Dịch giả: Cổ Nguyệt
Hồi Thứ Nhất
Hiệp Cốt Đan Tâm (phần tiếp của Vân hải ngọc cung duyên)

Ẩn sĩ rừng sâu đón khách quý
Lời ngon rượu ngọt dụ thiếu niên
Thơ Đào Tiềm thích nhắcKinh Kha.
Tóc dựng dừng mây hát tráng ca
Ngâm đến ân cừu bừng cảm khái
Giang hồ hiệp cốt mấy ai qua
Cung Định Am Kỷ Mùi tạp thi
Núi rừng đang lúc vắng lặng, chỉ có chim ca ríu rít, vượn hú thê lương, chợt nghe tiếng bước chân dẫm lên lá khô xào xạc. Đó là một chàng trai người đầy bụi đường. Chàng ta là Tần Nguyên Hạo, đệ tử của chường môn phái Võ Đang Lôi Chấn Tử. Lúc này chàng đang đi giữa núi Tồ Lai.
Tuy đi một mình giữa chốn núi rừng tĩnh lặng nhưng lòng dạ Tần Nguyên Hạo xao xuyến lạ thường. Chàng nghe tiếng chim rừng hót líu lo, như tiếng con họa, lòng thầm nhủ: “Thơ cổ viết “Anh kì minh hĩ, cầu kì hữu thanh” (tiếng chim ấy hót như tiếng bạn mình) từ xưa đến nay người ta thường xem tiếng chim rừng là tiếng gọi bạn. Lần này mình đến huyện Đông Bình cũng chính là cơ hội tốt để biết thêm anh hào trong thiên hạ”.
Giữa chốn núi rừng tịch mịch, Tần Nguyên Hạo đã tưởng tượng ra cảnh náo nhiệt của năm ngày sau”. Hôm nay là mùng mười tháng tám, ra khỏi núi Tồ Lai, trong vòng hai ngày nữa mình có thể đến nhà họ Giang. Ngày mười lăm tháng tám mới khai hội, mình đến sớm ba ngày, không biết những người khác đã đến chưa? Nếu mình đến trước tiên, cũng có hơi ngại ngùng, song Giang đại hiệp rất mến khách, chắc ông ta chẳng trách mình đến sớm”.
Số là ngày mười lăm tháng tám là ngày con gái của Giang Hải Thiên, một vị đại hiệp nổi tiếng trong thiên hạ, xuất giá. Con gái của Giang Hải Thiên là Giang Hiểu Phù sánh duyên cùng đệ tử của ông ta là Vũ Văn Hùng dự định tổ chức vào tiết mùa thu. Giang Hải Thiên kết giao khắp thiên hạ, các môn phái lớn biết tin này, đương nhiên sai người đến nhà họ Giang chúc mừng. Tần Nguyên Hạo là do phái Võ Đang cử đến.
Thật ra phái Võ Đang nhân tài đông đúc, mà với thân phận của Giang Hải Thiên, nhân con gái ông ta xuất giá, lẽ ra phái Võ Đang cần sai người có vai vế cao hơn đến tham dự hôn lễ mới phải. Nhưng vì Tần Nguyên Hạo tuy chỉ là đệ tử của Lôi Chấn Tử, mà vốn người thông minh, võ công cao hơn các đồng môn, Lôi Chấn Tử thương yêu chàng nhất, có ý vun bồi, cho nên sau khi chàng học nghệ xong, đã bảo chàng đại diện phái Võ Đang đến nhà họ Giang, coi như đây là lần đầu tiên xuất đạo.
Lôi Chấn Tử biết Giang Hải Thiên rất mến những thiếu niên anh hùng, ông sai đệ tử giỏi nhất trong phái đến nhà họ Giang, Giang Hải Thiên chắc chắn sẽ rất vui, không trách ông ta thất lễ. Nhưng vì Tần Nguyên Hạo mới xuất đạo lần đầu tiên, người nhà họ Giang không biết chàng, cho nên Lôi Chấn Tử bảo chàng đem theo một bức thư giới thiệu của mình cùng với thiệp mời của nhà họ Giang.
Lúc này Tần Nguyên Hạo cũng đang muốn kết giao anh hào trong thiên hạ. Chàng đang suy nghĩ vu vơ, một làn gió thổi nhẹ qua, trong gió thoang thoảng mùi hương hoa quế. Tần Nguyên Hạo ngẩng đầu lên nhìn, chỉ thấy trên núi có nhà cửa phòng ốc, căn nhà xây dựng theo thế núi, ngói xanh tượng đỏ. trông rất hùng vĩ. Vừa nhìn thì biết đây chẳng phải là nhà thợ săn bình thường, bên trong sân có trồng rất nhiều cây quế, hương bay thoang thoảng.
Lúc này mặt trời đã ngả về tây, ráng chiều đỏ như máu, dưới ánh nắng còn sót lại, hoa dại trên sườn đồi càng thêm đẹp đẽ. Lại thêm hoa quế đưa hương, nóc nhà ẩn hiện trên sườn đồi khiến chàng chẳng nỡ dời chân đi.
Tần Nguyên Hạo thầm nhủ: “Trời đã tối, ra khỏi núi Tồ Lai cũng chưa chắc tìm được nơi ở, chi bằng mình cứ xin tá túc ở ngôi nhà ấy”. Nhưng chàng lại nghĩ: “Không biết đó là nhà ai, sư phụ có dặn, đi lại trên giang hồ mỗi bước đều phải cẩn thận, giữa chốn rừng sâu có một căn nhà như thế chẳng phải chuyện thường, làm sao có thể tùy tiện tá túc? Mình dầm sương dãi nắng cũng đã quen, tìm không ra chỗ tá túc có gì đáng lo?”
Nhưng Tần Nguyên Hạo vì nhiều ngày lặn lội đường xa, lúc này đã mệt mỏi rã rời. Chàng hít sâu một hơi, hương hoa khiến chàng cảm thấy ngất ngây. Tần Nguyên Hạo ngồi xuống, nghĩ bụng: “Mình nghỉ một lát rồi hẵng đi. Dù sao cũng không vội lên đường”.
Chợt nghe bên trong vườn hoa có tiếng một thiếu niên nói: “Đại mạc cô yên trực” (Trên đại mạc khói lên) tiếp theo là tiếng thiếu nữ vang lên: “Trường hà lạc nhật viên” (Dưới sông mặt trời tròn). Tần Nguyên Hạo ở núi Võ Đang, ban ngày thì học võ, tối thì học văn, thơ Đường hay từ Tống đều xem qua. Nhưng nghe đôi nam nữ trong vườn mỗi người đọc một câu thơ, không khỏi ngạc nhiên nghĩ thầm: “Bọn họ không đọc trong thư phòng, nhưng lại đọc ở trong vườn hoa, lại không phải đọc cả bài, không biết là tại sao?”
Tòa trang viện ấy nằm dưới sườn núi, còn Tần Nguyên Hạo thì đang ngồi bên trên, hoa viên tuy có tường vây quanh nhưng không che được tầm mắt chàng. Chàng không có ý nhìn lên, nhưng lòng tò mò đã nổi lên, bất giác phóng tầm mắt về phía ấy.
