Đã quá nhiều người tôi quen đi vào cõi vĩnh hằng vì ung thư. Trộm nghĩ đến những con sâu nhỏ màu xanh đang quằn quại giãy chết trong rừng chất độc dioxin hay dưới bình phun vô-fa-tốc mà ruột gan quặn thắt buồn nôn. Con người hơn gì những con sâu đó? Quân đẹp quá! Bốn mươi hai tuổi, khuôn mặt với nước da hơi tái viền bộ râu quai nón ửng xanh, đôi mắt sâu thẳm đen láy như thấu hiểu tất cả. Tiến sĩ y khoa. Chưa vợ. Và ung thư dạ dày di căn. Không dám nhìn Quân, tôi hướng vào cành lá thiên tuế đang thấp dần về đất trong chậu cảnh. Thiên tuế nhọc nhằn lắm mới ra nổi một lá. Đang rủa thầm sao bệnh viện lại nỡ để cho con bệnh biết mình sắp chết mà quên rằng chính Quân là một trong những thầy thuốc giỏi của viện. Quân mỉm cười nhìn tôi vẻ bất cần: - Với tớ tất cả đã rõ ràng. Gọi cậu đến không phải để than vãn. Vài tháng nay, tớ đã cố dọ dẫm đồng hành với thần chết. Nhấp ngụm chè sen, Quân ngửa cổ nuốt từ từ như thể cố nghiệm ra điều gì đó rồi bâng quơ: - Cậu có biết trẻ con sợ ma chúng biểu hiện thế nào cho qua cơn sợ hãi? Đầu tiên nhắm chặt mắt lại, gào lên, gào chán bắt đầu mở he hé... nhắm tít rồi lại mở ra... Cố mở to dần và cuối cùng mở hẳn.Tớ cũng vậy, cơn hoảng loạn qua rồi. Chết trẻ thế này có lẽ lại hay, được nhiều người tiếc. Cậu đi đưa ma tớ chứ? Quân lại cười nhạt. Nhưng mắt rưng rưng nhìn lên bầu trời xanh ngắt. Tôi quay đi, lau vội nước mắt làm nhoè kính. Rồi đây nắp quan tài sẽ ập xuống dưới sức nện của chiếc búa đinh. Có lẽ nó sẽ nghẹn lại khi phải nuốt chửng một người đàn ông tuấn tú như anh! Bỗng Quân bật dậy, căng mắt nhìn ra. - Cậu có thấy không? Kìa, cô ấy đấy... Mình gọi cậu đến đây là vì việc này.... Phút chốc, vẻ đau đớn của con báo bị trọng thương biến mất. Đôi hàng mi anh lưng chừng khép và hơi run rẩy. Chỉ khi chờ người yêu hay một điều gì linh thiêng lắm người ta mới có được vẻ xao xuyến ấy. Tôi nhìn theo hướng Quân nhìn, tưởng đến bóng yêu kiều của một thiếu nữ sẽ hiện ra đầu con đường nắng nhợt.Vài giây sau một chấm nhỏ hình xoan thoáng hiện. Cô xê dịch chậm chạp trên lề đường đối diện tiến đến gần. Đó là một cô gái nhỏ xíu chỉ cao khoảng hơn một mét. Ngực lép. Đôi mắt tròn mở rưng rưng, làn môi trên hằn một vết sẹo trắng kéo miệng hơi xệch về bên trái. Chắc là sẹo vá môi, tôi đồ vậy. Ngược với môi trên, môi dưới cô mọng đỏ hơi lõm giữa như núm đồng tiền nhỏ thoáng qua, chia thành đôi cánh hoa tươi nũng nịu. Chiếc làn trên tay cô là thứ làn đi chợ các bà nội trợ thường dùng từ những năm sáu mươi. Dáng đi khập khiễng của cô khiến người ta dễ liên tưởng đến bóng con chim sâu đang nhảy chon von trên đường, mỏ quắp chiếc lá làm lệch người. Chợt bóng cô khuất sau dãy tường gấp khúc. Tôi ngóng ra xa. Người mà Quân chờ hẳn là một người đẹp, tôi nghĩ thế. Bỗng Quân rút từ trong túi ra một bì thư, mở đưa cho tôi: - Này, nhìn đâu thế? Xem đi. Cậu đọc qua rồi sẽ hiểu. Ngoài bì thư đề “Gửi anh M”, nét chữ không đều đặn, hẳn người viết là người mơ mộng. Tôi thoáng giât mình: - Cậu đọc trộm thư ai vậy? - Của tớ, thư tình đấy! Đã bảo cứ đọc đi rồi sẽ biết. Trang giấy lấm tấm xanh, những đoạn nhạt màu có lẽ do nước mắt. “Anh yêu! Bẵng đi bốn tháng ròng không nhận được thư anh. Dường như em sắp chết. Chị Huyền em bảo thư thất lạc là thường, nhưng em vẫn lo anh sẽ tan ra như một làn khói! Anh ơi! Thượng Đế đã say rượu khi nặn ra em. Hồi mười ba tuổi em suýt uống cạn bát nước lá Trúc Đào. Đó là lần đầu tiên em nhìn thấy toàn thân mình hiện mồn một lên tấm gương lớn bố mới mua về. Bố em nói, em đã nhồi quá nhiều tiểu thuyết vào đầu, như thế không tốt. Không những thế, em là một tác phẩm làm hổ danh người. Mỗi lúc khách đến nhà em thường tìm cách lánh mặt để làm vừa lòng bố. Rồi lúc thi vào đại học đạt điểm ưu nhưng không một trường nào nhận vì lỗi hình thể. Em đã cầu cho mình hoá điên. Người điên hạnh phúc vì họ luôn trôi mông lung trong thế giới huyền ảo. Và tất cả như đều là những con búp bê dễ thương trong vòng tay họ. Họ chẳng nhận ra ngay cả chính mình. Thường thường em chắp tay cầu cho mình được chết - Người chết là người có được hạnh phúc thứ hai sau người điên. Tại sao Thượng Đế nỡ đặt bộ óc vào đầu một đứa con gái mà ngài đã nặn ra trong cơn say? Thế là em ở nhà với bếp núc, những con mèo và một gian nhà tiểu thuyết sưu tầm được. Người yêu đầu tiên của em là ông Rôchetxtơ trong bộ Jên Êrơ. Đêm đêm, đôi khi em thấy Rôchetxtơ cúi xuống mỉm cười, mở vạt áo choàng sẫm màu nhẹ nhàng nhốt em vào và đi ra ngoài trời trăng. Nhưng em chợt nhận ra ông quá to lớn so với khổ người của mình. Em rụt đầu. Như thấu hiểu mọi lẽ Rôchetxtơ dừng lại, ông nhìn em thương hại, nói: “Này cô bé xấu xí yêu quý, em muốn ta nhỏ lại phải không?”. Em gật đầu hàm ơn! Nhưng có tiếng máy bay sầm sập. Tiếng còi báo động. Bom xé. Nhà đổ. Trẻ khóc... Rôchetxtơ đặt em xuống lao vào lửa. Hồi sau, khi những con Diều Hâu thép thoả cơn tàn khốc bỏ đi, lửa tắt, người ta khiêng ông ra, đôi mắt chỉ còn là hai hố trống ngòm đen thui. Rôchetxtơ đã chết! “ngay cả trong mơ trời cũng cắt xén của em. Thương Đế không cho em hưởng trọn giấc mơ nào”. Em khóc với anh Hưng em. Anh Hưng lặng lẽ vuốt tóc em. Những trò chơi trẻ con mà anh ấy miệt mài bày đặt làm cho em vui không còn, kể từ ngày anh ấy đi chiến trường B. Một tháng sau em nhận được bức thư của người con trai ký tên “M”. Thư anh? Nhiều khi em tự hỏi, anh thật hay chỉ là hư ảo, tại sao anh giấu tên và cả một bức ảnh chân dung em cũng không được nhận? Em muốn tìm anh. Sẽ được nếu em cố tình. Nhưng em lại sợ, dù chỉ một lần thôi em tìm gặp thì những lá thư sẽ không bao giờ đến với em nữa, như lời anh đã viết. Vì thế, chính em cũng sợ phải gặp anh. Em tự dặn mình hãy bằng lòng với những trang thư. Ba năm nay em đeo lá thư đầu tiên của anh trước ngực, trong chiếc túi nhỏ sau lần áo lót.... Anh ơi! Có biết em còn muốn tự dối lòng mình hơn nữa, để không nghĩ đến một ngày sẽ chẳng còn thư. Nghĩa là chẳng còn anh và thế là cũng chẳng còn em trên cõi đời này! Giấy báo tử của anh Hưng – Người yêu quý em nhất trên đời. Rồi bặt thư anh. Em đã nói dường như em sắp chết. Mẹ nhận được