P9


P4
Chính quyền Campuchia dân chủ

Ngày 17-4-1975, quân Khmer Đỏ tiến vào Phnom Penh, chính thức nắm chủ quyền cả nước Campuchia. Trên danh nghĩa, chính phủ Campuchia lúc đó vẫn là chính phủ Hoàng gia thống nhất quốc gia Campuchia, một liên minh giữa hai phe Sihanouk và Khmer Đỏ được thành lập năm 1970 tại Bắc kinh để đối phó lại chính phủ Cộng hoà của tướng Lon Nol. Chính phủ đó do Sihanouk Quốc trưởng, Pen Nouth Thủ tướng, Khieu Samphan Phó Thủ tướng kiêm Bộ trưởng quốc phòng, Hu Nim Bộ trưởng Thông tin, Hou Youn Bộ trưởng Nội Vụ. Thật ra Sihanouk và Penn Nouth chỉ có hư vị. Từ 1970 đến 1975, Sihanouk đã phải ở lì tại Bấc Kinh, bị Ieng Sary lúc đó là trưởng phái bộ liên lạc giám sát chặt chẽ. Ông ta chỉ được về thăm mật khu Khmer Đỏ có một lần vào tháng 3-1973 sau khi nhờ Phạm Văn Đồng can thiệp với Trung hoa để áp lực với Ieng Sary.
Sau ngày 17-4-1975, Sihanouk vẫn chưa được về nước ngay, mà phải đợi đến ngày 19-8-1975 Khieu Samphan và Ieng Thirith mới qua Bình Nhưỡng đón về. Còn Hou Youn khi vào Phnom Penh đã bị mất tích một cách bí mật, có lẽ bị thủ tiêu vì chống lại chính sách quá khích. Vừa vào đến Phnom Penh, Khmer Đỏ đã bắt đầu thanh toán các thành phần đối lập, phản cách mạng và thực hiện công tác di tản dân thành phố về nông thôn.
Đảng cộng sản Campuchia, núp dưới cái tên “Tổ chức” (Angkar) bắt đầu củng cố quyền hành. Ban thường vụ Trung ương Đảng lúc đó gồm có Pol Pot, Nuon Chea, Ta Mok, So Phim, Ieng Sary, Von Verth, Son Sen và Takeu. Sau Pol Pot, nhân vật số hai Nuon Chea là một cán bộ cộng sản kỳ cựu, đã gia nhập đảng cộng sản Thái lan trước khi gia nhập đảng cộng sản Đông dương. Ở đại hội đảng năm 1960, Noun Chea đứng ở vị trí số hai. Sau khi Tổng bí thư Tou Samouth bị mất tích, Noun Chea vẫn đứng hàng thứ hai, để Pol Pot lên thay. Có lẽ vì không tham vọng và trung thành nên Nuon Chea được Pol Pot tin cẩn. Trong đảng, Nuon Chea đặc trách Vụ Tổ chức (chức vụ tương đương với Lê Đức Thọ của Việt nam lúc đó). Trước 1975, Nuon Chea là Tư lệnh phó Khmer Đỏ kiêm Chính uỷ toàn quân. Hai Uỷ viên khác là Ta Mok và So Phim là hai Bí thư Khu uỷ uy tín nhất. Von Verth trước 1975 là Bí thư Thành uỷ Phnom Penh, Ta Khu chỉ huy trưởng quân sự khu Tây Bắc. Tháng 7-1975, Pol Pot triệu tập đại hội các bí thư khu uỷ để thống nhất quân đội và phân định lại ranh giới. Quốc gia Campuchia được chia ra làm bảy khu. Đó là các khu Tây Nam (bí thư Ta Mok), Tây Bắc (Nhim Ros), Bắc (Khoy Thoàn), Đông (So Phim) Trung ương (Ke Pauk), Đông Bắc (Men San), Tây (Chu Chẹt).
Trước đó, trong chiến tranh, các bí thư khu uỷ hành động độc lập và được coi như những lãnh chúa, kiêm nhiệm cả về hành chánh lẫn quân sự, toàn quyền sinh sát. Sau đại hội, tất cả các bí thư khu uỷ biểu quyết chấp thuận đường lối cộng sản quá khích của Pol Pot và đồng ý giao lại hai phần ba quân số cơ hữu của mỗi quân khu cho Trung ương, để thành lập một quân đội thống nhất, chính qui. Một phần ba còn lại trở thành lực lượng cơ hữu quân khu. Khmer Đỏ vẫn núp dưới cái tên Tổ chức và Pol Pot vẫn còn là một nhân vật bí mật. Còn Sihanouk và Pen Nouth tuy được mang danh Quốc trưởng và Thủ tướng nhưng chỉ là hư danh, không có một chút quyền hành và gần như bị giam lỏng.
Ngày 5-1-1976, hiến pháp chính thức của Campuchia ra đời. Hiến pháp không có đoạn nào nói về những quyền tự do căn bản, mà chỉ ám chỉ đến chính sách cường bách lao động bằng câu “tuyệt đối không có nạn thất nghiệp”.
Ngày 20-3-1976, Quốc hội Campuchia được bầu ra, đa số các đại biểu là bí thư các quân khu và chi khu, Nuon Chea được cử làm Chủ tịch Quốc hội. Theo hiến pháp, quốc gia Campuchia sẽ có một Hội đồng Chủ tịch nhà nước do Quốc hội bầu lên. Sihanouk, người Quốc trưởng được chỉ định, không còn con đường nào khác, nộp đơn từ chức. Quốc hội đề cử Khieu Samphan giữ chức Chủ tịch Hội đồng Nhà nước, So Phim đệ nhất Phó chủ tịch, Nhim Ros đệ nhị Phó chủ tịch. Còn Sihanouk từ đó bị quản thúc. Ngày 12-4-1976, chính phủ chính thức của Khmer Đỏ ra mắt. Thủ tướng là Pol Pot, Ieng Sary Bộ trưởng ngoại giao, Son Sen Bộ trưởng quốc phòng, Von Verth Phó Thủ tướng đặc trách Kinh tế, Khẩy Toàn Bộ trưởng Kỹ nghệ, Hu Nam Bộ trưởng Thông tin, Thioun Thioeun Bộ trưởng Y Tế, Tauch Phoem Bộ trưởng Công chánh. Vợ Son Sen là Yun Yet Bộ trưởng Văn hoá giáo dục, vợ Ieng Sary là Thirith Bộ trưởng Xã hội.