Lúc này đôi thiếu niên nam nữ đang đứng trên bãi đất trống giữa vườn hoa. Chỉ thấy mỗi người cầm một thanh trường kiếm.
Thiếu niên nói: “Muội đã sử dụng Đại mạc cô yên trực đúng rồi đấy, nhưng kình đạo vẫn chưa đủ. Trường hà lạc nhật viên lại không đúng, còn phải luyện nữa, muội xem đây”. Nói xong bèn vung thanh trường kiếm vẽ thành một đường tròn. Chỉ thấy một màn kiếm ảnh xoay tròn, cả thân người của thiếu niên tựa như lẩn vào vòng kiếm ảnh.
Nàng thiếu nữ cũng vung kiếm vạch thành một vòng nhưng không tròn. Nàng ta vùng vằng nói: “Khó luyện quá. muội không học nữa”. Thiếu niên cười rằng: “Huynhđã học chiêu này cả tháng trời mới vận dụng thông thuộc được, muội mới học ba ngày mà đã nhụt chí rồi sao?” Thiếu nữ nói: “Được, chiêu này ngày mai hãy luyện tiếp, huynh hãy đánh thử Đại mạc cô yên trực cho muội xem, muội muốn biết tại sao kình đạo của muội vẫn chưa đủ”.
Thiếu niên ấy vung kiếm thẳng tới nhanh như tên bay, chỉ thấy hoa quế trên cây rơi lả tả.
Tần Nguyên Hạo tuy không ở trong vườn, nhưng thấy hoa quế rơi xuống cũng cảm nhận được kiếm phong của chàng ta. Tần Nguyên Hạo bất giác cả kinh, lòng thầm nhủ: “Thiếu niên này quả thực đã sử dụng kiếm pháp thượng thừa, công lực cũng rất bất phàm, không biết là ở phái nào?” lúc này, Tần Nguyên Hạo biết họ đang luyện kiếm, những câu thơ Đường lúc nãy là tên của chiêu số.
Thiếu niên nói: “Khi xuất kiếm, cẳng tay hơi cong, khí trầm xuống đan điền, tụ kình đợi phát ra, khi xuất chiêu phải đưa thẳng tới. Như thế kình tự nhiên đầy đủ”. Nàng thiếu nữ luyện vài lần, khi xuất kiếm quả nhiên cũng có hoa quế rơi xuống.
Thiếu niên cười nói: “Tốt lắm, thiên tư của muội cao hơn huynh. chiêu này coi như là được”.
Thiếu nữ nói: “Chúng ta đã luyện với nhau mười hai chiêu. Này, Tinh thùy bình dã khoát” (Ngoài cánh đồng sao rụng) dứt lời đâm liền ra một kiếm, mũi kiếm rung lên, kiếm quang tỏa rộng. Tần Nguyên Hạo tuy không biết sự ảo diệu trong bộ kiếm pháp này, nhưng biết chiêu lúc nãy mà nàng thiếu nữ đã sử dụng phù hợp với ý của câu thơ. Chợt nghe chàng thiếu niên hô một tiếng “hay”, rồi bảo: “Cẩn thận tiếp chiêu, huynh sẽ trả lại bằng Nguyệt thông đại giang lưu”(Sông lớn ánh trăng đầy).
Lời vừa buông chiêu đã phát, lập tức một mảng hàn quang dồn ra, kiếm thế liên miên không ngớt, tựa như có một vầng trăng tròn tuôn xuống giữa dòng sông, còn sóng nước sóng sánh khiến vầng trăng ấy vỡ tan ra rồi hợp lại.
Hai người đánh mười hai chiêu, mỗi chiêu đều phù hợp với ý cảnh một câu thơ Đường, Tần Nguyên Hạo ngẩn người ra nhìn, lòng thầm nhủ: “Chả trách nào sư phụ bảo trên giang hồ là nơi ngoa hổ tàng long, đâu đâu cũng có người tài giỏi. Kiếm pháp của thiếu niên này không biết là của phái nào, nhưng chẳng kém gì bảy mươi hai đường Liên hoàn đoạt mệnh kiếm của bản môn”. Nghĩ đến đây, chàng bất giác trỗidậy ý tường muốn kết giao với hai người kia.
Chàng chưa nghĩ xong, thiếu niên đã đọc: “Phong cấp phiên sương lãnh”(gió gấp thổi sương lạnh), ánh hàn quang quét ra, kiếm ảnh bừng bừng, quả thật y xuất thủ rất nhanh. Nàng thiếu nữ đánh thêm một chiêu Vân khai kiến nguyệt minh, đẩy ngang thanh kiếm về phía trước, chiêu này vốn đùng để phá giải chiêu lúc nãy của thiếu niên, nhưng nàng ta lại hơi đánh chậm hơn, kình lực không đủ, chỉ nghe keng một tiếng, hai kiếm chạm nhau, thanh kiếm của thiếu nữ rơi xuống đất.
Tần Nguyên Hạo thấy kiếm thuật của thiếu niên này tinh diệu như thế, suýt tí nữa đã kêu lên, may mà còn ngừng lại được. Thiếu niên nhặt kiếm lên, cười rằng: “Xin lỗi, huynh thu thế không kịp đã đánh rơi kiếm của muội. Tiếp nào”.
Thiếu nữ giận dỗi nói: “Muội không đánh lại huynh, muội không đánh nữa”.
Thiếu niên nói: “Chúng ta chỉ là tiếp chiêu đùa vui, sao muội lại cho là thật?” thiếu nữ nói: “Bảo tiếp chiêu đùa vui, sao huynh còn cố ý đánh rơi kiếm của muội? Dù huynh là sư phụ, muội là đồ đệ, huynh cũng không nên đánh rơi kiếm của muội chứ. Kiếm thuật của huynh giỏi như thế, muội không học nữa đâu”.
Thiếu niên vội vàng thi lễ: “Nếu huynh có ý như thế, huynh chết cũng chẳng yên. May mà không có ai thấy, muội cũng không sợ người ta cười chê”.
Thiếu nữ nói: “Sao huynh biết không có ai?” Thiếu niên nói: “Huynh mắt có thể xem bốn hướng, tai có thể nghe tám phương, huynh bảo không có người thì là không có. Nếu có huynh sẽ lôi hắn ra đây!”
Tần Nguyên Hạo nghe họ nói như thế tựa như là chỉ mình, bất giác vội vàng thu người ẩn mình sau tảng đá.
Tần Nguyên Hạo vốn có ý muốn kết giao với họ, nhưng họ nói như thế thì chợt nghĩ lại nếu mình bước ra lúc này thì thật không ổn. Khi người trong võ lâm luyện tập võ công của bổn môn thì không cho người ngoài đứng xem. Do đó nhìn lén người khác luyện võ là một trong những điều cấm kị của võ lâm. Tần Nguyên Hạo thầm nhủ: “May mà bọn họ không phát hiện ra mình, nếu không sẽ phiền to. Mình lại không biết lai lịch của người ta, chi bằng cứ đến nhà họ Giang, dò hỏi các bậc trưởng bối đồng đạo sẽ biết rõ ngay, sau đó kết giao cũng không muộn”.
