Độ một tháng đã qua kể từ ngày Zanoni ra đi và Kiềm Mâu thâu nhận đệ tử. Sáng ngày hôm đó, Linh Đông một mình một ngựa lên đường ra khỏi thành phố. Y nhắm về hướng những vùng núi non cheo leo hiểm trở, hồi thời đó là sào huyệt của những bọn lục lâm cường đạo, mà ít người du khách nào dám mạo hiểm bước chân đến dẫu rằng giữa lúc ban ngày. Linh Đông thúc ngựa đi mau, và chỉ gò ngựa đi chậm lại khi y đã vào trong làng. Y nhìn thấy ở hai bên đường xuất hiện những người có vẻ mặt hung dữ và ngơ ngác. Linh Đông nhìn dáo dác chung quanh mà cảm thấy trong lòng lo ngại, và câu hỏi mà y định thốt ra lại nghẹn trong cổ họng. Sau cùng, từ trong một gian nhà tranh cũ kỹ, bước ra một người tráng sĩ có cái bề ngoài tươm tất sạch sẽ hơn những người kia. Người nầy có vóc vạc trung bình, gương mặt rắn rỏi bạo dạng nhưng có vẻ thành thật chứ không hung ác. Những nét mặt thẳng ngay và có góc cạnh vuông vắn hỗn hợp với cặp mắt sáng và cái nhìn táo tợn biểu lộ một vẻ thách thức, gần như khiêu khách đối phương, tuy thế nó không gây một cảm giác nghi ngờ hay đố kỵ. Ngoài ra bộ quần áo ngắn của người dân miền núi, nơi sợi dây nịt da có giắt hai khẩu súng ngắn cán bằng bạc và một con dao chuôi ngà có bao da cẩn thận. Tất cả đồ trang phục đó được tăng cường bằng một khẩu súng trường chạm trổ tinh vi mà y đeo lủng lẳng trên vai. Sau khi đã ngắm nhìn người tráng sĩ ấy một lúc, Linh Đông bèn dừng ngựa và hỏi thăm đường đi đến "tòa lâu đài trên núi." Người kia vừa nghe hỏi câu ấy, liền dở nón chào và bước lại gần Linh Đông, đặt tay lên cổ ngựa và hỏi nhỏ: - Ông có phải là người kỵ mã mà chủ tôi đang chờ không? Chủ tôi có dặn tôi đợi ông ở đây để dẫn đường cho ông. Nói xong, người ấy dang ra và nói lớn giọng với những người ở chung quanh đó: - Nầy các anh em! Kể từ nay về sau, anh em phải kính trọng người kỵ mã nầy. Đây là vị quý khách mà chủ chúng ta đang chờ đợi. Chúng ta có bổn phận bảo vệ vị quý khách nầy cũng như bảo vệ chủ chúng ta, về cả mọi mặt: về sinh mạng cũng như về tài sản. Các anh em nghe rõ chưa? - Tuân lệnh, - hằng trăm giọng nói cùng thốt lêm một lượt, và những nhóm người rời rạc ở các chòi tranh bèn lần lượt bước ra đường lộ và tề tựu lại chung quanh người kỵ mã. Người tráng sĩ bèn nói tiếp: - Và để cho các bạn tôi dễ nhận ra ông, tôi trao cho ông cái khăn choàng cổ nầy và khẩu hiệu đi đường: "Dũng mãnh!" Thưa ông, khi họ nhìn thấy cái khăn choàng nầy, những người anh em ở đây sẽ kính cẩn và phục tùng. Khi ông thốt ra lời khẩu hiệu nầy, họ sẽ mau mắn tuân lệnh. Khi ông cần đến bất cứ điều gì, dù là một nơi tạm trú, hoặc một sự thanh toán đẫm máu, hoặc chinh phục một người đẹp,hay giết một kẻ thù, ông chỉ cần thốt ra khẩu hiệu nầy là chúng tôi sẽ tận tâm ra sức đến chết cũng không sờn lòng! Phải chăng, các bạn? Một lần nữa, các giọng rừng rú lại vang lên cùng một lượt: "Tuân lệnh." Đến đây, người tráng sĩ liền nói nhỏ thì thầm: - Bây giờ, thưa ông, nếu ông có tiền lẻ, ông hãy quăng cho chúng nó, rồi chúng ta đi. Linh Đông lấy làm sung sướng với hồi kết thúc như vậy, bèn giốc hết cả túi bạc trên đường lộ cho đám dân làng tranh nhau lượm, trong số đó có cả đàn bà và trẻ nít. Người tráng sĩ nắm lấy dây cương ngựa đi bộ theo Linh Đông, chỉ trong vài phút họ đã ra khỏi làng và đi qua một vùng hẻo lánh hoang vu không có nhà cửa xóm làng chi cả, hai bên đường mòn là núi non trùng điệp nối tiếp nhau như vách. Người ấy buông dây cương ngựa và đi chậm bước, rồi vừa nhìn Linh Đông bằng cặp mắt đen láy chiếu một tia sáng ranh mãnh vừa hỏi: - Chắc hẳn là ông không ngờ đến một cuộc