Trái với sự mong đợi của nhiều người, nhất là những người dân Campuchia, ngày 17-4-1975 đã không đánh dấu một kỷ nguyên hoà bình no ấm, mà nó đã bắt đầu một giai đoạn đen tối nhất của lịch sử Campuchia. Là những người cộng sản cuồng tín, tập đoàn lãnh đạo Khmer Đỏ đã kết hợp những thực nghiệm xã hội chủ nghĩa đẫm máu của Stalin và Mao Trạch Đông với những kinh nghiệm lao động nô lệ của đời vua Jayavarman VII đến một mức độ cực đoan, gần như điên cuồng. Cũng công xã, cũng tập thể, cũng kinh tế chỉ huy, nhưng đường lối không tưởng tiến thẳng lên cộng sản chủ nghĩa của Campuchia đã đưa đến một thảm hoạ chưa từng thấy cho toàn dân tộc Campuchia. Dĩ nhiên công tác đầu tiên và chính yếu của một Đảng cộng sản khi mới nắm được chính quyền là nắm vững chuyên chính vô sản”, “tiêu diệt những phần tử phản cách mạng”. Nhưng hơn cả Stalin, Mao Trạch Đông và Hitler, đường lối quá khích của Khmer Đỏ đã gây ra thảm kịch tự diệt chủng hơn một phần tư dân số. Cũng như những người cộng sản Việt nam hay nói chữ “đỉnh cao trí tuệ”, “ba dòng thác cách mạng” cộng sản Campuchia gọi những thành phần đối nghịch cần tiêu diệt là “ba ngọn núi quyền lực phản động”. Ba ngọn núi kể trên lần lượt là đế quốc, phong kiến và tư sản mại bản. Nhưng sự suy diễn và xếp loại những thành phần này lại rất mơ hồ và lỏng lẻo. Đế quốc ngoài những viên chức hay sĩ quan, hạ sĩ quan chế độ cũ, còn là bất cứ người nào có liên quan đến ngoại quốc, như người gốc Việt, gốc Ấn, gốc Hoa, gốc Chàm. Cũng thế, phong kiến không chỉ có nghĩa những người liên quan đến hoàng tộc mà còn là những người tương đối có địa vị trong xã hội cũ như chuyên viên, trí thức, tăng ni... Còn tư sản mại bản là những thương gia, tiểu thương, nhất là những người cho vay nặng lãi.
Những người đầu tiên Khmer Đỏ phải giải quyết ngay là những sĩ quan viên chức chế độ cũ. Họ bị kêu đi trình diện ngay trong ngày 17-4-1975. Trong danh sách “bảy tên phản bội” mà đài phát thanh Khmer Đỏ tuyên án tử hình trước khi vào Phnom Penh gồm có Lon Nol, Sirik Matak, Long Boret, tướng Fernandez, cựu Thủ tướng In Tam, cựu Quốc trưởng Cheng Keng, và ông Sơn Ngọc Thành, chỉ có hoàng thân Sirik Matak và Thủ tướng Long Boret còn ở lại. Cả hai đều từ chối lời mời của Đại sứ Dan cùng lên máy bay di tản. Hoàng thân Sirik Matak bị bắt sau khi tị nạn trong toà đại sứ Pháp, còn ông Long Boret thì chán nản, mệt mỏi, gọi điện thoại cho Khmer Đỏ chỉ đường cho họ đến nhà bắt. Dĩ nhiên cả hai bị giết ngay.
Những sĩ quan cao cấp của quân Cộng hoà cũ sau khi khai lý lịch bị bắn chết ngay ở sân vận động thành phố, còn các viên chức dân sự thì bị xử tử ở Hội quán thể thao Phnom Penh. Trong số những người bị giết trong ngày đầu tiên có tướng Lon Non, em ruột Lon Nol, các tướng Chim Chuồn, Hem Keth Dong, phát ngôn viên quân sự Am Rong, các bộ trưởng trong chính phủ cũ, Chủ tịch Quốc hội Ung Bun Hor, cao tăng Phật Giáo Saundech Saugh.
Riêng tại tỉnh Battambang, ngày 23-4-1975, Khmer Đỏ đem sáu xe vận tải chở các sĩ quan nói là đi đón Sihanouk nhưng lại đưa đến một địa điểm hoang vắng phục kích tàn sát hết, chỉ có bốn người chạy thoát trốn sang Thái lan. Đồng thời khoảng ba trăm hạ sĩ quan cũng bị giết tại một địa điểm khác. Sau các sĩ quan, hạ sĩ quan, về sau một số binh lính cùng những người thuộc “hai ngọn núi” phản động còn lại cũng dần dần bị bắt và thủ tiêu, trong lúc đang còn trên đường di chuyển, hoặc sau khi đã đến nơi định cư. Ngay từ ngày đầu tiên, song song với công tác tiêu diệt những phần tử phản cách mạng, cộng sản Campuchia bắt đầu thực hiện ngay một cuộc cách mạng thứ hai, cuộc cách mạng tiến thẳng lên cộng sản chủ nghĩa và xây dựng một quốc gia Campuchia “hùng cường thịnh vượng” trong vòng mười năm, bằng cách áp dụng một chính sách kinh tế tập trung, thiết lập một xã hội cộng sản nguyên thuỷ và cưỡng bách lao động toàn thể dân chúng. Họ phá bỏ hoàn toàn hệ thống kinh tế cũ, bãi bỏ tiền tệ, bãi bỏ tư hữu, tiêu diệt giai cấp tư sản và các thành phần buôn bán. Toàn thể dân chúng ở Phnom Penh cũng như ở các thành phố lớn như Battambang, Kompong Cham, Siem Reap, Kompong Thom... phải di tản về những vùng quê hẻo lánh xa xôi để tham gia lao động sản xuất. Chưa kịp hưởng một giây phút chào đón hoà bình, họ bắt buộc phải di tản ngay, vì theo Khmer Đỏ, “máy bay Mỹ sắp oanh tạc thành phố”. Đối với Khmer Đỏ, dân thành thị được coi như những thành phần khả nghi, phản động, ăn bám, trong chiến tranh đã không đóng góp được gì cho “cách mạng”. Tất cả mọi người kể cả thương binh, những người già yếu bệnh tật phải rời thành phố ngay lập tức. Con đường di chuyển được quyết định một cách độc đoán. Có những người phải đi bộ hàng tuần, có những người phải đi bộ hàng tháng mới đến nơi định cư. Nhiều người bị chết trên đường đi hoặc vì