Dịch giả - B.G. Nguyễn Nhật Tâm
Phần mở đầu
Nguyên tác :Valley of the Dolls

Phần mở đầu
Ta đã trèo lên đỉnh núi Everest
để tới thung lũng Búp Bê.
Trèo tới đỉnh thật là gian khổ
đó là nơi ít khi thấy được
Ta không bao giờ biết thực sự ở đó có gì
nhưng điều cuối cùng mà ta mong sẽ thấy
chính là thung lũng Búp Bê.
Ta đứng đó chờ đợi
niềm vui ào ạt
mà ta tưởng sẽ cảm thấy nhưng
nó không đến.
Ta ở quá xa nên không nghe thấy tiếng vỗ tay
và cúi đầu chào.
Và không có nơi nào nữa để trèo lên.
Ta còn lại một mình, và
sẽ không sao cưỡng lại được cảm giác cô đơn.
Không khí thật loãng khiến ta không sao thở nổi.
Ta đã thành công - và thiên hạ bảo
ta là một vị anh hùng.
Nhưng ở phía dưới vẫn vui hơn
khi ta khởi hành
không có gì ngoài niềm hy vọng và
ước mơ sẽ hoàn thành.
Tất cả những gì ta trông thấy chỉ là đỉnh của ngọn núi đó -
không có ai để nói với ta
về thung lũng Búp Bê.
Nhưng mọi việc khác hẳn
khi ta lên tới đỉnh.
Sức mạnh của thiên nhiên bỏ mặc ta rã rời
điếc, mù - và quá chán chường
chẳng còn thích thú gì với vinh quang.
Anne Welles không hề có ý định leo núi
Tuy nhiên, vô tình, nàng tiến lên bước đầu tiên
nàng nhìn quanh
và tự bảo:
"Như thế này chưa đủ -
mình cần có một cái gì hơn nữa".
Và khi nàng gặp Lyon Burke
thì đã quá muộn không sao quay lại được nữa.
Thung lũng Búp Bê
Valley of the Dolls
Jaqueline Susann
Người dịch - B.G. Nguyễn Nhật Tâm
Nhà xuất bản Văn Học

- Tất cả bọn họ đều đẹp – cô dịu dàng bảo – thực tế là em chưa bao giờ gặp quá nhiều đàn ông đẹp trai trong một thành phố. (Thậm chí cô đã không chuyện trò với một người đàn ông nào dưới năm mươi tuổi).
- Jen – anh nhẹ nhàng nói – anh có thể đến chỗ em chứ?
- Tony, đã gần ba giờ sáng rồi.
- Anh có thể đến đó trong vòng năm phút.
Cô giả vờ ngáp.
- Tiếc quá em đang mệt.
- Thế thì ngày mai, buổi chiều. Anh phải thâu đĩa lúc ba giờ, nhưng anh sẽ xong việc lúc bốn giờ.
- Em có suất biểu diễn suốt buổi chiều…Hôm nay là thứ sáu, anh nhớ chứ?
- Thôi được, anh sẽ đến chỗ em sau suất biểu diễn.
- Không được. Anh biết em phải giữ lớp hoá trang giữa hai suất biểu diễn. Và mái tóc em sẽ hỏng mất.
Anh rên rỉ.
- Thôi được, thôi được. Anh sẽ ghé lại và đưa em đi ăn tối.
- chúng ta sẽ xem lại…
Nói xong cô gác máy.
Cô không trở về nhà. Gắng gượng ngồi xem xi nê suốt thời gian giữa hai suất diễn. Tới suất diễn buổi tối, cô dặn người gác cửa bảo cô đã ra về nếu Tony đến đón. Cô ngồi trong phòng trang điểm tới lúc người gác cửa đến khóa các phòng. Phải, ông Polar đã ghé lại và tôi đã nói theo lời cô yêu cầu. Cô cho anh ta năm đô la và đi bộ về nhà.
