bình luận Thuỷ Hử, công bố cuộc nói chuyện tình Thuỷ Hử của Mao Trạch Đông. Với sự bày đặt kế hoạch của lũ bốn tên, bài xã luận này đã tâng việc “Bình Thuỷ Hử” lên thành: Lại thêm một cuộc đấu tranh to lớn lên mặt trận tư tưởng chính trị của nước ta, và chỉ trong chốc lát đã mở ra một không khí đại phê phán, và mũi nhọn của lưỡi gươm phê phán trực tiếp chỉ vào những người lãnh đạo đảng và nhà nước là Chu Ân Lai, Đặng Tiểu Bình v.v...Mục đích trận phê phán mới của lũ bốn tên này, Chu Ân Lai và Đặng Tiểu Bình đã biết rõ ngay lập tức. Chu Ân Lai nói với một người trong một cuộc trao đổi rằng: bọn người này - chỉ lũ bốn tên - làm một số việc thật quá đáng? Gần đây việc “Bình Thuỷ Hử”, phê phán phái đầu hàng, hướng chỉ mũi giáo của họ thật rõ ràng”.Trong khoảng tháng chín và tháng mười, trong một cuộc toạ đàm có một số bí thư tỉnh uỷ của một số tỉnh, Đặng Tiểu Bình có nói: “Bình luận Thuỷ Hử là cái chuyện gì vậy nhỉ? Chủ tịch đọc bản bảy mươi mốt hồi trong vòng ba tháng, đọc xong liền đưa ra một thông tin như vậy. Thế mà có người túm lấy muốn làm văn chương, làm âm mưu”.Chu Ân Lai và Đặng Tiểu Bình đều nhận thấy rằng, họ đang phải đối diện, đương đầu với một cuộc ác chiến sinh tử.Bắt đầu từ tháng làm năm 1975, Chu Ân Lai cố nén nỗi đau đớn do chứng ung thư gây ra, để có những cuộc gặp gỡ, trao đổi nhiều lần với Đặng Tiểu Bình, Diệp Kiếm Anh. Lý Tiên Niệm, Uông Đông Hưng, Trần Tích Liến, Kỷ Đăng Khuê, Ngô Đức, Kiều Quán Hoa, và cũng gặp gỡ trao đổi nhiều lần với Vương Hải Dung, Đường Văn Sinh, thậm chí phải tìm cả Giang Thanh để trao đổi. Ông biết rằng, thời gian của ông không còn nhiều. Ông phải tranh thủ từng giây từng phút, phải dùng chút sức lực cuối cùng của sinh mệnh ông để đấu tranh với lũ bốn tên.Trong cái giờ phút nguy nan ấy, trái tim Đặng Tiểu Bình gắn chặt với trái tim Chu Ân Lai. Ngày 7.8.1975, khi Chu Ân Lai phải lên giường mổ, Đặng Tiểu Bình, người chiến hữu trung thành của ông ngồi trực ở bệnh viện. Ngày 17.9.1975, Chu Ân Lai lại có cuộc trao đổi với Đặng Tiểu Bình. Sáng ngày 19.9.1975, Đặng Dĩnh Siêu đến nhà Đặng Tiểu Bình bàn về việc điều trị cho Chu Ân Lai. Tình hình bệnh tật của Chu Ân Lai rất đáng lo ngại.Ngày 7.9.1975, tại bệnh viện Chu Ân Lai hội kiến với bí thư trung ương đảng cộng sản Rumani. Ông nói với khách: “Thiếp mời của Mác, tôi đã nhận được rồi. Điều đó cũng chẳng làm sao, ý chí con người cũng không thay đổi được quy luật của tự nhiên”. Ông còn nói: “Đảng cộng sản Trung quốc sau hơn nửa thế kỷ được tư tưởng Mao Trạch Đông tài ba, giáo dục, đã có được rất nhiều nhà lãnh đạo tài ba đầy năng lực. Tôi hiện nay bệnh nặng, không thể làm việc được nữa. Đồng chí Đặng Tiểu Bình sẽ thay thế tôi, điều khiển công việc của Quốc vụ viện. Đồng chí Đặng Tiểu Bình là người rất có tài năng, các đồng chí có thể hoàn toàn tin tưởng được, đồng chí Đặng Tiểu Bình sẽ tiếp tục chấp hành phương châm đối nội và đối ngoại của đảng tôi. Bây giờ, phó thủ tướng (chỉ Đặng Tiểu Bình), đã hoàn toàn phụ trách mọi mặt công tác rồi”. Ông còn nói một câu mang đây ngụ ý: “Đảng cộng