bì đói khát, bệnh tật, hoặc vì bị bất hay xử tử vì đủ mọi lý do. Suốt hơn bốn năm Khmer Đỏ nắm chính quyền một bầu không khí khủng bố và chết chóc bao phủ toàn quốc Campuchia. Ngay sau khi đến nơi định cư, những người dân thành thị di tản bị xếp ngay vào thành phần những “người mới” để phân biệt với những “người cũ” là những người địa phương từng ở dưới sự cai trị của Khmer Đỏ trước đó. “Người mới” phải ở cách biệt với “người cũ”. Nhiều khi, vì nhu cầu công lách họ phải đổi chỗ định cư luôn, và phải thi hành những công tác nặng nhọc nhất, dưới những điều kiện khắc nghiệt nhất, ở những nơi khí hậu và đất đai khó khăn như những vùng rừng núi, sình lầy. đời sống riêng tư bị cấm đoán và phương tiện y tế hầu như không có. Khẩu phần của người mới lúc nào cũng thiếu thốn (thường thì người cũ được hai bát cơm một bữa, người mới một bát rưỡi). Mỗi khi địa phương bị thiếu lương thực thì những người mới bị lãnh hậu quả trước tiên. Gia đình những người mới bị phân tán khắp nơi, tuỳ theo tuổi và nhu cầu, nhất là những thiếu niên dưới mười tám tuổi phải ở riêng với cha mẹ để khỏi bị “ô nhiễm ý thức hệ” cũ. Kể cả ông hoàng Sihanouk cũng có một số con cái bị phân tán, không biết lao động ở đâu và sau này chết nơi nào. Những người mới thường xuyên bị theo dõi, bị khai lý lịch, bị kiểm soát và có thể bị kết tội và xử tử bất cứ lúc nào. Nếu không bị bắt vì lý lịch, thì cũng có thể bị bắt và bị giết vì lười lao động, vì tỏ thái độ bất mãn hay có những quan hệ tình cảm bị cấm đoán. Người bị kết tội không cần phải ra toà, và để tiết kiệm đạn họ sẽ bị xử tử bằng búa, rìu, hay bị trùm túi nhựa cho đến khi bị nghẹt thở. Những người sống sót cùng những “người cũ” đều được đội ngũ hoá, được xếp thành tổ, xã, phường, quận...
Về lao động sản xuất, họ được tổ chức thành những lực lượng”, “hợp tác”, công đoàn”, “nông trường”. Sau khi nhân dân đã được đội ngũ hoá như thế cả nước Campuchia trở nên một trại tập trung khổng lồ. Dân chúng phải làm việc mỗi ngày từ sáu giờ sáng đến tám chín giờ đêm. Sau đó còn phải họp tổ để kiểm điểm. Hầu như trong năm không có ngày lễ. Những ngày nghỉ được luật quy định là những ngày 10, 20, 30 trong tháng, nhưng điều này hiếm khi được thực hiện.
Mục tiêu đội ngũ hoá cả nước này đã được Khieu Samphan hoạch định trong luận án tiến sĩ kinh tế tại Sorbonne năm 1959. Ông ta viết: “Sự tổ chức có phương pháp tiềm năng của quần chúng nông dân sẽ làm tăng hiệu năng sản xuất lên hàng trăm lần”, và biện pháp tiêu diệt tư hữu, cường bách lao động, ăn ở tập thể này ít ra đã được một người thán phục, đó là Mao Trạch Đông, tác giả “bước nhảy vọt vĩ đại” ở Trung hoa. Ông ta đã khen Pol Pot: chỉ trong một hành động mà các đồng chí đã thực hiện được những gì chúng tôi không làm được. Nhưng cũng không ai biết rõ hậu quả tai hại của đường lối này hơn Chu Ân Lai. Năm 1975, trên giường bệnh, ông ta đã khuyên Khieu Samphan và Ieng Thirith “Hãy tiến t ngợi Pol Pot. Sau đó, Trung hoa hứa viện trợ cho Campuchia một tỉ mỹ kim trong vòng năm năm. Đồng thời họ cũng bí mật cứu xét viện trợ quân sự cho Campuchia.
Ngày 2-8-1975, một phái đoàn cao cấp của Đảng Lao động Việt nam do Lê Duẩn, Phạm Hùng và Xuân Thuỷ qua thăm Phnom Penh đáp lễ. Cuộc viếng thăm ngắn ngủi và lạnh nhạt. Có lẽ để lấy lòng Trung hoa, Việt nam tỏ ra mềm dẻo hơn, công nhận chủ quyền của Campuchia trên đảo Hòn Trọc và hứa sẽ trao trả lại. Đảo này được giao về Campuchia vào tháng 10-1975. Theo Sihanouk, Việt nam lại tái chiếm đảo này năm 1978.
Tình hình bang giao giữa hai nước sau đó dịu đi đôi chút, nhưng những bất hoà căn bản vẫn còn ngấm ngầm. Tháng 9-1975, khi Sihanouk và Khieu Samphan đến Hà nội dự lễ quốc khánh của Việt nam, Phạm Văn Đồng mời phái đoàn Campuchia dự tiệc “thân mật” với các phái đoàn Mặt trận giải phóng Miền Nam và Lào, Khieu Samphan từ chối tức khắc, sau đó giải thích với Sihanouk rằng đó là cái bẫy của Việt nam để tiến tới thành lập Liên bang Đông dương. Dịp quốc khánh đó cũng là dịp Trung hoa thăm dò lập trường của Việt nam. Trung hoa đã cử tướng Trần Tích Liên, Uỷ viên Bộ Chính trị và Tư lệnh Quân khu Bắc kinh làm trưởng phái đoàn.
Việc bổ nhiệm đó mang một ý nghĩa chính trị đặc biệt, vì tướng Liên là tướng tư lệnh chỉ huy quân đội Trung hoa trong những trận đụng độ với Liên xô ở biên giới trong năm 1969. Trên đường đến Hà nội, tướng Liên ghé thăm nhà máy gang thép Thái Nguyên đang được Trung hoa giúp tái xây dựng, đọc diễn văn kêu gọi đấu tranh chống “bá quyền” (Liên xô). Khi đến Hà nội ngày 31-8-75, tướng Liên vẫn được Phạm Văn Đồng “ôm hôn thắm thiết”, nhưng bài diễn văn chống bá quyền bị đục bỏ trên báo chí và đài phát thanh Việt nam. Đài phát thanh Moscow lúc đó cực lực công kích hành động của tướng Liên, gọi đó là gây hấn và kém văn minh.