Tần Nguy.ên Hạo vốn muốn bỏ đi, nhưng đôi thiếu niên nam nữ vẫn còn trong vườn, nếu chàng đứng dậy bước đi chắc chắn sẽ bị họ phát hiện. Bởi vì Tần Nguyên Hạo tuy không có ý nhìn lén người ta luyện võ nhưng cũng đành phải nhìn xuống.
Chỉ nghe thiếu niên kia nói: “Thường muội, chúng ta chỉ trau dồi luyện tập với nhau, sao lại bảo là truyền thụ? Huynh đã luyện bộ kiếm pháp này nhiều năm, đương nhiên huynh dạy cho muội, nhưng nếu bảo công phu ám khí thì huynh cũng phải học hỏi ở muội. Đúng rồi, chúng ta không học kiếm thuật nữa, tiếp tục luyện ám khí được không? Nghe nói Mai hoa châm của muội đã đến mức xuất thần nhập hóa, trổ tài cho huynh xem thử”.
Thiếu niên vừa nói mấy lời khen ngợi, nàng ta đã chuyển giận làm vui, đáp: “Huynh đừng khen bừa muội, cha muội nói, tổ phụ của huynh là đệ nhất cao thủ, công phu ám khí của huynh sao không bằng muội được? Có phải muốn chê cười muội chăng?”
Tần Nguyên Hạo nghe xong thì bất giác ngạc nhiên, lòng thầm nhủ: “Cao thủ đệ nhất trong thiên hạ ai mà chẳng biết là Giang đại hiệp? Còn đâu ra cao thủ đệ nhất nữa? Nếu bảo tổ phụ của thiếu niên này là Giang đại hiệp, mà Giang đại hiệp năm nay chỉ hơn bốn mươi tuổi, làm sao có cháu nội? Huống chi cũng chẳng nghe nói Giang đại hiệp có người thân gì khác?”
Thiếu niên cười rằng: “Đạo võ công mỗi người đều có sở trường. Tổ phụ của huynh cũng rất khâm phục công phu điểm huyệt và ám khí của nhà muội. Muội đừng khách sáo, muội cũng phải dạy ta mới được”.
Lúc đầu Tần Nguyên Hạo còn tưởng họ là đồng môn sư huynh muội tiếp chiêu với nhau, lúc này mới biết không phải. Nàng thiếu nữ nói: “Thôi được, nếu huynh nhất định muốn cười chê muội, muội xin đành phải bày trò vậy”. Nói xong bèn rút ra một nắm mai hoa châm, lẩm bẩm: “Luyện cái nào? Ồ, đây rồi, những con ong này cứ vo ve nghe thật bực mình, để muội sẽ đánh rơi chúng”.
Trên cây quế gần đó có một bầy ong đang hút mật hoa. Thiếu nữ vừa nói xong liền vung tay lên, chỉ thấy ánh vàng lấp lánh, một bầy ong mật rơi lả tả.
Thiếu niên nọ bật tiếng khen: “Hay, hay lắm, trên mỗi con ong đều cắm một cây mai hoa châm, không nhiều không ít, công phu này còn cao minh hơn cả Thiên nữ tán hoa”.
Thiếu nữ cười nói: “Huynh đúng là có con mắt tinh đời, bây giờ đến lượt huynh”.
Tần Nguyên Hạo thầm thất kinh trước công phu ném ám khí của nàng thiếu nữ, nhưng lòng chợt nhủ: “Thủ pháp phóng ám khí của nàng ta quả thật cao minh, nhưng cũng hơi tàn nhẫn, không biết công phu ám khí của thiếu niên thì như thế nào?”
Thiếu niên nọ không hề khách sáo, đáp liền: “Thôi được, muội muốn huynh làm trò, huynh cũng đành tuân theo”. Nói xong thì ngoảnh mặt ra ngoài, đột nhiên vung tay lên.
Thiếu nữ nói: “Huynh đánh cái gì thế?” khi nàng ta lên tiếng, Tần Nguyên Hạo chỉ cảm thấy gió lướt tới, ám khí của đối phương đã phóng tới, té ra chàng thiếu niên đã lấy Tần Nguyên Hạo làm mục tiêu. 
Tần Nguyên Hạo không kịp đề phòng, suýt tí nữa đã bị chàng ta ném trúng. Trong khoảnh khắc ngàn cân treo sợi tóc, chàng thi triển công phu thượng thừa Đàn chỉ thần công, ba liếng keng keng keng vang lên, ba mảnh thấu cốt đinh đã bị chàng đánh rơi ra đến hơn mấy trượng mới rơi xuống. Nhưng đầu ngón tay của Tần Nguyên Hạo cũng hơi nhói đau, chàng cách thiếu niên nọ hơn hai mươi trượng, còn thiếu niên nọ thì ở dưới sườn đồi phóng ám khí lên, Tần Nguyên Hạo không khỏi kinh hãi.
Thiếu niên vừa phóng xong thấu cốt đinh thì quát lớn: “Tiểu tử phương nào dám nhìn lén bọn ta luyện võ, ngươi tưởng bọn ta không biết ư? Hãy mau bước ra đây!” Thiếu nữ cười: “Công phu của tiểu tử ấy cũng không tệ!”
Tần Nguyên Hạo vốn có ý kết giao với họ, chỉ vì phạm phải điều cấm kị trên giang hồ cho nên mới không dám bước ra. Nay bị bọn họ phát hiện đành phải xuất hiện.
Thế rồi Tần Nguyên Hạo chạy xuống núi, vượt qua bức tường vào trong vườn, cung tay nói với thiếu niên: “Tiểu đệ là đệ tử Tần Nguyên Hạo của phái Võ Đang, đi ngang qua đây không có ý nhìn lén, mong huynh đài thứ lỗi”.
Tần Nguyên Hạo tự báo lai lịch của sư môn, một là theo quy củ giang hồ, tỏ ý tôn trọng đối với đối phương; hai là mong có thể giành được thiện cảm của đối phương, không đến nỗi bị họ hiểu lầm. Phải biết Thiếu Lâm, Võ Đang là hai phái lớn nhất trên võ lâm. Người trong giang hồ nghe đến phái Võ Đang thì đều tôn trọng vài phần. Không ngờ thiếu niên ấy nhận một vái của Tần Nguyên Hạo thì vẫn không trả lễ, chỉ lạnh lùng đáp: “Mặc kệ người là đệ tử của phái Võ Đang, ngươi học lén kiếm thuật của ta thì cũng không nên?”
Tần Nguyên Hạo là người ngoài mềm trong cứng, mặc dù chàng có ý muốn kết giao với đối phương, nhưng nghe thiếu niên nói những lời không khách sáo như thế, cũng không khỏi nổi giận, tự nhủ: “Kiếm thuật của huynh đài quả thật cao minh, nhưng đệ tử Võ Đang chúng tôi chẳng phải là kẻ học lén võ nghệ của người khác!” Thiếu niên hừ một tiếng, nói: “Hừ, đệ tử của phái Võ Đang thì thế nào? Được, ta sẽ lãnh giáo kiếm thuật của ngươi!” Thế rồi vung kiếm lên nhanh như điện chớp, vài đóa kiếm hoa phóng về phía Tần Nguyên Hạo, chỉ trong một chiêu đã đâm vào ba đại huyệt của chàng.