sản Trung quốc có lịch sử vẻ vang năm mươi nhăm năm rất dám đấu tranh”. Đây là lần gặp gỡ khách nước ngoài cuối cùng trong cuộc đời ngoại giao huy hoàng của Chu Ân Lai.Buổi chiều ngày 20.9.1975, các bác sĩ chuẩn bị một cuộc đại phẫu thuật cho Chu Ân Lai. Đặng Tiểu Bình, Trương Xuân Kiều, Lý Tiên Niệm, Uông Đông Hưng và Đặng Dĩnh Siêu đâu có mặt tại bệnh viện. Trước khi bước vào phòng mổ ông nhờ nhân viên văn phòng tìm lại cho ông văn bản và bản ghi âm của bản báo cáo tai hội nghị “Chỉnh phong phê phán Lâm Bưu của trung ương ngày 23.6.1972, trong đó, ông có trình bầy rõ “Về vấn đề “Năm người ngang ngạnh” mà bọn Quốc Dân đảng đã vu cáo nói xấu bôi nhọ” ông. Ông để rất nhiều thời gian đọc lại một lần, rồi bằng bàn tay run rẩy, trịnh trọng ký tên mình lên đó, và ghi chú: Trước khi vào phòng mổ, 20-9-1975. Bè cánh lũ bốn tên đã từng âm mưu hãm hại Chu Ân Lai là “phản bội”. Chu Ân Lai biết chắc chắn rằng mình đang đi vào giờ phút cuối cùng của cuộc đời, ông biết lũ bốn tên hận ông đến tận xương tận tuỷ, kể cả sau khi ông mất, bọn chúng cũng chẳng quên đi. Ông muốn dùng sự thực bằng thép của chữ đen trận giấy trắng, chứng minh mình là người quang minh chính trực, là một đảng viên đảng cộng sản trung thành với đảng, ông muốn làm cho âm mưu vu khống của lũ bốn tên định dìm đẩy ông vào tử địa bị phá sản. Chu Ân Lai, người chiến sĩ trung thành, đã đem cả bầu nhiệt huyết và sinh mạng mình hiến dâng cho đảng, cho đất nước, cho nhân dân là như vậy, trong giây phút cuối cùng của cuộc đời mình, ông đã phải dùng biện pháp ấy để bảo vệ sự trong sạch và trung trinh của mình, lẽ nào lại chẳng phải là một câu chuyện bi thương hùng tráng đáng để cho chúng ta ghi nhớ hay sao!Sau khi đã hoàn thành cái tâm nguyện cuối cùng của mình, khi nằm lên chiếc xe đẩy vào phòng phẫu thuật, Chu Ân Lai còn hỏi những người đứng bên: “Đồng chí Tiểu Bình đến chưa?” Nghe tiếng hỏi, Đặng Tiểu Bình lên lên phía trước, và cúi người xuống phía Chu Ân Lai. Chu Ân Lai cố gắng giơ tay mình ra, nắm chặt lấy tay Đặng Tiểu Bình. Ông cố sức nói to: “Năm nay ông làm được rất lắm việc, mạnh hơn tôi nhiều”. Khi vào đến ngưỡng cửa phòng phẫu thuật, Chu Ân Lai đã dùng toàn bộ sức lực của sinh mạng mình, nói thật to: “Tôi trung với Đảng, trung với dân, tôi không phải là kẻ đầu hàng!”. Nghe tiếng gào đầy bi thương, phẫn nộ ấy, những người có mặt tại chỗ, chỉ cần có một chút lương tri, thì không ai là người không xúc động. Lần mổ ấy kéo dài suốt 5 tiếng đồng hồ. Với sức ngoan cường của sinh mệnh, Chu Ân Lai lại thêm một lần chịu đựng được cuộc phẫu thuật ấy. Nhưng điều bất hạnh là, trong quá trình phẫu thuật đã phát hiện ra rằng tế bào ung thư đã đi căn ra toàn thân, bác sĩ cho rằng, không còn cách gì điều trị được nữa. Biết được tình hình ấy, Đặng Tiểu Bình bồi hồi thương cảm, chỉ thị cho nhóm bác sĩ “Giảm thiểu nỗi đau đớn, kéo dài ngày sống”. Đây là việc làm duy nhất Đặng Tiểu Bình có thể làm được với người lão chiến hữu của ông, với người huynh trưởng của ông.Mười sáu năm sau, ngày 29.9.1991, khi xem bộ phim “Chu Ân Lai”, ông vẫn