Việt nam sau bao năm nhờ có viện trợ dồi dào của cả Liên xô và Trung hoa để có thể theo đuổi chiến tranh, đang rất cần viện trợ tái thiết, nên đã cố gắng dung hoà với cả hai nước. Nhưng sau khi chiến tranh chấm dứt, mục tiêu chiến lược của cả hai nước này đã thay đổi. Liên xô chỉ bằng lòng trợ giúp Việt nam nếu Việt nam chịu nằm trong quỹ đạo Liên xô, kể cả về kinh tế lẫn quân sự, để giúp Liên xô khống chế Trung hoa và có một đầu cầu quân sự trong vùng nam Thái Bình Dương. Còn Trung hoa lúc đó ngày càng thân thiện hơn với Hoa kỳ và đang coi Liên xô là kẻ thù số một, không thấy có nhu cầu phải giúp đỡ một nước Việt nam độc lập và không chịu về phe mình để chống lại Liên xô. Vì thế trong tháng 8-1975, khi Lê Thanh Nghị, Chủ tịch Uỷ ban kế hoạch nhà nước, người đã từng sang Trung hoa xin viện trợ nhiều lần đến nỗi bị đặt cho biệt danh “tên ăn mày” lại sang xin viện trợ. Lần này Trung hoa từ chối thẳng tay.
Không nản chí, cuối tháng 9-1975 Lê Duẩn và Lê Thanh Nghị lại sang thêm một lần nữa. Cuộc tiếp đón mới đầu diễn ra thân thiện cho tới khi Đặng Tiểu Bình, lúc đó vừa được phục chức Phó Thủ tướng, sau khi bị thanh trừng lần thứ nhất, trong buổi tiệc tiếp tân đã đề cập đến “chủ nghĩa bá quyền” và ám chỉ rằng Việt nam nên liên kết với Trung hoa để chống lại Liên xô. Tuy nhiên, trong đáp từ, Lê Duẩn đã không đả động gì đến bá quyền mà còn cám ơn tất cả “những nước xã hội chủ nghĩa anh em” dĩ nhiên trong đó có Liên xô, trong cuộc đấu tranh chống đế quốc. Sự từ chối không liên kết với Trung hoa của Lê Duẩn đưa đến kết quả là Trung hoa từ chối viện trợ. Lê Duẩn cũng từ chối thảo thông cáo chung và huỷ bỏ tiệc liên hoan đáp lễ. Ngày 25-9-1975 Lê Duẩn đáp xe lửa đi Thiên Tân trở về nước. Một tháng sau, Lê Duẩn sang Liên xô. Trái với chuyến đi Trung hoa vừa rồi, tại đây Lê Duẩn ký với Liên xô một thông cáo chung trong đó Việt nam nhất trí với Liên xô trong đường lối đối ngoại. Đối với Trung hoa, kể từ ngày đó, Việt nam đã công khai đầu hàng chủ nghĩa bá quyền và đứng trong hàng ngũ đối lập với Trung hoa.
Việt nam lúc đó đã ý thức được vị thế đối lập của mình với Trung hoa và sự liên kết giữa Trung quốc và Campuchia, nên đã lợi dụng thời gian mà cuộc tranh chấp quyền lực ở Trung hoa đi tới giai đoạn cực độ để củng cố hoàn cảnh của mình. Trước hết, họ loại Hoàng Văn Hoan, một nhân vật thân Bắc kinh ra khỏi Bộ Chính trị. Sau đó, họ bất thần triệu tập hội nghị sơ bộ ở Đà Lạt bàn về việc thống nhất hai miền Nam Bắc. Trưởng phái đoàn miền Bắc là Trường Chinh, nhân vật số hai của Đảng, còn trưởng phái đoàn miền Nam là Phạm Hùng, nhân vật thứ tư, dĩ nhiên hội nghị đưa đến kết quả nhất trí. Trung hoa chỉ có thể phản ứng lại một cách yếu ớt, bằng cách công bố chủ quyền của họ trên quần đảo Trường Sa. Việt nam vẫn không nao núng. Tháng 2-1976, để chuẩn bị bầu quốc hội cả nước, họ bắt tất cả nhân dân trong nước phải khai quốc tịch. Những người không nhận quốc tịch Việt nam bị mất hộ khẩu và khẩu phần. Dĩ nhiên, đại đa số Hoa kiều phải nhập tịch Việt nam. Lần này Trung hoa phản kháng dữ dội, nhưng Việt nam vẫn không nhượng bộ. Đây là những đụng chạm đầu tiên về vấn đề Hoa kiều ở Việt nam giữa hai chính phủ. Sau khi đã thắt chặt được sự kiểm soát nhân dân trong nước, Việt nam tìm cách củng cố an ninh sườn biên giới Tây Bắc. Ngày 2-12-1976, Lê Duẩn sang Viêng-chăn, cùng Kayson Phomvihane, Bí thư đảng cộng sản Lào ký một thông cáo chung. Thông cáo chung này hứa hẹn “tăng cường tình đoàn kết gắn bó giữa ba dân tộc Lào, Campuchia và Việt nam”. Đối với Campuchia, đây là bước đầu tiên của Việt nam trong kế hoạch thành lập Liên bang Đông dương. Cộng sản Lào, trong chiến tranh chống Pháp, đã dựa dẫm vào Việt nam mà phát triển, và trong chiến tranh Đông dương thứ hai, đã nhờ Việt nam mà chiếm được chính quyền. Sau 1975, Việt nam vẫn còn để lại Lào hơn bốn mươi ngàn bộ đội. Thông cáo chung giữa Việt nam và Lào đã gián tiếp hợp thức hoá sự hiện diện của quân đội Việt nam trên lãnh thổ Lào. Có được đồng minh như Lào làm trái độn, Việt nam đã bảo đảm được sự an toàn ở biên giới phía Tây, cô lập sự tiếp vận đường bộ giữa Trung hoa và Campuchia, và tạo thêm một mối đe doạ cho Campuchia từ biên giới phía Bắc. Hai tháng sau, trong lễ kỷ niệm đệ nhất chu niên ngày chiến thắng, Ieng Sary ngoài việc nhấn mạnh đến sự độc lập, tự chủ và toàn vẹn lãnh thổ, đã ngầm chỉ trích Lào đã để bộ đội Việt nam trú đóng trên lãnh thổ của mình. Những tháng sau đó, vì vấn đề nội bộ, cả hai nước Việt nam và Campuchia đều muốn giải quyết vấn đề biên giới một cách ôn hoà.