tin anh Hưng, xuất huyết não nằm liệt giường, cả ngày mở mắt chong chong thảng thốt nhìn em cười như nhìn một người lạ ngoài hành tinh. Bố bị huyết áp biến chứng đi lại nhiều khi phải nhờ em dìu. Chị Huyền em vừa gặp một gã sở khanh. Em cho rằng những người tốt thường không gặp may? Vì thế em lo cho anh. Cuối cùng Bồ Tát cũng rủ lòng từ bi trước lời khẩn cầu, sau anh Hưng hy sinh bốn tháng em lại nhận được thư anh mặc dù giọng điệu và nét chữ hơi khác. Anh bảo vừa bị thương khi làm công tác bí mật nên không viết thư được. Em cũng mong là như vậy, thế giới ngoài kia toàn là bí mật và điều bí mật lớn nhất đối với em là anh. Anh ơi! Em vẫn còn sống chừng nào còn thư anh...” Lá thư dài như những trang tiểu thuyết và cuốn hút như có ma lực. Hơn cả những dòng chữ là một vẻ thiêng, tôi rụt tay về rồi lại chạm thật nhẹ mấy đầu ngón lên trang giấy nghĩ đến một thánh đường màu trắng. Trên đó, một trái tim nhỏ xíu đang thoi thóp đập. - Thư cô ấy đây ư? - Phải - Lẽ nào cậu... Cậu yêu cô ấy? - Không yêu. Không đời nào. Nhưng... - Thế... Tại sao? - Cậu đoán được tớ là tác giả của những bức thư gửi cho cô ấy! Đúng không? Nhưng chỉ đúng một nửa... Quân ngả người sát chiếc lá thiên tuế vừa đổ xuống uốn cong thành hình chiếc lược vàng, mơ màng kể cho tôi nghe câu chuyện rất khó tin mà xưa nay tôi tưởng chỉ gặp trong tiểu thuyết lãng mạn. “Đã hơn mười năm trôi qua mà mỗi lần nhớ lại, ruột gan tớ như bị ai đó nắm chặt lấy, xoắn tít... Năm 1974 tớ ở chiến trường Buôn Mê Thuột, cùng đơn vị với Hưng. Hưng là hoạ sĩ nhập ngũ trước. Cả ngày cậu ta chỉ nói vài câu, mắt cứ lơ mơ buồn, đêm đêm thường trùm chăn viết thư dưới ánh đèn pin lập loè lúc tắt lúc bật như ma trơi. Đồn rằng cậu ta có người yêu đẹp ở Hà Nội, sợ mất nên cứ phải giữ bằng thư. Cậu từng là lính biết rồi đấy, trong chiến tranh người ta thường buộc mình vào người khác. Tự bóp nát tim hòng che giấu những tình cảm tự do nhất và hy vọng, nhờ thế khả dĩ chịu đựng được những hoàn cảnh quái gở. Cho nên, dù Hưng gan lì trong các trận đánh vẫn bị liệt vào hàng có dấu hiệu yếu đuối, cần kèm sát đề phòng đào ngũ. Trận ấy tớ đi bên Hưng. Tiếng súng đã thưa thớt. Chiều sậm tái buồn đứt tuột,đã kết thúc một trận đánh mà cả hai bên gần như chỉ vờn nhau để thăm dò. Tớ vốn là lính mới nên đi lại trong rừng quá chật vật, cứ tụt lại đằng sau. Hưng dừng lại chờ. Không lê nổi chân nữa, tớ ngồi xuống một tảng đá. - Khát khô cả họng. Đứt hơi mất Hưng ạ! Hưng nhìn quanh, đá cũng nẫu buồn ong ong. Những thân cây trút lá nâu sẫm đan chằng chịt như mê trận của quỷ sứ. Không tìm đâu ra nước. Hưng cúi xuống, dò dẫm trên dòng suối khô nứt nẻ. Hồi sau, anh khẽ reo sung sướng vồ lấy một vật bẩn bẩn tròn tròn bằng đầu ngón chân cái đưa cho tớ. - Đập ra rồi mút đi. Đỡ khát đấy! Tớ ghê tởm nhìn, mặc dù cổ họng như đang bị cào xé. Hưng đón lấy khéo léo đập tan. Lòng bàn tay anh lầy nhầy một thứ đen đen mông mốc.Nhìn kĩ, hoá ra là một cái ruột ốc còn cựa quậy. - Có lẽ đây là chú ốc duy nhất còn sót lại của rừng này, số cậu may thật. Nuốt