còn vô cùng xúc động. Những cảnh tượng năm xưa vẫn như còn sống nguyên trước mắt ông, ông vẫn còn ghi nhớ được tường tận rằng khi ấy, những đồng chí trong Ban thường vụ Bộ Chính trị đã chầu chực trong bệnh viện như thế nào, ghi nhớ tường tận lời Chu Ân Lai khi được đẩy xe vào phòng mổ đã thét lên như thế nào. Ông nói: “Lời gào thét của thủ tướng là tiếng lòng của ông, và cũng là tiếng gào thét cho lũ bốn tên nghe”.Trong cả quá trình bệnh tật của Chu Ân Lai, tất cả ông đã phải trải qua sáu lần đại phẫu và tám lần tiểu phẫu. Tháng chín, bệnh tình đã quá xấu, tế bào ung thư vẫn tiếp tục đi căn ra toàn thân. Ông phải chịu đựng nỗi dày vò đau đớn của căn bệnh ung thư, vậy mà ông không tỏ chút sự hãi, ý chí vẫn kiên cường. Phải đối diện với cái chết cận kề mà tinh thần vẫn tự tại, lòng dạ vẫn điềm nhiên. Với tâm hồn không biết sợ của một người theo chủ nghĩa duy vật triệt để, ông dặn dò về việc hậu sự của ông, ông nói: “Người chết rồi thì còn cần gì xương cốt? Đem nó rải xuống đất, có thể làm phân bón, rải xuống nước có thể nuôi cá”. Ông cho rằng, người chết rồi, có thể giải phẫu thi thể. Ông nói với những người thầy thuốc: “Hiện nay đối với việc điều trị bệnh ung thư chưa có phương pháp hay nào, một khi tôi mất đi, các ông có thể giải phẫu kiểm tra toàn bộ, nghiên cứu cho kỹ, để có thể có được chút cống hiến nào đó phát triển ngành y học nước nhà, điều đó cũng làm tôi vui lòng”. Ông còn dặn dò về việc hậu sự cho ông, tang lễ cần làm đơn giản, quy mô không vượt quá bất cứ đồng chí trung ương nào, không nên có bất cứ một sự đặc biệt nào. Ông đã sớm hẹn với người bạn đời Đặng Dĩnh Siêu của ông rằng, sau khi ông mất, tro xương của ông đem rải khắp non sông tươi đẹp này.Trong giờ phút cuối cùng của cuộc sống, điều duy nhất còn làm ông lo lắng vẫn chỉ là tiền đồ của đảng, vận mệnh của quốc gia, là sự điên cuồng ngang ngược của lũ bốn tên, là chân lý vẫn chưa thắng được tà thuyết. Mắt ông đã chứng kiến sự điên cuồng của lũ bốn tên nhìn thấy tình hình ngày càng thêm nguy ngập, nhìn thấy những hiểm nguy mà các chiến hữu của ông còn đang phải đương đầu, làm sao ông có thể yên tâm được. Ngày 11,12 và 17.10.1975, ông đã lần lượt chuyện trò, trao đổi với những người đến thăm ông như Đặng Tiểu Bình, Lý Tiên Niệm, Uông Đông Hưng, Kỷ Đăng Khuê, Ngô Đức. Ngày 2.11.1975, ông lại có cuộc chuyện trò với Đặng Tiểu Bình. Ngày 3.11.1975, ông cho mời Vương Hải Dung và Đường Văn Sinh tới trao đổi. Khi không có người tới thăm, nhân viên y vụ thường thấy một mình Chu Ân Lai nằm yên lãng trên giường bệnh, mắt ông nhìn ngước lên cao, hình như muốn nhìn xuyên qua trần nhà để trông thấy trời xanh minh mông vô tận. Lúc ông im lặng chìm vào trong trầm mặc, lúc lại thấy ông khe khẽ lắc đầu, thở dài.Chú thích: (1) Tam quốc diễn nghĩa và Hồng Lâu Mộng là hai bộ tiểu thuyết lịch sứ dài nổi tiếng của Trung quốc(2) Cao Cầu: Một viên quan thời kỳ Bắc Tống với chức Thái uý(3) Phương Tạp: Lãnh tụ của cuộc khởi nghĩa nông dân thừa Bắc Tống.(4) Lỗ Tấn: Nhà văn, nhà tư tưởng, nhà cách mạng vĩ đại của Trung quốc hiện đại