Chuông điện thoại reo vang khi cô bước vào căn hộ. Cô để mặc cho nó reng. Cứ hai mươi phút nó lại reo một lần. Ngay sau mỗi lần cô lại hỏi người tổng đài, vâng đó là ông Polar. Cuối cùng tới năm giờ sáng cô nhấc máy lên khi nghe chuông reo hồi thứ ba.
Tony giận điên lên.
- Em đi đâu?
- Em đi xem xi nê giữa hai suất biểu diễn. – cô cố tình làm cho mình có vẻ nói dối.
- Chắc chắn? Còn đêm nay? Chắc chắn em đã vội vàng bỏ đi ra ngay khỏi nhà hát.
- Em vẫn ở đó mà. Chắc hẳn người gác cửa đã nhầm lẫn.
- Thế anh đoán em đã ỏ nhà suốt đêm?
- Ừm…
- Thế thì anh xin thông báo cho em biết: anh đã gọi cho em hai mươi phút một lần, kể từ lúc 11 giờ rưỡi. Em vừa mới về nhà? – Tony hỏi giọng đắc thắng.
- Chắc hẳn em đã ngủ và không nghe thấy chuông điện thoại.
- Anh dám đánh cuộc. Có lẽ em đang ở với một trong những ông lớn ở Boston mà em đã gặp trong buổi tang lễ.
Cô liền gác máy vào mặt anh và ngả mình xuống giường với nụ cười sung sướng. Cá đã cắn câu. Cô vào buồng tắm và lấy ra một chai đầy ắp những viên thuốc màu đỏ. Thật là một điều may mắn bât ngờ. Ở Lawrenceville, cô đã vô tình nói với viên bác sĩ già Rodgers về vấn đề mất ngủ của cô. Ông ta đã loá mắt vì nụ cười tỏ ra dễ mến và thông cảm. Những cuộc tang lễ vẫn thường khiến cho người ta mất ngủ. Ngày hôm sau ông ta xuất hiện với một cái lọ đứng hai mươi lăm viên Seconal.
Cô lại nghe tiếng chuông điện thoại dai dẳng vang lên. Chắc là Tony chưa chịu thua. Cô bảo người tổng đài điện thoại đừng bắt máy, cô không muốn nghe thêm một cú điện thoại nào nữa trong đêm nay. Cô mở lọ thuốc lấy ra hai viên, một viên cũng đủ, nhưng cô vẫn lấy hai viên! Đó là một cảm giác tuyệt diệu nhất trên đời! Cô kê đầu một cách êm ái lên chiếc gối. Một cảm giác tê mê chạy khắp người. Lạy Chúa! Tại sao cô lại chưa từng sống với những viên thuốc màu đỏ kỳ diệu này!
Cô chơi trò mèo vờn chuột với Tony hai ngày nữa. Mỗi đêm cô lại nhìn chai Seconal với vẻ thương mến. Cô không bao giờ làm nổi cái trò này nếu không có thuốc. thiếu thuốc cô sẽ phải trải qua nhiều đêm không ngủ, hút thuốc, lo nghĩ và cô sẽ mất tinh thần.
Đêm thứ sáu Tony đứng sẵn ở lối đi vào nhà hát khi cô đến. Anh chộp lấy tay cô một cách thô bạo.
- Thôi được, em thắng – anh gầm gừ - anh có sẵn xe hơi, chúng ta sẽ đến Elkton tối nay – ngay bây giờ.
- Nhưng em còn một suất trình diễn vào chiều mai.
- Anh sẽ đi vào và nói với ông đạo diễn rằng em bị đau.
- Nhưng người ta sẽ đọc tin về chúng ta trên các báo ngày mai nếu chúng ta sẽ trốn đi. Em sẽ bị đuổi, và có thể sẽ bị kiện lên công đoàn diễn viên.
- Thì đã sao? Em đã là bà Tony Polar, em không định tiếp tục sẽ làm trong đoàn hát đó chứ?
(Tất nhiên không, phải chăng cô đang điên? Vả lại Henry sẽ dàn xếp ổn thoả mọi việc. Sự thế đã đến nước này!)
Cô nắm chặt cánh tay của anh.