Tháng 5-1976, Phan Hiền tới Phnom Penh lại thảo luận về biên giới. Vấn đề gay go nhất là vấn đề lãnh hải. Trước kia, biên giới ngoài biển giữa hai nước được quy định theo lằn ranh Brevié, do Thống đốc Brevié năm 1939 đã vẽ ra một cách độc đoán. Lằn ranh đó là một đường thẳng vẽ từ biên giới đất liền, theo một góc 140 độ về hướng vịnh Thái lan. Khi đường thẳng đó đụng đảo Phú Quốc thì lại lệch ra ba cây số về hướng bắc để có thể gom đảo Phú Quốc vào Việt nam. Sau 1954, hải quân Việt nam cộng hoà đã vạch một lằn ranh khác lấn thêm về hướng bắc để gom thêm một số đảo, trong đó có đảo Hòn Trọc (Hai) vào Việt nam. Lúc đó, để lấy lòng Sihanouk đã giúp đỡ năm 1966 Bắc Việt đã công nhận ranh giới Brevié. Giờ đây, trong hội nghị, Phan Hiền đại diện chính phủ Việt nam bằng lòng nhường tất cả các đảo phía bắc lằn ranh Brevié cho Campuchia, nhưng vì vấn đề tài nguyên dầu hoả ở thềm lục địa, lại đòi hỏi phải thương thuyết lại về biên giới lãnh hải, căn cứ vào lằn ranh tuần tiễu cũ của hải quân Việt nam cộng hoà. Cũng như trong trường hợp tranh chấp với Trung hoa về Trường Sa, Việt nam lại nêu lý do là vì chú tâm vào chiến tranh lúc đó nên đã không chú trọng nhiều đến vấn đề biên giới. Một lần nữa, Campuchia lại tìm thấy một lý do để nghi kỵ về tham vọng đất đai của Việt nam, dù quốc gia hay cộng sản. Những nạn rứt đã không thể hàn gắn một cách hoà bình. Hai chính quyền cộng sản đành phải tìm cách củng cố thế lực theo những đường lối riêng biệt của mình.
Sau những thất bại ngoại giao với hai lân bang cộng sản, Việt nam cảm thấy bị cô lập, họ bắt đầu thay đổi chính sách đối với các quốc gia ASEAN trong vùng. Mới hơn một năm trước, sau chiến thắng ngày 30-4, Việt nam đã đối xử với những nước trong Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á hay ASEAN một cách khinh miệt, coi những nước này như tay sai hay chư hầu của đế quốc. Hiệp hội này gồm các quốc gia Malaysia, Thái lan, Singapore, Phillipines, Indonesia và sau này thêm Brunei, được thành lập năm 1967, đã ít nhiều giúp đỡ Nam Việt nam trong chiến tranh. Sau khi Nam Việt nam bị đánh bại, thấy Hoa kỳ không thể được coi như một đồng minh đáng tin cậy, các nước kể trên nhận thấy chỉ nên trông cậy vào sức mình, kể cả về quốc phòng cũng như kinh tế. Kết quả là họ đã đạt được những thành quả kinh tế tốt đẹp đến nỗi được gọi là “phép lạ”. Hơn một năm sau chiến thắng, nhận thức được nền kinh tế èo một của mình so với các nước lân bang, đồng thời đang hy vọng có thể nhận được viện trợ từ các nước trong phe tự do, tháng 7-1976, Việt nam cử Phan Hiền đi viếng thăm thân hữu Phillipines, Malaysia, Singapore, Indonesia và Miến Điện. Phan Hiền đã tỏ ra rất mềm dẻo. Khi bị hỏi về những lời công kích những nước này trước kia của Việt nam, trên báo chí cũng như trên đài phát thanh, Phan Hiền đổ lỗi một cách gượng gạo là đó là ý kiến của những nhà báo chứ không phải lập trường chính phủ.
Những tháng cuối năm 1976 được coi như đỉnh cao cho những tham vọng của những lãnh tụ cộng sản Việt nam. Những cao vọng đó được thể hiện trong đại hội Đảng cộng sản lần thứ tư vào tháng 12-1976, trong đó, họ đặt ra những kế hoạch vĩ đại dựa trên những mơ mộng về phép lạ của chủ nghĩa Mác, về tài ba quản lý kinh tế của những “đỉnh cao trí tuệ” và những ước tính chủ quan về số tiền viện trợ mà họ hy vọng sẽ nhận được từ Liên xô, Trung quốc, cùng các nước Tây Âu, Nhật bản và Hoa kỳ. Đối với hai nước cộng sản Trung hoa và Liên xô, Việt nam nghĩ rằng họ đã hy sinh quá nhiều tài nguyên cũng như sinh mạng cho sự an ninh và bành trướng của khối Cộng, cho nên họ có quyền được các nước cộng sản đàn anh, dù có sự tranh chấp ý thức hệ giữa hai nước cộng sản Nga Hoa, Việt nam vẫn hy vọng có thể tiếp tục chính sách đu dây như trong những năm chiến tranh để có thể nhận viện trợ của cả hai nước. Dù trong mấy tháng trước, Trung hoa còn tỏ ra lạnh nhạt, nhưng sau biến cố ngày mùng 6-10-1976 tại Bắc kinh, phe quá khích “lũ bốn người” đã bị tiêu diệt. Với sự hồi phục của phe ôn hoà và Đặng Tiểu Bình, Việt nam hy vọng Trung hoa sẽ theo đuổi một đường lối hoà hoãn hơn, nhất là sau khi thấy Việt nam tỏ ra độc lập đối với Liên xô. Tuy trong chuyến đi cuối năm 1975, Lê Duẩn đã công khai tuyên bố ủng hộ đường lối đối ngoại đối với phe tự do của Liên xô, nhưng Việt nam vẫn không muốn đứng hẳn trong quỹ đạo của họ. Việt nam đã để Pháp được giữ Toà lãnh sự ở Sài gòn, nhưng Liên xô bị từ chối. Các hãng thông tấn AP, Reuter, UPI đều có văn phòng tại Miền Nam nhưng hãng TASS thì không được. Trong năm 1976, những hành động độc lập lại lộ liễu hơn. Trong dịp tham dự Đại hội Đảng lần thứ hai mươi lăm của Xô viết vào tháng 3-1976, Lê Duẩn công khai đề cao sự độc lập và nhấn mạnh rằng mỗi đảng cộng sản có thể theo đuổi một đường lối riêng, phù hợp với những điều kiện của mỗi nước. Liên xô lại càng giận dữ khi Việt nam đã không chịu gia nhập Hội đồng tương trợ kinh tế Comecon của khối Cộng mà lại xin gia nhập Quỹ tiền tệ quốc tế của phe Tự do, vào tháng 9-1976.