Tần Nguyên Hạo nghĩ thầm: “Mình không thể làm nhơ tiếng của bổn phái”.
Nhưng đối phương cứ ép tới, Tần Nguyên Hạo cũng chỉ đành rút kiếm ra chống đỡ. Thiếu niên nói lớn: “Thường muội, muội hãy nhìn cho kỹ!” rồi đâm xoạc một chiêu Đại mạc cô yên trực, thanh kiếm phóng thẳng tới nhanh như tên bay, mũi kiếm đâm thẳng vào mặt Tần Nguyên Hạo, tựa như muốn đâm mù mắt chàng.
Tần Nguyên Hạo vừa kinh vừa giận, nghĩ thầm: “Dù ta học lén võ nghệ của ngươi, ngươi cũng không nên ra tay độc ác đến thế!” lập tức thi triển tuyệt học của bổn môn, đánh ra một chiêu Hoành vân đoạn phong (mây mù chặn núi), kiếm thế chặn lại, đột nhiên cuộn ra, chỉ nghe keng một tiếng, thanh trường kiếm của thiếu niên ấy đã bị dạt ra, người thối lui ba bước. Thiếu nữ họ Thường cười khanh khách: “Muội đã nhìn kỹ. Té ra có thể phá chiêu Đại mạc cô yên trực của huynh như thế”.
Thiếu niên này vốn có ý phô bày kiếm pháp của mình trước mặt ý trung nhân, không ngờ chẳng làm gì được người ta mà còn bị đánh lùi ba bước, không khỏi thẹn quá hóa giận, quát lớn: “Được, tên tiểu tử nhà ngươi lợi hại lắm!” rồi thanh kiếmvung tròn, đánh ra một chiêu Trường hà lạc nhật viên, kiếm quang bay bổng đột nhiên hợp thành một vòng ánh sáng, nhốt Tần Nguyên Hạo vào giữa, nếu y đắc thủ, Tần Nguyên Hạo chắc chắn sẽ bị chém thành hai đoạn.
Tần Nguyên Hạo thấy y càng đánh càng dữ, lửa giận bốc lên, nghĩ thầm: “Không cho gã biết tay, gã chỉ tưởng mình dễ bức hiếp”. Thế rồi mũi kiếm hất lên, đâm thẳng ra khỏi vòng kiếm quang ấy, đó chính là một chiêu Hoành tảo lục hợp (quét ngang sáu hướng), chỉ nghe keng keng vang lên không ngớt tai, trong khoảnh khắc kiếm quang đã tán loạn. Chiêu Trường hà lạc nhật của thiếu niên đã bị chàng phá giải.
Tần Nguyên Hạo nói: “Có thể dừng tay được chưa?” thiếu niên quát: “Thắng thua vẫn chưa phân, sao có thể ngừng tay?” đang nói thì đánh nhanh ra ba chiêu,chiêu sau hiểm hóc hơn chiêu trước. Bộ kiếm pháp của y quả thật rất độc đáo, mỗi chiêu đều có mấy biến hóa, ba chiêu liên hoàn đánh liền nhau một mạch. May mà Tần Nguyên Hạo đã thấy y tiếp chiêu với thiếu nữ cho nên không đến nỗi luống cuống tay chân.
Tần Nguyên Hạo nghĩ bụng: “Tiểu tử này không chịu thua, nếu mình chỉ thủ không công thì e rằng sẽ thiệt thòi”. Bảy mươi hai đường liên hoàn đoạt mệnh kiếm của phái Võ Đang lấy công làm chủ, nếu phòng thủ thì không thể phát huy được sở trường.
Tần Nguyên Hạo hú dài một tiếng, quát: “Đến mà không đi chẳng phải lễ! Xin lỗi, ta phải trả chiêu đây!” thế rồi vung kiếm lên, bên trái đâm ra hai kiếm, bên phải đâm ra hai kiếm, ở giữa lại đâm ra ba kiếm. Bảy chiêu kiếm đâm ra nhanh như điện chớp, mỗi chiêu đều khác nhau. Thiếu nữ đứng một bên thấy thế thì tròn mắt lạc giọng kêu: “Ôi, Văn đại ca, kiếm pháp của y hình như nhanh hơn huynh!”
Thiếu niên mặt vẫn lạnh như sương, y đang chăm chú đối phó với đoạt mệnh kiếm của Tần Nguyên Hạo, không nghe được lời của thiếu nữ. Chỉ thấy y đột nhiên phóng vọt lên mấy thước, thanh trường kiếm từ trên không quét ngang ra. Mũi kiếm từ bên trái đánh sang phải, đột nhiên ở nửa đường lại xoay ngược lại. Y có thể xoay chuyển kiếm thế theo ý, quả thật kiếm thuật cũng rất cao cường.
Thiếu niên ấy một trồi một hụp, kiếm quang quét ngang ra, chỉ trong khoảnh khắc đã đánh ra năm chiêu số khác nhau. Chỉ nghe tiếng kim khí giao nhau, bảy chiêu kiếm liên hoàn của Tần Nguyên Hạo đã bị y phá giải. Tần Nguyên Hạo thấy y phá giải rất tinh diệu, trong lòng thầm bội phục.
Tần Nguyên Hạo khen một tiếng “hay” ý muốn thâu thế lại. Không ngờ thiếu niên ấy lại đánh tới, lạnh lùng nói: “Kiếm pháp của ta hay hay dở, không cần ngươi bình luận. Hừ, Liên hoàn đoạt mệnh kiếm của phái Võ Đang cũng chỉ có thế, xem ra không thể lấy được mạng ta”. Rồi đánh gấp tới, người tiến theo kiếm, bên trái đánh ra một chiêu Tinh thùy bình dã khoát, bên phải đánh ra một chiêu Nguyệt thông đại giang lưu, kiếm quang triển khai loang loáng, quả thực như sông đài biển rộng cuồn cuộn đổ tới.
Tần Nguyên Hạo nghĩ thầm: “Kẻ này quả thật vô lý, có lẽ mình phải liều với y một trận”. Tần Nguyên Hạo có điều không biết, thiếu niên này không phải ngang ngược vô lý mà là khí lượng hẹp hòi. Y đang bực mình vì ý trung nhân của mình khen ngợi kiếm pháp của Tần Nguyên Hạo cho nên quyết phải hạ cho bằng được Tần Nguyên Hạo.
Thiếu niên ấy lướt người theo kiếm, kiếm pháp triển khai, uy mãnh tựa như sấm vang chớp giật, nhẹ nhàng tựa như nước chảy mây bay, quả thật không thể nào coi thường. Tần Nguyên Hạo đột nhiên gặp phải kình địch, tinh thần phấn chấn cho nên thi triển Liên hoàn đoạt mệnh kiếm nhanh chóng vô cùng, trong chốc lát đã thấy toàn trường đều là kiếm quang, chợt đông chợt tây, lúc tụ lúc tán tựa như mưa gió! Trong trường chỉ có hai người tỉ kiếm nhưng như có thiên quân vạn mã đang rượt đuổi nhau.