- Anh hãy vào báo tin cho họ rằng em bị đau đi, Tony. Quả thực em có cảm giác sắp sửa bị xỉu…
Jennifer sung sướng còn Tony thì mê mẩn. Họ đã thành hôn! Báo chí ở Elkton hay tin trước. Họ mỉm cười đứng cho các nhiếp ảnh viên địa phương chụp ảnh, phát biểu ý kiến với hai hãng thông tấn AP và UP. Cuối cùng họ lái xe đi và mướn phòng trong một khách sạn nhỏ ở ngoại ô thành phố.
Giờ đây trong lúc Tony ngồi trên giường nhìn Jennifer mở valy, cơn ngây ngất do tình trạng kích động gây nên bắt đầu tan biến. Anh đột nhiên hoảng sợ.
- Miriam sẽ giết chết anh!
Jennifer choàng cánh tay quanh người anh.
- Anh đâu phải là một cậu bé, Tony. Anh là chồng của em mà.
- Em cần phải trung thành với anh khi mình nói chuyện với chị ấy – Anh lầm bầm.
- Em là vợ của anh mà, anh yêu quý. Em sẽ luôn luôn trung thành với anh.
- Nhưng chị ấy sẽ nổi điên lên, Jen à.
Nước mắt ứa ra trong mắt anh, đột nhiên anh vùi đầu vào gối và thổn thức.
- Anh sợ…ôi…anh sợ…
Jennifer đứng lặng người. Nỗi chán chường làm cô mệt rã rời. Chợt có ý nghĩ điên cuồng thôi thúc cô bỏ chạy. Nhưng chạy đi đâu và đến với ai? Sẽ không có một người nào hiểu được. Người ta sẽ nghĩ cô có chuyện sai trái. Cô phải giải quyết chuyện này. Tony là một minh tinh và nhiều người tài ba thường vẫn có điểm yếu riêng. Có lẽ anh chỉ dễ xúc động hơn những người khác.
Cô ngồi trên giường và nâng niu đầu anh trong tay.
- Mọi việc sẽ ổn thôi, Tony à – cô dịu dàng bảo.
- Nhưng Miriam sẽ nổi điên lên. Chị ấy sẽ than phiền (Anh nhìn cô với đôi mắt đầy lệ). Tất cả là lỗi của em. Em đã làm cho anh gây nên chuyện này.
- Em đã nói sẽ can đảm đương đầu với Miriam.
- Thật chứ? Em sẽ đương đầu chứ?
- Vâng – cô vừa nói vừa vuốt đầu anh – Anh chỉ cần nhớ rằng em là vợ anh.
Anh đưa tay xoa ngực cô. Anh chậm rãi lau nước mắt và bắt đầu mỉm cười. Anh nhìn cô với vẻ ranh mãnh.
- Và bây giờ anh có thể làm bất cứ điều gì anh muốn với em.
Cô cố mỉm một nụ cười yếu ớt.
- Vâng, Tony…
Anh cởi chiếc áo khóac của cô ra.
- Em xoay người lại đi – anh làu bàu.
Cô nghiến răng khổ sở trong lúc anh vào sâu trong cô. Cô cảm thấy móng tay của anh cào dọc theo lưng. Mỉm cười lên đi Jen, cô tự bảo. Mày đã thành công, mày đã trở thành bà Tony Polar…
Miriam cầm bức điện tín đã bị vò nát và nhìn như ngây dại vào trong không trung. Elkton! À ra thế! Vậy mà cô đã phòng ngừa cẩn thận – cô đã trả hai trăm đô la mỗi tuần cho gã Ornsly đó! Cô nhấc máy điện thoại lên, ngón tay mập ú bắt đầu quay số.
- Tôi lấy làm tiếc phải quấy rầy giấc ngủ của ông, ông Ornsly – cô gằn giọng – nhưng ông đang ngủ trong giờ làm việc đấy!
Ông ta cảnh giác ngay tức khắc.