Hai tháng sau, tình trạng sóng gió giữa hai nước lại được thể hiện qua nghi thức ngoại giao. Ngày 6-11-1976, khi đại sứ Liên xô mở tiếp tân tại khách sạn Thắng lợi mừng quốc khánh, Phạm Văn Đồng đến dự nhưng dành cả buổi tối để nói chuyện với đại sứ Pháp mà không đếm xỉa gì tới đại sứ Chaplin của Nga. Bang giao giữa Việt nam và Liên xô càng suy đồi hơn trong đại hội Đảng lần thứ tư của Đảng cộng sản Việt nam vào cuối tháng 12-1976. Đại diện Liên xô là lý thuyết gia Suslov, cùng với các phái đoàn cộng sản Đông Âu, Suslov một lần nữa, vừa kín đáo vừa công khai, khuyến dụ Việt nam gia nhập Comecon. Một lần nữa, Việt nam từ chối, Suslov giận dữ trở về nước trước dự định.
Tỏ ra độc lập đối với Liên xô, ngoài mục đích lấy lòng những lãnh tụ mới của Trung hoa, Việt nam còn hy vọng xin được tiền viện trợ của các nước Tây Âu và Hoa kỳ. Lúc đó, Hoa kỳ đã bầu một tổng thống tương đối chủ hoà là Carter. Còn ở châu Âu, ngoài những nước Bắc Âu như Thuỵ Điển đã công khai ủng hộ Bắc Việt trong chiến tranh, một số các nước khác cũng có ít nhiều bất đồng với Hoa kỳ. Trong hoàn cảnh quốc tế đó, với đầu óc chủ quan tự cho mình là quan trọng, các nhà lãnh đạo Việt nam lạc quan nghĩ rằng họ có thể nhận được viện trợ dồi dào từ khắp nơi. Với sự mù quáng đó, chỉ trong vòng hai năm, họ đã biến Việt nam thành một nước lẻ loi và có lợi tức đầu người thấp nhất thế giới.
Sự mơ mộng của những lãnh tụ cộng sản già nua của Việt nam vừa đạt tới đỉnh cao đã bắt đầu tiêu tan ngay trong những tháng đầu năm 1977.
Năm đó miền Bắc bị mất mùa. Tại miền Nam, chính sách kinh tế tập trung và đường lối quản lý vụng về của cán bộ miền Bắc đưa vào khiến cho mức sản xuất công nghiệp suy giảm hẳn so với trước kia. Bị ép buộc đóng thuế hay vào hợp tác, nông dân miền Nam không chịu tăng gia sản xuất, đưa đến cảnh Việt nam bị thiếu hụt lương thực. Tháng 3-1977, Việt nam phải kêu gọi Liên hiệp quốc và các quốc gia cộng sản thân hữu viện trợ khẩn cấp. Kết quả không đi đến đâu, không nước nào, kể cả Liên xô chịu giúp. Những cố gắng để hoà giải với hai nước lân bang cũng thất bại. Tháng 2-1977, Thứ trưởng ngoại giao Hoàng Văn Lợi tới Phnom Penh đề nghị một hội nghị thượng đỉnh Đông dương. Đề nghị này chỉ gây thêm nghi ngờ và dĩ nhiên bị từ chối.
Những tháng đầu năm 1977 là những tháng mà cả hai nước Việt nam và Campuchia nín thở chờ đợi những diễn biến trong nội tình chính trị Trung hoa sau cái chết của Mao Trạch Đông. Sau khi phe quá khích “bè lũ bốn tên” bị thanh toán, với phe ôn hoà trở lại chính quyền, Việt nam lạc quan hơn và Campuchia lo âu hơn vì Ieng Sary đã rất từng thân cận với Diêu Văn Nguyên, Chủ tịch Uỷ ban ngoại giao Trung ương Đảng, trong phe “Lũ bốn người” và ngày 30-9-1976, Ieng Sary còn gửi một điện văn sang Trung hoa, trong đó chúc mừng Hoa Quốc Phong và đảng cộng sản Trung hoa đã đập tan được “bè lũ phản cách mạng, chống chủ nghĩa xã hội của Lưu Thiếu Kỳ và Đặng Tiểu Bình”. Vì sự ủng hộ của Trung hoa quá cần thiết, chưa đầy một tháng sau, Bộ ngoại giao Campuchia đã phải muối mặt gửi một điện văn khác cho Hoa Quốc Phong, lần này thì ca tụng Hoa Quốc Phong đã đập tan được lũ bốn người phản động và chống đảng”.
Sau bốn tháng chấn chỉnh nội bộ, đường lối ngoại giao của Trung hoa bắt đầu sáng tỏ. Kết quả là, cũng như những chính phủ trước, họ vẫn coi Liên xô là kẻ thù số một, và trái với sự lo âu của Campuchia và hi vọng của Việt nam, Trung hoa vẫn tiếp lục ủng hộ đường lối đối ngoại chống Việt nam của Campuchia. Tháng 2-1977, Bắc kinh chính thức từ chối thư xin viện trợ của Việt nam và tháng 3, Ieng Sary yên lòng sang Bắc kinh nối lại mối quan hệ thân thiết cũ. Trong buổi tiệc tiếp tân do Lý Tiên Niệm khoan đãi phái đoàn Campuchia, sự hiện diện của tướng Vương Thăng Long, Tổng tham mưu phó quân đội Trung hoa cho thấy có sự hợp tác quân sự giữa hai nước. Tháng sau, như để cảnh cáo Việt nam, trong buổi tiếp tân tại Toà Đại sứ Campuchia kỷ niệm hai năm ngày chiến thắng, ngoại trưởng Hoàng Hoa công khai tuyên bố nước Campuchia Dân chủ đang bị kẻ thù phá hoại, và Trung hoa sẽ tiếp tục đường lối của Chủ tịch Mao Trạch Đông là sát cánh với những dân tộc nhỏ yếu, chống lại những hành động can thiệp và gây hấn của những nước lân bang. Đã bảo đảm được sự hậu thuẫn của Trung hoa, hai tuần sau, đúng vào ngày Việt nam đang kỷ niệm hai năm chiến thắng, quân đội Campuchia mở một cuộc tấn công quy mô vào những làng xã và thị trấn dọc biên giới Việt nam thuộc tỉnh An Giang.