Trong chốc lát, hai bên càng đấu càng gấp. Chỉ thấy ánh kiếm chứ chẳng thấy bóng người.
Lúc đầu thiếu nữ vẫn còn bình thản đứng nhìn, tiếp theo họ đấu càng lúc càng gấp, tâm trạng của nàng cũng không khỏi càng lúc càng căng thẳng. Đến khi chỉ thấy kiếm quang chứ chẳng thấy bóng người, nàng bất đồ đâm ra lo lắng. Thiếu nữ đang sợ “hai cọp đấu nhau chắc chắn sẽ có một bị thương”. Lòng nhủ thầm: “Văn đại ca đương nhiên bị thương không tốt, nhưng nếu thiếu niên họ Tần này cũng bị thương thì cũng chẳng hay. Y nhìn lén bọn mình luyện võ chẳng qua chỉ là chuyện nhỏ, nếu làm y trọng thương chẳng phải tàn nhẫn hay sao? Vả lại y là đệ tử của phái Võ Đang, làm y bị thương chỉ e sẽ để lại hậu họa. Nhưng mình không thể nào tách họ ra, làm thế nào đây?” Thiếu nữ chưa kịp nghĩ xong, chợt nghe keng một tiếng, màn kiếm quang vụt tắt.
Té ra cả hai bên đều đùng thế công nhanh như chớp, đã chạm nhau một chiêu. Hai kiếm chạm nhau, mỗi bên đều dồn nội lực ra.
Thiếu niên họ Văn đã đánh ra hơn trăm chiêu, biết chẳng thể xem thường Liên hoàn đoạt mệnh kiếm của phái Võ Đang, nếu cứ đánh tiếp chỉ e mình sẽ thua thiệt, cho nên hai kiếm vừa chạm nhau y đã lập tức dùng tự quyết chữ “áp” đè Tần Nguyên Hạo, không cho chàng rút kiếm ra, ý đồ là muốn dùng nội lực của mình để chế phục chàng.
Tần Nguyên Hạo đang muốn rút kiếm ra, chợt thấy một nguồn đại lực dồn tới đánh vào hổ khẩu của chàng. Tần Nguyên Hạo nghĩ bụng: “Té ra tiểu tử này biết cách vật truyền công”. Thực ra với công lực của Tần Nguyên Hạo, chàng có thể rút kiếm ra, nhưng chàng là người ngoài mềm trong cứng, người trẻ tuổi cũng khó tránh có mấy phần kiêu ngạo, đối phương cứ dồn ép, chàng không khỏi nổi lòng háo thắng, nghĩ thầm: “Nếu mình rút kiếm ra, y nghĩ mình sợ y. Được, mình sẽ tỉ thí nội công với y”. Thế rồi cũng vận nội công đánh ngược lại. Khi nội lực của hai bên dồn vào nhau, chẳng ai muốn thâu chiêu lại nữa.
Trong chớp mắt hai người đều toát mồ hôi, nhưng thần sắc của Tần Nguyên Hạo thì ung dung hơn, người họ Văn thì mặt đã nổi gân xanh, trông mệt nhọc hơn chàng nhiều. Số là Tần Nguyên Hạo đã học nội công chính tông, tương đối thuần hậu, còn thiếu niên họ Văn học loại nội công của tà phái, lúc mới giao thủ thì rất bá đạo.
Nhưng thời gian kéo dài, không khắc chế được đối phương thì dần dần đuối thế hơn. Tỉ thí nội công chẳng phải chuyện tầm thường, nếu không hạ được kẻ địch thì bản thân sẽ gặp nguy, lúc này thiếu niên họ Văn vừa lo lắng vừa hối hận, lòng thầm nhủ:
“Sớm biết tên tiểu tử này có công lực như thế, chi bằng mình cứ tỉ kiếm với y, nếu không địch lại nhiều lắm chẳng qua chỉ là bị thương. Nay muốn chuyển bại thành thắng thì trừ phi có Thường muội giúp mình một tay”.
Tần Nguyên Hạo lúc này đã chiếm được thượng phong, nhưng thắng thua vẫn chưa quyết, chàng phải dồn hết tâm trí đối phó với thiếu niên họ Văn, cho nên nếu lúc này có một người võ công tầm thường đánh lén từ sau lưng chàng cũng khó phân thần ứng phó.
Thường ngày thiếu niên họ Văn đã quen huênh hoang trước mặt thiếu nữ ấy, nàng ta cũng rất khâm phục võ công của y. Lúc này y muốn nhờ nàng giúp đỡ nhưng không thể nào thốt ra lời, trong lòng vừa lo vừa giận: “Sao Thường muội lại như thế, chả lẽ nàng không nhận ra hay sao mà vẫn đứng yên nhìn?” y bất đắc dĩ chỉ đành nháy mắt với nàng.
Thiếu nữ ấy tuy không phải là người võ công cao cường, nhưng nàng có thể nhận ra tình thế giữa hai người. Lúc này, nếu nàng bước lên đánh lén Tần Nguyên Hạo, chàng chắc chắn sẽ bị Văn đại ca của nàng giết chết, nhưng chỉ vì một chuyện nhỏ mà giết một đệ tử của phái Võ Đang, dẫu cho nàng không nghĩ đến hậu quả nhưng cũng cảm thấy bất nhẫn. Song nếu nàng không bước lên giúp “Văn đại ca”, nàng chỉ e y không chết cũng bị trọng thương. Cho nên sau khi thấy thiếu niên ấy nháy mắt với nàng, nàng vẫn không rút kiếm ra mà đang còn nấn ná.
Thiếu nữ đứng sau lưng Tần Nguyên Hạo, nếu nàng rút kiếm ra Tần Nguyên Hạo chắc chắn sẽ không biết. Nhưng chàng ta đã thấy ánh mắt của thiếu niên. Tần Nguyên Hạo nghĩ bụng: “Mình vốn chẳng thù chẳng oán gì với y, cần gì phải làm y bị thương? Trông vẻ lo lắng của y, chắc là đã sắp không chống chọi nổi, đang muốn nhờ thiếu nữ giúp đỡ. Chi bằng mình đánh liều ngừng tay, đôi bên đều được lợi”.
Thật ra lúc này chàng ngừng tay là điều rất nguy hiểm. Bởi vì hai bên đang dốc toàn lực ra tỉ thí, chàng đột nhiên ngừng tay, nếu đối phương đánh tới thì chàng phải gặp họa sát thân. Nhưng Tần Nguyên Hạo đã lấy lòng quân tử đo bụng kẻ tiểu nhân, chàng tưởng rằng với võ công của y, chàng ngừng tay thì y sẽ nhận ra mình đã nương tay, nếu biết chàng đã nương tay thì chả lẽ y còn thừa cơ đánh tới?
Không ngờ động tác của thiếu niên ấy hoàn toàn gây bất ngờ cho Tần Nguyên Hạo.
Thiếu niên họ Văn một là căm hận Tần Nguyên Hạo đã làm mình mất mặt trước thiếu nữ ấy; hai là thấy thiếu nữ đã rút kiếm nhưng vẫn nấn ná vẫn chưa tiến lên, lòng càng tức giận hơn. Tần Nguyên Hạo đột nhiên ngừng tay, y đã đâm thẳng tới một kiếm.