đi! Hưng nghiêm nét mặt nhìn tớ thương cảm. Oẹ khan mấy tiếng, nhưng khát quá tớ nhắm mắt đón lấy vật bẩn thỉu đó cho vào mồm nuốt chửng rồi lấy tay bưng kín miệng, nước mắt nước mũi cứ trào ra. Cùng với cảm giác ghê ghê tanh nồng là cơn dịu mát lan toả từ đầu lưỡi đến dạ dày khiến tớ tỉnh hẳn. Mở mắt ra, tớ thấy “Quả táo Adam” nơi cổ Hưng giật giật mấy hồi có vẻ thèm thuồng. Hoá ra anh còn khát hơn cả tớ. - Sâm của Trường Sơn đấy. Đừng ghê! Tớ nhăn mặt khổ sở nhìn anh hàm ơn! Cả hai cùng phá lên cười. Mặt Hưng sáng ngời như trẻ thơ. Anh nhặt bên chân một quả trứng nhỏ trắng xanh tung sang: - Trứng rắn đấy. Hồi bé mình và cái Cúc - Tên em gái Hưng - bị một phen hú vía. Nhặt được quả trứng như thế này, hai anh em thay nhau ấp trong tủ quần áo. Cái Cúc cứ đinh ninh đó là trứng Tiên. Đủ tháng đủ ngày nở ra một con vật loằng ngoằng đánh võng trong tủ... Bỗng một tiếng “bục” khẽ. Hưng đưa tay ôm ngực và cứ thế thấp dần, thấp dần không một tiếng kêu, gục xuống. Khoảng trắng của bàn tay anh bị nuốt dần thành quầng máu sủi bọt. Im lặng đến rùng rợn. Tớ kinh hoàng thét lên bỏ chạy. Được vài mươi bước vấp dúi dụi vào một bụi cây mới sực tỉnh, hộc tốc chạy trở lại, ào tới đỡ Hưng lên tay rối rít lay gọi... Một lát, Hưng mới khó nhọc mở mắt. Cơn đau làm nước mắt trào ra, nhễu xuống ướt đẫm cả chân tóc. - Mình thấy nóng rẫy trong ngực. Chết mất! Tớ băng cho Hưng nhưng máu cứ lâm lì thấm ướt hết lần băng này đến lần băng khác. Một viên đạn lạc đã găm vào bả vai anh. Tớ chỉ còn biết đặt anh lên đùi, lật đật làm động tác vuốt nửa bên ngực lành còn lại trong vô vọng. Máu vẫn rỉ rả chảy xuống đùi, thoáng chốc tớ đã ngồi trong vũng máu. Những lời cuối cùng, Hưng chỉ kể về cô em gái tật nguyền tên Cúc. Khi đó mới biết những đêm anh cặm cụi viết thư trong ánh đèn ma trơi ấy là viết cho em Cúc. - Mình chết!... Thiếu thư... Con bé sẽ chết mất! Ngày ấy, mình giằng bát nước lá Trúc Đào trên tay nó... Rồi nghĩ ra những bưc thư của chàng trai ẩn danh và nó đã tin. Chắc nó muốn tin, nó đã nhồi vào đầu biết bao điều phi lí... Nó đang tự dối lòng, nhưng biết làm sao? Mắt con bé rưng rưng. Nó cần những lời yêu đương ngọt ngào như cần nước... Bây giờ... chàng trai ẩn danh ấy... là mình... chết. Những bức thư...chết và em gái mình...! Mắt Hưng lạc đi trong cơn đau. Anh oằn người, cào nắm đất lẫn sỏi bỏ vào miệng. Một viên sỏi vỡ “cốc” nghe khô khốc lạnh người giữa hai hàm răng nghiến chặt. Anh ngước lên nhìn tớ, ánh mắt như cầu khẩn, miệng mấp máy toan nói nhưng cổ anh đã ngật ra. Cái nhìn đau đáu tạc lại trên khuôn mặt trắng nhợt tựa thạch cao... Cậu có tin không? Tớ gào lên, lu loa như mụ đàn bà xúi quẩy ngoài chợ. Một mình trong rừng với cái xác trên đùi, thân cây đen ngòm như những bộ xương sắp nhảy bổ vào xiết cổ. Tất cả được hiện mờ mờ dưới ánh trăng non nhạt nhẽo hắt xuống đất qua sàng cành cây ma quái. Qua cơn, tớ dùng lưỡi lê hì hục đào đến kiệt sức mới được cái hố nông choèn. Lấp đất xong và nằm qua đêm bên mộ, khi ấy không còn sợ nữa. Tớ nằm ngẫm ra những câu triết lí dở