Không bao giờ ngờ Campuchia sẽ mở cuộc tấn công lớn như thế, trong thời gian đó, Việt nam bắt đầu thi hành giai đoạn đầu của nghị quyết đại hội đảng lần thứ tư bằng cách gửi người đi xin viện trợ. Phan Hiền sang Paris gặp Holbrook, Võ Nguyên Giáp đi Đông Âu, Phạm Văn Đồng sang châu Âu. Phạm Văn Đồng bị thất vọng ngay trong những ngày đầu liên. Ở châu Âu, trừ Pháp và ba nước nhỏ Đan Mạch, Phần Lan, Na Uy, các nước lớn như Tây Đức, Anh không chịu tiếp. Chuyến đi Pháp dự trù kéo dài ba luận bị rút ngắn còn có ba ngày. Trên đường đi, Phạm Văn Đồng phải ghé lại Moscow năm ngày. Thái độ muốn độc lập của Việt nam khiến cuộc tiếp xúc giữa Phạm Văn Đồng và Thủ tướng Nga Kossygin lúc đó rất lạnh nhạt. Nhưng chỉ trong vòng hai tuần sau, bầu không khí đó đã thay đổi hẳn.
Trong hai tuần đó, nhiều biến cố đã xẩy ra. Chuyến đi xin tiền Âu châu của Phạm Văn Đồng hoàn toàn thất bại. Pháp chỉ viện trợ một số tiền nhỏ, còn các nước Bắc Âu chỉ hứa hẹn lơ là. Tại Paris, cuộc hội đàm giữa Phan Hiền với Holbrook tan vỡ, và Quốc hội Mỹ đã biểu quyết cấm chính phủ không được viện trợ cho Việt nam. Tại Việt nam, Trung hoa đã tỏ thái độ bất thân thiện và Campuchia vừa mở một cuộc tấn công lớn đầu tiên ở biên giới. Bị lẻ loi, Việt nam không còn con đường nào khác là phải dựa vào Liên xô. Đầu tháng 5, Bộ Chính trị ra chỉ thị cho Phạm Văn Đồng phải ở lại Moscow để chờ Lê Đức Thọ từ Hà nội bí mật bay bên đó. Cả hai bắt đầu thảo luận với những nhà lãnh đạo đảng và chính phủ Liên xô về những điều kiện viện trợ.
Một mặt cải thiện ngoại giao với Liên xô, mặt khác Việt nam vẫn chưa thể hy sinh mối quan hệ quan trọng với Trung hoa nên đầu tháng 6-1977, tướng Giáp sau khi đi Đông Âu và Liên xô về, đem theo một phái đoàn hùng hậu sang “viếng thăm thiện chí” Bắc kinh. Nhưng chuyến đi là một thất bại nhục nhã. Nhân vật tương đương của Trung hoa là Bộ trưởng quốc phòng Diệp Kiếm Anh không ra phi trường đón tiếp, và cũng chỉ để những cán bộ cấp thấp dự những cuộc hội đàm. Tướng Giáp gỡ thể diện bằng cách tuyên bố đã bắt được cố vấn Trung hoa trong trận đánh với Campuchia ở biên giới tháng trước.
Tuy thế nhưng Việt nam vẫn cố gắng, vì nghĩ rằng viễn ảnh một liên minh Việt nam - Liên xô có thể làm Trung hoa thay đổi ý kiến, nên ngày 8-6-1977, trên đường từ Moscow về nước. Phạm Văn Đồng lại ghé Bắc kinh. Lần này, nhờ có hỏi trước, nên Phạm văn Đồng được phó Thủ tướng Trung hoa Lý Tiên Niệm tiếp đón. Nhưng Phạm Văn Đồng chưa kịp nói gì về vấn đề viện trợ thì Lý Tiên Niệm đã nêu một danh sách dài những than phiền và phản kháng. Hai điều phản kháng quan trọng nhất là chính sách đối với người Hoa ở Việt nam và sự lật lọng của Hà nội về chủ quyền các quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa. Trước kia, để có thể được Trung hoa giúp đỡ trong cuộc chiến tranh nội chiến, Việt nam đã công nhận chủ quyền của Trung hoa trên hai quần đảo, nhưng sau ngày 30-4-1975, Việt nam đã đem quân chiếm đóng quần đảo Trường Sa. Phạm Văn Đồng đã gượng gạo trả lời rằng trước kia vì bận chiến tranh với Hoa kỳ, và cần viện trợ của Trung hoa, nên Việt nam không để ý đến vấn đề những hải đảo. Kết quả của cuộc hội đàm là tình trạng bang giao của hai nước càng tồi tệ hơn.
Ngược lại, sau cuộc hội đàm ở Moscow, bang giao hai nước Việt nam, Liên xô bước vào một khúc quanh mới. Mới mấy tháng trước bầu không khí còn lạnh nhạt. Giờ đây, Lê Duẩn hết lời ca tụng và tỏ lòng biết ơn Liên xô bằng cách nhấc nhở câu “uống nước phải nhớ nguồn”, và để kỷ niệm 60 năm Cách mạng Tháng Mười của Nga, Việt nam phát động “tháng Việt xô hữu nghị”. Tình hữu nghị này không phải là không có giá. Trước hết, Việt nam gia nhập ngân hàng quốc tế hợp tác kinh tế (IBEC) và Ngân hàng đầu tư quốc tế của Liên xô. Việt nam cũng bắt đầu gửi những vũ khí thặng dư sang Ethiopia và El Salvador. Từ tháng 7-1977, nhiều phái đoàn quân sự hùng hậu của Liên xô bay sang Việt nam thăm viếng và nghiên cứu những phi trường và hải cảng ở phía Nam như Đà Nẵng, Cam Ranh, Nha Trang, Tân Sơn Nhất, Cần Thơ, bắt đầu một giai đoạn hợp tác quân sự mới. Sau khi đã tham khảo Liên xô, ngày 18-7-1977, phái đoàn đảng và chính phủ Việt nam do Lê Duẩn và Phạm Văn Đồng cầm đầu, sang Viêng-chăn cùng Chủ tịch đảng Souphanouvong, Thủ tướng Kayson Phomvihan ký hiệp ước thân hữu và hợp tác, trong đó có đoạn “hợp tác chặt che để lăng cường khả năng phòng thủ và bảo vệ độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của hai nước”. Hiệp ước chỉ là một hình thức chính thức và công khai hoá sự hiện diện của các đơn vị sư đoàn 325, 304, 968...