Tần Nguyên Hạo cả kinh, nhưng may mà võ công cao cường, trong lúc nguy ngập đã lập tức thi triển bộ pháp Di hình hoán vị, trả lại một chiêu Loan cung xạ điêu (kéo cung bắn chim điêu).
Chiêu Loan cung xạ điêu này buộc kẻ địch thối lui để tự cứu mình, theo lẽ thường, thiếu niên buộc phải né tránh, đồng thời biến chiêu chống đỡ mới đúng.
Nhưng nào ngờ khi ra tay thì tưởng rằng có thể đắc thủ, cho nên đã dùng một chiêu số cực kỳ bá có tên Thác vũ phá thiên kiêu, trong chiêu này bao gồm ba thức, cần phải đánh một mạch mới có thể dồn địch vào chỗ chết. Thiếu niên ấy sợ kiếm thế không đủ lợi hại cho nên dốc ra toàn lực, trong nhất thời làm sao có thể thâu thế lại được!
Khi thấy hai bên sắp lưỡng bại câu thương, thiếu nữ lạc giọng kêu lên: “Cha, đến đây mau!” chỉ nghe keng keng hai tiếng, khi hai mũi kiếm đều sắp đâm vào đối phương thì chợt thấy một bóng người lướt tới như điện xẹt, đôi tay búng ra, hai thanh kiếm tuột ra rơi xuống đất.
Tần Nguyên Hạo cả kinh, phải biết kiếm thế của chàng và thiếu niên họ Văn đều dồn sức phát ra, kình đạo rất mạnh mẽ, nhưng người này chỉ trong mắt đã búng kiếm của họ bay ra, bản lĩnh ấy quả thực cao cường! Tần Nguyên Hạn nghĩ thầm: “Trong môn phái mình chỉ e sư phụ mới làm được điều này Tùng Thạch sư thúc có lẽ chưa chắc bì kịp. Nếu y có xấu với mình thì không thể tưởng tượng nổi hậu quả”.
Nhưng chàng thấy thanh kiếm của thiếu niên họ Văn cũng bay ra, thì biết người ấy chỉ có ý phá giải chứ không có ý xấu với mình.
Đó là một hán tử trung niên ăn mặc theo kiểu thư sinh cử chỉ rất nho nhã, Tần Nguyên Hạo đang ngạc nhiên thì y đã bước tới vái Tần Nguyên Hạo một cái rồi nói: “Tiểu ca đã giật mình, xin thứ cho khuyển tử vô tri, cho phép Văn mỗ xin lỗi cho khuyển tử”.
Thiếu niên họ Văn đỏ gay mặt, ấp úng: “Cha... người...” Thư sinh trung niên ấy quát: “Bình thường ta dạy con như thế nào, sao lại vô lễ với khách như thế? Sao chưa mau xin lỗi khách!”
Tần Nguyên Hạo vội vàng trả lễ, hoảng hốt đỡ lời: “Xin đừng trách lệnh lang, đấy là lỗi của tại hạ”. Thiếu niên họ Văn xen vào: “Đúng thế, y đã nhìn lén chúng con luyện võ, cho nên con mới động thủ với y”.
Trung niên thư sinh lắc đầu, cười nhạt: “Buồn cười, buồn cười, người ta là đệ tử của phái Võ Đang, mấy đường công phu nhảm nhí của con, người ta coi vào đâu nào!”
Tần Nguyên Hạo thấy người này trách mắng con mình, lửa giận đã tắt ngấm, trái lại lúc này thấy không yên. Vội vàng nói: “Kiếm pháp của lệnh lang rất cao minh, tại hạ rất khâm phục. Lần này tuy tại hạ chỉ vô tình, nhưng tự tiện xông vào quý phủ cũng là điều không nên. Xin thứ lỗi”. Thư sinh trung niên ấy nghe thì đột nhiên cười ha hả.
Tần Nguyên Hạo không biết tại sao y lại bật cười đang rất ngạc nhiên, chợt nghe thư sinh trung niên chỉ tay ra phía sau, nói: “Phong đại ca mới đúng là chủ nhân của nơi này, ta chỉ là khách mà thôi”. Tần Nguyên Hạo nhìn theo hướng tay y, chỉ thấy một hán tử tuổi khoảng ngũ tuần, râu dài ba chòm bước ra. Thiếu nữ kêu lên một tiếng “cha”, lập tức chạy đến, vừa chạy vừa nói: “Cha, sao đến lúc này cha mới ra, cha không nghe con nói ư? Ôi, lúc nãy, lúc nãy thật nguy hiểm...”
Người họ Phong cười nói: “Thường nhi, ta đã biết cả rồi. Hiếm có dịp cao đồ của phái Võ Đang đến đây, xin thứ cho tôi đã đón tiếp chậm trễ”. Tần Nguyên Hạo vội vàng trả lễ, báo danh tính với họ. Lúc này mới biết chủ nhân họ Phong tên là Tử Siêu. Con gái của ông là Phong Điệu Thường. Thư sinh trung niên tên gọi Văn Đạo Trang, con trai của y là Văn Thắng Trung.
Tần Nguyên Hạo tỏ ý tạ lỗi vì mình đã đường đột xông vào, Phong Tử Siêu cười nói: “Tần thiếu hiệp đến đây, bọn chúng tôi phải mời vào mới phải. Phải chăng Tần thiếu hiệp là đệ tử của Lôi lão tiền bối?”
Tần Nguyên Hạo mới biết họ đã thấy trận tỷ kiếm giữa mình với Văn Thắng Trung.
Bậc bề trên nhìn lén công phu của bậc tiểu bối, có thể là vì muốn đoán lai lịch môn phái của chàng, cũng có thể là vì có ý muốn kiểm điểm. Dù ý của họ như thế nào, bậc trưởng bối xem lén kẻ tiểu bối đối chiêu, cũng không phải là chuyện thất lễ. Tần Nguyên Hạo vốn là người thuần hậu, lại là lần đầu tiên xuất đạo, không hề có tâm cơ, chàng không thể nào đoán được dụng ý của đối phương, chỉ đành cung kính nói: “Đúng là gia sư”.
Phong Tử Siêu cười ha hả, nói: “Thật hiếm có. Tôn sư là bậc thái sơn bắc đẩu trong võ lâm, tôi ngưỡng mộ đã lâu, hiếm có dịp nào Tần thiếu hiệp đến đây, hãy cho phép tôi mời chén rượu để tỏ lòng mến khách”.
Tần Nguyên Hạo nói: “Vãn bối nào dám nhận”. Phong Tử Siêu lại nói: “Trời đã tối, dưới núi Tồ Lai chẳng có thôn làng, Tần thiếu hiệp cũng cần phải nghỉ ngơi, sao không cho phép tôi dốc lòng tiếp đãi?”