hơi về sự đau xót của kiếp phù sinh. Tảng sáng tớ lết về với hai chiếc ba lô và hai khẩu súng, mọi người đổ xô tới định băng bó vì thấy người tớ bê bết máu và nồng nặc mùi người chết. Một tuần sau, tớ dở ba lô Hưng xem bức thư cuối cùng anh chưa kịp gửi cho Cúc, bì thư hai lớp. Lớp trong đề: “Thương gửi em Kim Cúc”. Lớp ngoài đề: “Gửi chị Thanh Huyền - Báo Phụ Nữ - 47 Hàng Chuối – Hà Nội.” Có lẽ đó là người chuyển thư cho em Cúc bằng những lời nói dối hợp lí nhất. Tớ chép đi chép lại thư này để bắt chước nét chữ và giọng điệu văn chương ngọt ngào mơ mộng ăn sâu vào đầu. Vài tháng sau, khi đã nhập tâm, tớ bắt đầu sắm vai người con trai mang danh “M” gửi thư cho em Cúc. Nhìn chung, gần như là một gánh nặng. Trước đây tớ tưởng chừng những câu chuyện đại loại thế này chỉ đọc được trong sách vở. Có ngờ đâu rằng, sau này mình lại là nhân vật chính trong câu chuyện tưởng huyễn hoặc như vậy. Xưa nay tớ vốn là thằng lười học văn và viết thư nên đánh vật với những con chữ kiểu thế toát cả mồ hôi. Nhưng luôn nhớ đến ánh mắt cầu khẩn trong cơn hấp hối của Hưng và thấy ham sống hơn bao giờ hết. Đến lá thư thứ mười ba, chiến tranh kết thúc, tớ trở ra Hà Nội, lần đến nhà Hưng chuyển di vật của người đã khuất. Trông thấy em Cúc, điều đầu tiên là tớ thầm oán trời đất sao nỡ thổi vào cái vỏ tật nguyền một lương tri, một tâm hồn thật lãng mạn? Từ đó, thi thoảng tớ ghé qua nhà Hưng với tư cách là đồng đội của anh trai Cúc. Những lá thư vẫn được gửi đi. Hình ảnh cô bé đáng thương cứ lặng lẽ hiện lên trang giấy. Tớ liên tưởng đến hình bóng chàng Trương Chi xưa thấp thoáng trong đáy chén bạch đằng. Từ lúc nào không biết, tớ trở thành hai. Một tớ trong tiểu thuyết tình lãng mạn đóng vai chàng trai ẩn danh viết cho cô bé tật nguyền những lời văn cóp từ những cuốn tiểu thuyết tình ba xu, về một tình yêu mơ mộng không bao giờ có kết cục. Một tớ gần như yêu cô gái vô hình tên Cúc. Nàng ẩn hiện chơi vơi, mặt che khuất bởi một màn voan trắng, chấp chới trên viền là đôi mắt mơ màng mở rưng rưng và bên trong là đôi cánh môi dưới thắm nồng nũng nịu. Nàng như sương, như mật, như Đức Mẹ! Thế là tớ ôm ấp một tình yêu không thật. Nực cười làm sao, kẻ đi gieo ảo ảnh cho người khác lại tự ấp ủ ảnh ảo ấy cho chính mình. Rồi công việc cứ cuốn đi, hết luận án phó tiến sĩ đến tiến sĩ, những ca bệnh hối hả, các cuộc hội chẩn, hội thảo liên miên... Không biết bao nhiêu nước đã chảy qua cầu. Và lẽ ra tớ đã kịp cưới một cô vợ đẹp nếu như không luôn cảm thấy bên cạnh ảnh ảo kia, bất cứ cô gái nào cũng trở nên dung tục dẫu biết mọi sự so sánh đều khập khiễng...” Quân đưa tay vuốt mái tóc muối tiêu, một sợi bạc vô tình giắt vào kẽ tay. Anh nhìn nó giây lâu chợt ứa nước mắt. - Thế mà nay, tớ cũng sắp chết, cũng vắn số như anh trai Cúc. May chăng là có nhiều thời gian hơn để tìm người thay thế, tìm người có đủ lương tri để kéo dài một công việc kỳ dị, nhẫn nại thêu dệt cuộc tình mơ mộng không để cho mình. Việc đó gần như việc làm của một nhà văn và một người điên. Người đó không ai khác chính là