- Tôi đã đi theo anh chàng tới cửa sân khấu lúc tám giờ. Anh chàng chờ cô ta ở đó. Cô ta đến lúc tám giờ một phút và họ đứng nói chuyện khoảng nửa tiếng đồng hồ. Tôi biết cô ta phải vào nhà hát nên đã bỏ đi và kiếm cái gì ăn. Tôi biết có thể an toàn trong ba giờ - cô ta còn phải biểu diễn. Vì vậy tôi trở lại vào lúc 11 giờ và không thấy anh chàng ở đó. Nếu anh chàng muốn đến đón cô ta thì phải có mặt ở đấy lúc 11 giờ 15 là trễ nhất. Tôi chờ đến 11 giờ 30 rồi đến cắm chốt ở khách sạn của anh chàng. Tôi vừa mới rời khỏi nơi đó cách đây vài tiếng đồng hồ. Anh chàng đã không trở về khách sạn. Tôi liền kiểm tra tất cả các câu lạc bộ, vẫn không thấy đâu. Vì theo tôi nghĩ có lẽ anh chàng có một cuộc hẹn hò ở đâu khác và ở cùng với một cô gái nào khác. Cô ta đã lẩn tránh nhiều đêm liền, bỏ chạy về nhà một mình sau buổi biểu diễn.
- Thế là cô ta bỏ buổi trình diễn đêm nay – Miriam cáu kỉnh bảo – họ bỏ trốn mất rồi.
Người đầu dây đàng kia lặng thinh.
- Tôi trả ông hai trăm đô la mỗi tuần cốt để ngăn cản sự việc này. Ông là loại thám tử gì vậy?
- Loại cừ khôi nhất – ông ta gay gắt đáp lại – nhưng hai người đó thuộc loại điên khùng. Tôi đã ngu ngốc đứng lạnh cóng bên ngoài khách sạn hết đêm này sang đêm khác, trong lúc anh chàng nằm trên một chiếc giường êm ái ấm áp. Nhưng thưa bà chủ, tôi không phải là FBI. Tôi phải ăn, và thỉnh thoảng tôi phải ngừng để đi tiểu. Tôi đã tưởng thời gian tôi thực sự an toàn nhất là khi cô gái đó ở trên sân khấu. Ai mà lường trước được rằng cô ta bỏ buổi trình diễn.
Miriam dằn mạnh ống nghe xuống. Nhưng ông ta có lý. Jennifer đã quá tài tình. Cô thở dài. Cô đã cố hết sức chu đáo nhưng giờ đây tất cả đều tan thành mây khói. Cho đến bây giờ mọi người đã bị đánh lừa. Họ thừa nhận những câu trả lời như trẻ con của Tony là một phần trong sức quyến rũ của anh. Một vài người thậm chí nghĩ đó là một bộ tịch khôn ngoan. Chỉ một mình Miriam biết sự thật và cô giữ kín điều bí mật đó với tất cả mọi người – ngay cả với Tony. Đối với một người đàn bà, anh hành động với một tư cách đàn ông, về mặt thể chất. Tài biểu diễn của anh là một năng khiếu. Khi hát anh thể hiện động tác một cách tự động. Nhưng về mặt tinh thần, cảm xúc, Tony chỉ mới 10 tuổi.
Bây giờ phải làm gì? Chừng nào cô còn có mặt tại tất cả các cuộc phỏng vấn, cô có thể che chở cho anh. Nhưng lúc này lại có Jennifer.
Jennifer đã đóan được bao nhiêu? Thật ra cô không có gì chống đối Jennifer. Có lẽ cô ta thật sự hấp dẫn đối với Tony, tại sao không? Anh đẹp trai, có tài và đúng là một chàng trai tuyệt vời về phương diện tình dục. Có lẽ cô ta đã không nhận thấy gì cả. Xét cho cùng hai người không hề ở bên nhau một mình, ngoại trừ để ngủ với nhau. Cô đã luôn luôn để mắt tới hai người, tìm mọi cách cho ít nhất là có vài soạn giả bám theo họ. Cô đã huấn luyện Tony theo hướng đó. “Một minh tinh bao giờ cũng có những người tuỳ tùng”. Cô nói đi nói lại với anh như thế và anh đã đồng ý không đi đâu một mình. Nhờ vậy chưa từng có ai thật sự chuyện trò nhiều với Tony.