Văn Đạo Trang cười rằng: “Phải chăng Tần thiếu hiệp vẫn còn trách tiểu nhi vô lễ? Trung nhi hãy mau đến tạ lỗi với Tần thiếu hiệp!” nói xong thì nháy mắt với con trai. Văn Thắng Trung vốn cứng cỏi, lúc này như chợt hiểu ra, vội vàng bước tới thi lễ với Tần Nguyên Hạo: “Tần huynh xin thứ lỗi mạo phạm của tiểu đệ, dù thế nào, Tần huynh cũng ở lại đây vài ngày, tiểu đệ mong được học hỏi ở Tần huynh”.
Tần Nguyên Hạo vốn có ý kết giao với họ, vả lại đêm nay chàng cũng cần có một nơi tá túc, nếu cứ từ chối thì khó tránh mất lòng người ta. Hơn nữa Văn Thắng Trung đã nói như thế, nếu chàng cứ kiên quyết thì chẳng phải đã thừa nhận rằng mình vẫn còn cố chấp với y hay sao?”
Cha con họ Văn cứ vờ vịt như thế, Tần Nguyên Hạo rất ngại ngùng, vội vàng trả lễ: “Văn huynh không truy cứu lỗi tiểu đệ, tiểu đệ đã cảm kích không nguôi. Lại được chủ nhân giữ lại, tiểu đệ chỉ đành cung kính tuân theo. Kiếm pháp của Văn huynh rất cao minh, tiểu đệ không dám nhận hai chữ học hỏi”.
Phong Tử Siêu cười ha hả, nói: “Hay lắm, hay lắm! Hai người các con có thể nói không đánh không quen, Tần thiếu hiệp hãy ở đây vài ngày để cho tiểu nữ cũng có dịp học hỏi”.
Tần Nguyên Hạo nóng ran mặt, nói: “Bản lĩnh của hai vị lão tiền bối, cao cường hơn vãn bối cả trăm lần, vãn bối làm sao dám nhận những lời khách sáo ấy? Lần này vãn bối có chút chuyện phải đến huyện Đông Bình, đêm nay đã quấy nhiễu, ngày mai phải ra đi, khi nào trở về sẽ đến quý phủ chào hỏi hai vị lão tiền bối”.
Phong Tử Siêu nói: “Được, đã như thế ta cũng không tiện giữ. Đêm nay Tần thiếu hiệp hãy tạm nghỉ ở hàn xá. Thời gian không còn sớm nữa, xin mời hãy vào dùng cơm. Rượu thịt đã chuẩn bị xong. Chỉ là giữa chốn núi rừng không có rượu thơm thức ngon, xin đừng chê cười”.
Họ vừa đi vừa nói, vào đến bên trong Tần Nguyên Hạo thấy đã bày sẵn một bàn tiệc, Phong Tử Siêu và Văn Đạo Trang khách sáo như thế, Tần Nguyên Hạo cũng hơi bất an, nghĩ bụng: “Mình chẳng qua chỉ là một đệ tử của phái Võ Đang, họ đối xử với mình trịnh trọng như thế, có thực đã coi mình là khách quý hay không?”
Tần Nguyên Hạo thấy trong lòng nghi ngờ, nhưng lại tự trả lời: “Ngốc thật, họ không phải coi mình là khách quý mà chỉ tôn kính sư phụ của mình. Võ Đang và Thiếu Lâm xưa nay đứng ngang hàng nhau trong võ lâm. Bất cứ một đệ tử nào trong phái đi lại trên giang hồ cũng được người ta nể mặt. Huống chi sư phụ của mình là chưởng môn nhân”. Chàng tự hỏi tự đáp, cho nên cũng đã yên lòng.
Sau khi ngồi vào chỗ, Phong Tử Siêu và Văn Đạo Trang đều ân cần mời rượu Tần Nguyệt Hạo, Tần Nguyên Hạo uống mấy chén thì chợt nhớ đến lời dạy của sư phụ: “Khi đi lại trên giang hồ lúc nào cũng phải cẩn thận, đừng vì tham ăn uống mà hỏng chuyện. Gặp phải những người lạ không biết lai lịch càng phải cẩn thận hơn”.
Chàng nhớ lại lời dạy, thế rồi mới nói: “Tiểu diệt tửu lượng rất kém, sáng mai còn phải lên đường, điều này...”
Phong Tử Siêu không đợi chàng nói xong, cười rằng: “Rượu này chẳng phải rượu mạnh, có uống nhiều cũng chẳng say nổi. Được, ta cạn chén trước, mong Tần thiếu hiệp nể mặt”. Nói xong liền uống cạn chén rượu.
Tần Nguyên Hạo tuy không hiểu quy củ giang hồ lắm nhưng cũng biết chủ nhân đã cạn chén trước là để cho mình khỏi hoài nghi. Thực ra thì Tần Nguyên Hạo cũng không hề có ý nghi ngờ Phong Tử Siêu.
Tần Nguyên Hạo nghĩ thầm: “Nếu bọn họ có ý ám toán mình, cần gì phải bỏ độc trong rượu?” chàng chưa biết bản lĩnh của Phong Tử Siêu ra sao, nhưng cũng đã thấy Văn Đạo Trang ra tay, nếu y muốn lấy mạng mình thì chàng chẳng thể nào chống đã nổi.
Tần Nguyên Hạo cho rằng bọn họ không bỏ độc trong rượu, hai là Phong Tử Siêu quá nhiệt tình, nếu chàng không uống thì cho thấy mình hoài nghi họ, như thế thật là bất kính đối với y. Vì thế Tần Nguyên Hạo chỉ đành đáp tạ rồi nâng chén uống cạn.
Rượu này quả nhiên không hề có vị cay, Tần Nguyên Hạo uống xong chỉ cảm thấy một luồng khí mát lan tỏa trong gan ruột. Chàng không khỏi buột miệng khen: “Rượu ngon, rượu ngon!” Phong Tử Siêu nói: “Đây cũng chỉ là loại rượu nhạt ở chốn núi rừng!” Tần Nguyên Hạo nói: “Nếu bảo đây là rượu nhạt, trong thiên hạ chẳng còn loại rượu nào có thể gọi là mỹ tửu nữa”.
Văn Đạo Trang nói: “Tần thiếu hiệp còn nói không biết uống rượu, té ra lại là một người biết thưởng thức rượu. Được, tại hạ cũng kính thiếu hiệp một chén”. Tần Nguyên Hạo đã uống với Phong Tử Siêu, đương nhiên cũng phải uống cùng Văn Đạo Trang một chén. Tiếp theo Văn Thắng Trung cũng mời rượu, cười rằng: “Phong lão bá nói phải, chúng ta không đánh không quen nhau, chén rượu này coi như chúc mừng chúng ta đã kết giao với nhau”. Tần Nguyên Hạo nghĩ bụng: “Loại rượu này mình uống ba chén nữa cũng chẳng say nổi”. Vì thế cũng cạn chén với Văn Thắng Trung, thế là bất giác đã uống ba chén rượu lớn.