cậu! Tôi hoảng hốt! - Tại sao? Tớ đã có vợ. Bất tiện lắm! - Không cãi. Quân lạnh lùng. Chọn cậu vì cậu từng là một người lính. Cuộc chiến vừa qua đã biến chúng ta thành những người kỳ lạ, có thể là quái dị so với lối suy diễn thông tục hiện thời, hơi trái với tự nhiên và khó tin... Song, đó là sự thật và sẽ là một trong những điểm sáng của những câu chuyện cổ buồn mà đời sau kể về cuộc chiến vĩ đại vừa qua của những người lính. - Nhưng..... - Thôi đi! Không nhưng nhị gì hết. Đây là lời khẩn cầu của một người sắp chết! Cậu hiểu không? Quân thui thủi đứng lên không cho tôi tiễn. Và tôi không ngờ cả cuộc chiến tranh lại thường tái hiện trong tôi qua những giấc mơ. Cả đất nước rùng rùng ra trận, chân đi dép lốp, tay cầm súng, ngực đeo những lá thư, những trang văn, trang thơ bay cùng những lá thư thất lạc và không thất lạc, có người nhận và không còn người nhận. Tất cả cứ bay đầy trời, nhiều hơn cả sao, cả lá rụng. Trong đó tôi thấy mình rất rõ. Vàng bưng, đang chạy, đưa một phong thư lên miệng ngậm trước khi ngã xuống. Những ngày tiếp sau Quân vàng võ tiều tuỵ, xẹp nhanh như một trái cây héo. Tôi thường bắt gặp anh nằm trên giường ôm bụng lăn lộn, miệng thở ra máu tươi. Lúc được yên ổn một chút anh đọc đi đọc lại những Lá thư gửi cho em Cúc. Một ngày nắng đẹp, gió heo may và hoa cúc ngập tràn phố phường, ngày không ai nỡ nghĩ đến cái chết. Thế mà Quân ra đi. Tôi đẩy cửa vào thăm anh như thường lệ. Quân đã nằm như ngủ trên giường, cánh cửa chớp nhìn ra đường được kéo lên, nắng hiu hắt chiếu vào xác người đàn ông vạm vỡ xấu số. Quân đã chết! Một cái chết được biết và chuẩn bị trước. Mấy dòng nguệch ngoạc trong cuốn vở mở sẵn trên bàn có lẽ anh giành cho tôi: “Thời sinh viên hai đứa thường đọc cho nhau nghe Chiếc lá cuối cùng. Có hiểu Chiếc lá cuối cùng đối với người sắp chết có ý nghĩa thế nào không? Tớ không có chiếc lá đó Tú ạ. Hãy đặt trên bậu cửa nhà em Cúc Chiếc lá cuối cùng Tú nhé!” Vĩnh biệt bạn thân yêu!” Tôi mụ mị ra đường, vẫy một chiếc xích lô đi báo tang. Phố phường đặc ngầu tiếng chửi thề. Ngã tư xôn xao chợ ven đường nhốn nháo: Một tên cướp vừa giật chiếc hoa tai của người đàn bà áo trắng, máu loang lổ cả bờ vai. Tưởng rằng chỉ trong chiến tranh mới có máu? Cổng toà án, một cụ già có lẽ thua kiện ngồi bệt bên lề đường, bưng mặt: “Công lí ơi! Cứu tôi! Công lí đâu rồi, trời có mắt không?”. Cách đó không xa, một người đàn ông hồng hào phốp pháp liếc xéo sang, kín đáo cười khẩy trước khi chui hẳn vào chiếc xe con phóng vút, vứt lại đàng sau một cuộn bụi mù mịt. Một thầy tu chân trần niệm nam mô hành khất. Trước cổng nhà thờ vị linh mục đang làm dấu rửa tội cho mọi người. Trong dòng đó, ngày mai sẽ có chiếc xe tang của Quân hoà vào dòng người mê sảng nặng mùi tục luỵ. Đám tang Quân tôi không trông thấy Cúc. Nhưng khi đám người theo xe tang về hết, tôi ngoái lại, hình như có một bóng chim sâu chon von thấp thoáng sau lùm lá đỏ nơi bia mộ giữa làn khói nhang quặn quẹo. Tôi cứ cảm thấy cái màu đỏ lá cây ấy chập chờn và tôi đồ rằng đó là ảo ảnh.