Cho tới khi gặp Jennifer, mọi sự đều khá dễ dàng. Miriam biết Tony cần phải được thoả mãn nhu cầu sinh lý và cô tạo điều kiện cho anh, luôn luôn sắp xếp sao cho quan hệ đó chỉ có tính cách nhất thời mà thôi. Một vũ nữ khá đẹp ở một câu lạc bộ mà họ thường lui tới, sung sướng ở bên cạnh anh chỉ vì ham vui và được thiên hạ biết, rồi vui lòng để cho anh đi ra khỏi đời mình với một lọ nước hoa làm quà, và những lời hứa hẹn anh sẽ mãi mãi quý mến cô ta. Đó là chuyện vẫn xảy ra cho tới khi Tony gặp Jennifer. Cô đã làm đủ mọi cách để phá vỡ mỗi quan hệ này. Mỗi lần Tony về nông thôn, cô lại ném một cô gái thuộc loại đẹp nhất thế giới vào tay anh. Anh cũng chịu nhưng luôn luôn trở lại với Jennifer. Cô đang hy vọng chuyến lưu diễn ở California sẽ chấm dứt tất cả. Chỉ còn hai tuần nữa thôi thế mà sự việc lại xảy ra như thế này!
Miriam thở dài. Hầu hết mọi người tưởng cô lẽo đẽo theo sau Tony là vì vui thú với danh vọng của anh. Danh vọng! Cô bằng lòng đổi bất cứ gì để có được một cuộc đời cho bản thân cô. Nhưng cô không thể bỏ Tony được. Vì thế cô vẫn còn ở đây, một trinh nữ bốn mươi tuổi, để làm đạo diễn cho Tony thành công một cách ngọan mục. Tại sao lại phải như thế này? Tội lỗi của người cha, cô gượng gạo nghĩ. Tony đã được khám nghiệm nhưng anh chưa hề được hay biết gì về chuyện đó. Cô đang chịu gánh nặng chủ yếu. Và thực ra đó không phải là tội lỗi của người cha, mà là do lối sống đĩ thoã ghê tởm của người mẹ! Cô đã che giấu quá nhiều bí mật đối với Tony và tất cả mọi người. Cô đã thêu dệt ra một hình ảnh tốt đẹp của người cha đẹp trai bị chết trong một tai nạn xe lửa ngay trước khi Tony ra đời. Và một người mẹ yêu kiều, yếu đuối, suy nhược vì tai hoạ đến nỗi ngay sau khi sanh bé Tony, bà đã lặng lẽ mỉm cười qua đời, bỏ lại cô bé Miriam 14 tuổi chăm sóc cậu em. Báo chí tin chuyện đó. Tony tin chuyện đó. Anh đã không hề hay biết rằng người cha thật của mình, cũng như người cha thật của Miriam, là một điều bí mật, ngay cả với mẹ của hai chị em.
Cả hai đã được sinh ra bởi những người cha khác nhau, những kẻ xa lạ đã chuyền qua tay mẹ của họ từ đêm này sang đêm khác. Và người đã sinh ra Tony chắc phải rất đẹp! Nhưng rồi mẹ của Tony ngẫu nhiên gặp nhiều người đàn ông xa lạ khác. Một chị hầu bàn mê ca hát ở Corney Island không thể nào lôi cuốn được xã hội thượng lưu. Mẹ cô đã thề thốt rằng cha của Miriam là một người đàn ông tử tế ở Pittsburg. Có lẽ. Nhưng cha của Tony, cho dù thuộc loại đểu cáng đi chăng nữa, phải rất đẹp trai. Tony đã được tạo ra từ những tinh tuý của bố và mẹ. Anh có cặp mắt màu nâu sẫm với đôi lông mi lạ thường của mẹ. Mũi anh ngắn và thẳng, miệng gợi tình. Và thân hình anh cao. Miriam thì trái lại. Cô có một nụ cười gượng gạo. Người đàn ông ở Pittsburg có lẽ rất tử tế, nhưng nhất định không phải là Robert Taylor. Quả thật, nếu ngẫu nhiên gặp một người đàn ông mập lùn với đôi mắt nhỏ màu xanh, và một cái mũi như củ hành đặc biệt của vùng Pittsburg, cô sẽ gọi “Ba!”