Đối với Campuchia, khi đã cùng Lào ký hiệp ước thân hữu, Việt nam đã tiến thêm một bước nữa trong việc thi hành kế hoạch dài hạn Liên bang Đông dương, và Campuchia càng thấy cần phải liên minh với Trung hoa. Quân đội các quân khu biên giới lại được lệnh báo động, chuẩn bị một cuộc tấn công tự vệ mới.
Với sự thúc đẩy của Trung hoa, nhằm tăng cường mặt tràn ngoại giao và tuyên truyền, ngày 27-9-1977, Pol Pot lên đài phát thanh đọc một bài diễn văn dài năm tiếng đồng hồ, chính thức xác nhận vai trò lãnh đạo của mình và công nhận Tổ chức (Angkar) chính là đảng cộng sản Campuchia. Pol Pot đã không hề nhắc nhở gì đến vai trò của Việt nam trong việc thành lập đảng cũng như sự giúp đỡ của Việt nam trong chiến tranh. Ngược lại Pol Pot nhắc lại tình trạng mất đất thường xuyên xảy ra trong những thời đại trước, khi Campuchia còn bị những giai cấp bóc lột thống trị, và hứa sẽ “không cho phép bất cứ ai muốn vẽ lại bản đồ của xứ sở chúng ta”. Ba ngày trước đó, để đoàn kết nội bộ đảng và nhân dân, cũng như để chứng tỏ quyết tâm chống Việt nam đối với Trung hoa, quân đội quân khu Đông được lệnh tấn công vào lãnh thổ Việt nam thuộc tỉnh Tây Ninh, và một ngày sau khi ra mắt, Pol Pot lên đường đi Bắc kinh và Bình Nhưỡng, lần đầu tiên công du với tư cách là Chủ tịch đảng và Thủ tướng.
Trong chuyến đi Trung hoa lần này, Pol Pot đã được tiếp đón trọng thể. Cờ và biểu ngữ giăng đầy Thiên An Môn, hàng trăm ngàn học sinh xếp hàng dọc theo đại lộ Trường An. Hoa Quốc Phong cùng hơn một nửa Uỷ viên Bộ Chính trị, trong đó có cả Đặng Tiểu Bình vừa được phục hồi chức vụ lần thứ hai, ra tận phi trường tiếp đón. Trong các bài diễn văn chính thức, cả hai nước đều ám chỉ đến sự đoàn kết chống lại tham vọng đất đai của Việt nam. Tuần lễ sau, trong lễ ăn mừng quốc khánh Trung hoa, Pol Pot đứng cạnh Hoa Quốc Phong trên khán đài ở Thiên An Môn để xem pháo bông. Trong hàng ngũ quan khách, người ta thấy có Hoàng Văn Hoan, tuy đã mất chức trong Bộ Chính trị, nhưng vẫn còn là Phó chủ tịch Quốc hội Việt nam.
Việt nam lúc đó vẫn cho rằng thái độ thù nghịch của Trung hoa là do những lãnh tụ trung thành với đường lối của Mao như Uông Đông Hưng, Trần Tích Liên, Vũ Đệ, Hoàng Hoa..., và với sự phục chức lần thứ hai của Đặng Tiểu Bình vào tháng 7-1977, phe thực dụng sẽ thắng thế trở lại và sẽ mềm dẻo hơn đối với Việt nam. Vì thế mà sau trận tấn công quy mô thứ hai vào biên giới thuộc tỉnh Tây Ninh, Việt nam vẫn tự hạn chế. Một mặt họ không cho bộ đội được vượt biên giới phản công, cất chức viên tư lệnh quá khích Trần Văn Trà, mặt khác, họ vẫn gửi điện văn chúc mừng lễ ra mắt Đảng cộng sản Campuchia và bí mật gửi Phan Hiền sang Bắc kinh nhờ Trung hoa dàn xếp cho được gặp phái đoàn Campuchia. Cuộc tiếp xúc không đi đến đâu, hai bên tố cáo nhau đã khiêu khích ở biên giới và đã có những hành vi dã man, tàn bạo.
Sau khi Phan Hiền về nước, như để cảnh cáo Trung hoa đầu tháng 10-1977, Việt nam công khai loan báo cuộc viếng thăm của phái đoàn quân sự Liên xô do tướng Yepishev cầm đầu. Cùng thời gian đó, Trung hoa bắt đầu ồ ạt chở chiến cụ từ máy truyền tin đến đại bác 130 ly tới hải cảng Komphong Som để tăng cường cho quân đội Campuchia. Trung hoa cũng cắt giảm những chuyến bay từ Hà nội đi Quảng Châu xuống từ hai chuyến xuống còn một chuyến mỗi tuần.
Những tháng cuối năm, những trận đánh ở biên giới Việt nam càng trở nên khốc hệt. Trước khi mở chiến dịch phản công vượt biên giới đại quy mô, ngày 21-4-1977, Lê Duẩn qua Trung quốc cầu hoà một lần chót. Lê Duẩn đã phân trần với Hoa Quốc Phong là mặc dù có những vấn đề khác biệt, Việt nam đã không bao giờ công khai chỉ trích Trung hoa. và cũng không bao giờ đứng hẳn về phía Liên xô để bài xích Trung hoa. Có lúc Lê Duẩn đã phải xuống giọng: “Chúng tôi như những đứa em nhỏ, luôn luôn sát cánh bên các người anh”. Tuy nhiên, những cố gắng của Lê Duẩn đã thất bại.
Những khác biệt giữa hai bên trở nên công khai thù địch trong buổi tiếp tân do Hoa Quốc Phong khoản đãi, trong đó Hoa Quốc Phong tuyên bố sẽ liên minh với tất cả những quốc gia chống bá quyền. Đáp từ, Lê Duẩn cũng tuyên bổ cương quyết không để cho bất cứ một lực lượng đế quốc hay phản độn3237nvn&cochu=">Bóng hình trong