Phong Diệu Thường nói: “Cha, rượu gì, hình như con chưa thấy cha uống bao giờ? Thật là thơm, con cũng muốn uống một chén”. Phong Tử Siêu nghiêm mặt nói:
“Con gái không được uống rượu!” Phong Diệu Thường chưa bao giờ bị cha mắng, không ngờ hôm nay ông ta lại trách nàng trước mặt khách, lập tức mặt đỏ ửng, bất giác ngẩn người ra. Văn Đạo Trang cười nói: “Phong đại ca, huynh đã quá nghiêm khắc với điệt nữ. Thôi được, cha không cho con uống, nhưng con hãy kính Tần thiếu hiệp một chén”. Phong Diệu Thường giận dỗi: “Không uống thì không uống, có gì ghê gớm đâu!” nàng không uống, cũng chẳng mời Tần Nguyên Hạo.
Tần Nguyên Hạo cũng cảm thấy hơi ngượng ngùng, nói: “Tửu lượng của vãn bối kém cỏi, đã uống ba chén, cũng không thể uống được nữa. Tại hạ xin lãnh nhận tấm thịnh tình của Phong cô nương”. Chàng chỉ nói mây câu nhưng đã giải vây cho Phong Diệu Thường.
Phong Tử Siêu nói: “Con gái của lão phu từ nhỏ đã mất mẹ, lão phu thường hay nuông chiều nó. Tần thiếu hiệp đừng cười chê”.
Văn Đạo Trang nói: “Thôi được, chúng ta hãy nói chuyện khác. Tần thiếu hiệp, thiếu hiệp bảo đến huyện Đông Bình có phải không?” Tần Nguyên Hạo nói: “Đúng thế”. Văn Đạo Trang nói: “Giang đại hiệp Giang Hải Thiên sống ở Dương gia trang tại huyện Đông Bình, nghe nói ngày mười lăm tháng tám ông ta gả con gái, Tần thiếu hiệp có biết chuyện này không?”
Tần Nguyên Hạo nói: “Vãn bối chính là vâng lệnh gia sư đến chúc mừng nhà họ Giang”. Phong Tử Siêu nói: “Quả nhiên tôi đã đoán không sai. Với giao tình của quý phái với Giang đại hiệp, Lôi chưởng môn không đi, đương nhiên sẽ sai đệ tử đắc ý nhất của ông ta đi thay”.
Tần Nguyên Hạo đỏ mặt, nói: “Gia sư bảo vãn bối đi thay để kết giao bằng hữu trên giang hồ, thực ra vãn bối cũng chẳng phải là đệ tử giỏi nhất trong môn phái”. Phong Tử Siêu nói: “Tần thiếu hiệp đã quá khiêm nhường. Người trẻ tuổi có võ công giỏi quý nhất là ở chỗ khiêm nhường, lão phu mời thiếu hiệp một chén”.
Tần Nguyên Hạo đáp: “Vãn bối thực sự không thể uống được nữa”. Tần Nguyên Hạo vì lúc nãy vừa mới giải vây cho Phong Diệu Thường, đã nói những lời như thế cho nên chỉ đành từ chối khéo léo, thực ra chàng cũng đang rất muốn uống.
Nhưng cũng thật lạ lùng, Tần Nguyên Hạo tưởng rằng mình không thể say, mà lúc này chợt có cảm giác lâng lâng, người đã ngà ngà say.
Tần Nguyên Hạo đã ngà ngà, chợt nhớ lại một chuyện, hỏi: “Hai vị lão bá có nhận được thiệp mời của nhà họ Giang không?” Núi Tồ Lai cách huyện Đông Bình chỉ có mấy trăm dặm, họ là võ lâm cao thủ, lại ở gần nhau, Tần Nguyên Hạo nghĩ lẽ ra là hai bên đã biết nhau từ lâu, cho nên mới hỏi như thế, thực ra cách hỏi cũng có hơi thất lễ, nhưng Tần Nguyên Hạo vì đã ngà ngà say nên không giữ được điều đó. Phong Tử Siêu cười ha hả nói: “Lão phu ẩn cư ở đây rất ít qua lại với người ngoài. Giang đại hiệp tuy nổi tiếng thiên hạ, nhưng lão phu vẫn chưa gặp ông ta. Chắc Giang đại hiệp cũng không biết kẻ nhà quê này, làm sao ông ta có thể gởi thiệp mời”. Văn Đạo Trang cười rằng: “Tôi cũng chỉ là kẻ vô danh tiểu tốt, làm sao có được thiệp mời của nhà họ Giang”.
Tần Nguyên Hạo nói: “Hai vị là cao nhân ngoài trời, đáng kính, đáng kính! Được, vãn bối kính hai vị một chén”. Chàng đã bảo không thể uống nữa, nhưng nay lại cạn chén với người ta. Phong Diệu Thường thấy sắc mặt chàng khác lạ, bèn xen vào nói: “Xem ra Tần thiếu hiệp đã say thật rồi, không thể uống được nữa!” Phong Tử Siêu trừng mắt, nói: “Thường nhi. sao con lại vô phép thế, chỉ có mời khách uống rượu chứ ai lại ngăn khách?”
Tần Nguyên Hao cười ha hả nói: “Ai bảo ta say? Ta không say, ta còn uống được nữa, Phong cô nương, xin cạn chén với cô nương!” chàng lảo đảo bưng lấy chén rượu đứng dậy, nói chưa dứt lời thì đổ sầm xuống đất. Miệng vẫn lè nhè hai chữ “cạn chén”.
Phong Điệu Thường nói: “Cha, cha còn mời rượu y nữa. Mọi người cứ bỡn cợt y”.
Phong Tử Siêu cười ha hả, nói: “Thường nhi, bây giờ chắc con biết tại sao cha không cho con uống rồi? Đây là rượu thiên nhật túy! Với công lực của con, dù cho có ngậm thuốc giải trong miệng, uống vào một chén cũng sẽ say tức thì!”
Văn Đạo Trang tiếp lời Phong Tử Siêu: “Nói thiên nhật túy thì hơi quá. Nhưng tiểu tử này đã uống ba chén, ít nhất cũng say đến bảy ngày bảy đêm mới tỉnh dậy, xử trí y như thế nào? Tôi xin nghe theo ý huynh!”
Phong Diệu Thường nói: “Văn thúc thúc, cha, sao mọi người lại chuối say y?”
Phong Tử Siêu bực bội nói: “Người lớn nói chuyện, con không được xen vào!” Văn Đạo Trang nói: “Chuyện này rốt cuộc cũng không thể giấu được điệt nữ, có lẽ điệt nữ phải cùng đi với chúng ta, có nói cũng chẳng hề gì?”
Phong Tử Siêu đáp: “Thôi được, ta sẽ cho con biết. Văn thúc thúc và Giang Hải Thiên có mối thù hai đời rồi, định nhân dịp nhà họ Giang gả con gái định đến đấy gây náo loạn một trận. Tên tiểu tử này đến thật đúng lúc, trên người lại có thiếp mời của nhà họ Giang, có lẽ phải ép y một chút”.
Phong Diệu Thường nói: “Giang Hải Thiên được người ta gọi là đại hiệp, có lẽ là một người tốt! Văn thúc thúc, sao thúc thúc lại có oán thù với y?” câu hỏi này khiến cho Văn Đạo Trang lúng túng.
Chính là: Đáng thương cho thiêu nữ, chẳng hiểu gì tâm cơ.
Muốn biết chuyện tiếp theo như thế nào, mời xem hồi 2 sẽ rõ.