Cô đã lựa chọn cái tên Polar vì tình cảm. Người tình tử tế và lâu dài nhất của mẹ cô là một người đàn ông có họ Polarski. Ông ta chân thật yêu mến cô bé mập lùn và không bao giờ quên mang cho cô một món quà hoặc nựng cằm cô. Cô đã không bao giờ quên ông ta, nhiều năm sau, với lòng tôn kính thầm lặng, cô rút ngắn họ của ông ta lại, và dùng làm họ cho cô cùng Tony.
Che giấu lý lịch thật của anh, đối với Tony và báo chí, quả thật là một việc khó khăn. Mẹ của hai người vốn là một người bị cuộc đời bỏ rơi. Mỗi thành phố đều có nhiều người đàn bà như Belle, cô gái không còn son trẻ, thường chơi một chiếc đàn dương cầm cũ rich và hát một giọng khàn khàn trong một quán rượu tỉnh nhỏ. Belle đã bắt đầu hát ở nhà của vị mục sư của Tony. Nhưng đó là những giờ phút sáng chói duy nhất trong nghề nghiệp của cô. Rồi cô bắt đầu trôi nổi tới những quán rượu và tiệm bia khắp các thành phố khác, chuyền tay từ người đàn ông này sang người đàn ông khác.
Miriam đã chào đời trong một viện từ thiện ở Philadelphia. Belle đã gởi côvào một nhà nuôi trẻ cho tới khi cô lên tám. Rồi Belle may mắn kiếm được một việc làm ổn định ở Corney Island và đưa con về ở chung với mình.
Trong mấy năm Miriam đã hưởng cảnh sang trọng của một căn hộ hai phòng và tình thương yêu của ông Polarski, nhưng sau khi ông Polarski ra đi, lại có nhiều người đàn ông khác kế tiếp đến. Belle già dần. Cả hai đều chóang váng khi biết Belle lại có mang. Chúa ơi!
Bà vẫn còn làm việc sáu tháng,rồi áo quần không thể che giấu, và bà bị sa thải. Họ dọn đến căn hộ một phòng. Miriam mới 14 tuổi đã phải bỏ học và làm nhân viên thu tiền. Họ không có bạn bè, không có láng giềng. Rồi một đêm khuya nọ, với chiếc xe cấp cứu hụ còi inh ỏi, Belle được chở đến bệnh viện cùng với Miriam run rẩy bên cạnh. Belle chết năm phút sau khi đứa bé gào váng bước vào đời.
Miriam mang đứa bé về nhà. Và cô gái 14 tuổi đã một mình nuôi nấng Tony. Chuyện có vẻ không thể nào xảy ra được khi cô hồi tưởng lại những gì đã qua – những tuần lễ đầu tiên đầy khổ sở với việc tìm cách nuôi trẻ con cho đúng, giặt tã lót, cố dè xẻn số tiền hai trăm đô la hai mẹ con đã dành dụm được. Đếm từng đồng xu mua sữa, sống bằng các hộp súp và bánh quy.
Tony mới được một tháng tuổi thì bị cơn động kinh đầu tiên. Lại phải nhờ xe cấp cứu chở đến bệnh viện. Người ta đã thực hiện nhiều cuộc xét nghiệm, và tất cả các bác sĩ tài giỏi cùng nghiên cứu trường hợp của Tony. Họ giừ cậu bé trong bệnh viện một năm. Miriam muốn điên lên vì lo buồn, nhưng tối thiểu cô có thể kiếm một công việc cả hai buổi và dành dụm tiền. Rồi Tony trở về với cô, cậu bé có vẻ khoẻ mạnh. Rồi lại nhiều cơn động kinh và quay trở lại bệnh viện. Cứ liên tục như thế cho tới khi cậu lên năm. Rồi những cơn co giật ngừng lại. Cậu đi nhà trẻ, cố gắng qua khỏi tiểu học. Đến trung học, cậu bị tống ra ngoài. Người ta đề nghị cậu vào một trường đặc biệt nhưng Miriam vẫn giữ cậu ở nhà. Cậu sẽ không sống chung với đám trẻ điên khùng. Cô kiên nhẫn dậy cậu em học theo mức độ cậu bé có thể tiếp thu.
Phải, giai đoạn khởi đầu quả không dễ dàng. Nhưng tới 15 tuổi, con người có thể chống chọi với mọi việc bất thường. Tới 21 tuổi, con người có thể gánh vác việc đời. Nhưng giờ đây những chuyện thất thường lại chồng chất lên. Và Miriam đã thấm mệt.
Một đôi lần cô thậm chí đã muốn đến gặp thẳng Jennifer và cho biết sự thật về Tony và như thế cô ta sẽ hiểu việc kết hôn với Tony là vô nghĩa. Nhưng canh bạc quá lớn. Giả sử cô gái chống lại với cả hai người, kể lại câu chuyện cho cả thành phố nghe thì sao? Như thế sẽ phá tan sự nghiệp của Tony và cũng có nghĩa là sẽ tiêu diệt Tony.
Lúc này cô không thể bỏ cuộc. Cô đã chiến đấu quá lâu và quá gian khổ. Lạy Chúa, thậm chí cô đã chiến đấu với quân đội Mỹ. Tony đã tự hào khi anh nhận được giấy báo nhập ngũ – đối với anh thì đi lính cũng là trò chơi. Sự nghiệp của anh vừa mới bắt đầu, và anh không hề hay biết gì về những chuyến đi bí mật của cô đến Washington, lề lối quan liêu bất tận và sự thiếu nhạy bén của các sĩ quan cao cấp trong quân đội. Cô đã sắp sửa bỏ cuộc cho tới khi gặp được thiếu tá Beckman. Ông ta có một người em trai giống như Tony. Ông ta đọc tập y phiếu của Tony, tất cả được bỏ trong một cái phong bì màu nâu nhạt bị cọ sờn của bệnh viện ở Coney Island. Ông ta yêu cầu vị bác sĩ trưởng khoa thần kinh khám cho Tony. Cuối cùng Miriam nhận được một tập y phiếu mới thêm vào chiếc phong bì màu nâu và Tony bị quân đội loại ra, một cách êm thấm và cương quyết. Thiếu tá Beckman cho báo chí hay rằng Tony bị loại vì một màng nhĩ bị thủng. Không, không, cô không thể bỏ cuộc lúc này. Cô đã chiến thắng quân đội, báo chí, toàn bộ thế giới chết tiệt này – một cô gái tóc vàng, ưỡn ẹo đầy khêu gợi sẽ không huỷ hoại được tất cả. Cô sẽ bám sát hai người. Họ đang đi về miền duyên hải trong vài tuần và cô sẽ sống chung với họ. Ai mà biết được – có lẽ bằng cách này hay cách khác, mọi việc sẽ kết thúc. Cô vuốt thẳng chiếc áo khoác quanh thân hình dị dạng của mình, và quả quyết ổn định lại tư tưởng. Cô phải thông tin cho báo chí, các nhà bình luận, - cô sẽ phải tạo cơ hội cho ai trước? Không, không nên chơi trò biệt đãi. Các sở bưu điện chắc hẳn đã nhặt được tin tức ở Elkton. Khi hai người trở lại, cô sẽ tổ chức một cuộc họp báo, sắp xếp các cuộc phỏng vấn với Jennifer và Tony…
--!!tach_noi_dung!!--

ánh máy :tumbleweed
Nguồn: tumbleweed
Được bạn: Ct.Ly đưa lên
vào ngày: 16 tháng 10 năm 2006

--!!tach_noi_dung!!--
--!!tach_noi_dung!!-- --!!tach_noi_dung!!--