tiếp đón nồng hậu như vừa rồi? - Thật tình, tôi cũng đã có ngờ trước, vì vị tiên sinh mà tôi sẽ đến gặp, có nói cho tôi biết trước về tính cách khác thường của vùng nầy... À, ông bạn có thể cho tôi biết quý danh chứ? - Người trong làng vẫn gọi tôi là Phao Lồ. Xưa kia tôi cũng có một tên khác, nhưng tôi đã quên mất kể từ khi tôi từ bỏ cuộc sống bình thường. - Phải chăng do sự nghèo túng, hay thất bại, hoặc thất tình... mà anh đã rút lui vào chỗ núi rừng? Người tráng sĩ đáp với một nụ cười thích thú:- Thưa ông, những kẻ lục lâm như chúng tôi không thích bộc lộ cuộc đời tư của mình bao giờ. Nhưng dù sao, tôi không còn gì phải dấu diếm khi mà tôi đặt chân lên vùng sơn cước nầy với một cái còi trong túi và khẩu súng trường trên lưng! Kế đó, tên cướp tằng hắng lấy giọng và bắt đầu nói chuyện về cuộc đời y... Sau khi đã kể lại cho Linh Đông nghe nhiều giai đoạn chìm nổi thăng trầm của thời niên thiếu, y nói tiếp: - Trong giai đoạn sau cùng, tôi gia nhập đảng cướp núi. Tôi trở nên khá dần, và tôi luôn luôn hành nghề một cách êm ái, chỉ lắt hồ bao thôi, chứ không cắt cổ nạn nhân, nên tôi được nổi tiếng là nhân đạo và nhờ đó thỉnh thoảng tôi có thể xuống tỉnh thành Naples để ăn macaroni một cách tuyệt đối an toàn. Kể từ khi tôi cư trú tại đây đã hơn hai năm, tôi đã làm chủ vùng nầy và đã tậu được một ít ruộng đất. Người ta gọi tôi là địa chủ, và bây giờ tôi chỉ thỉnh thoảng mới đi ăn hàng một chuyến để tiêu khiển chơi cho vui và cũng để giữ cho được nhuần tay. Đó là tất cả những gì về cuộc đời tôi, để gọi là làm thỏa mãn sự tò mò của ông! À! Chúng ta chỉ còn độ một trăm thước nữa là đến nơi. Linh Đông lấy làm vô cùng thích thú mà nghe câu chuyện của người tráng sĩ. Y bèn hỏi: - Trong trường hợp nào anh đã quen với người chủ lâu đài trên núi? Ông ta làm thế nào để được sự giúp đỡ của anh và các bạn anh? Phao Lồ nhìn người đối thoại bằng cặp mắt đen láy của y và đáp: - Nhưng thưa ông, chắc ông phải biết nhiều hơn tôi về người kỵ mã ngoại quốc có cái danh hiệu dị kỳ ấy chứ! Tôi chỉ biết rằng cách đây hai tuần, tôi đang tình cờ đứng gần một tiệm trên đường Tolède, thì một người quý phái có gương mặt đạo mạo đến gần tôi và nói: - Phao Lồ tiên sinh, tôi muốn làm quen với anh. Xin mời anh vui lòng bước vào quán rượu gần đây để cùng tôi uống chơi một chén! Tôi đáp: - Rất hân hạnh. Chúng tôi bước vào quán rượu, và khi đã an tọa, người khách ấy nói:# - Bá tước Hoa Lư muốn cho tôi thuê cái lâu đài cũ của ông ta. Anh biết chỗ ấy không? Tôi đáp: - Tôi biết lắm! Lâu đài ấy bỏ hoang đã hơn một trăm năm nay, nó đã hư hoại hết một nữa. Đó là một chỗ ở không được tốt lắm, tôi hy vọng rằng tiền thuê cũng vừa phải thôi, phải chăng thưa ông? Người ấy nói: - Phao Lồ tiên sinh, tôi là một triết nhân, nên tôi không bận tâm nhiều đến sự sống xa hoa sang trọng. Tôi cần có một nơi yên tĩnh để làm một vài cuộc thí nghiệm khoa học. Lâu đài ấy thật đúng là nơi tôi đang cần, miễn là anh chịu coi tôi như một người láng giềng, và anh với các bạn anh vui lòng dành cho tôi một sự bảo vệ đặc biệt. Tôi có hằng sản, nhưng tôi sẽ không đem theo vật gì quý báu đáng để cho người ta ăn cắp. Tôi sẽ trả tiền thuê nhà cho bá tước, và một số tiền thù lao cho anh. Chúng tôi thỏa thuận mau chóng về việc đó, và vì người khách lạ ấy bằng lòng trả gấp đôi tiền thù lao mà tôi đề nghị, nên tôi và các đồng nghiệp của tôi sẽ phụng sự ông ta hết lòng. Và bây giờ, thưa ông, vì tôi đã thành thật với ông, tôi mong ông cũng sẽ thành thật với tôi như thế. Người khách lạ ấy là ai vậy? - Người ấy? Ông ta đã nói với anh rồi, một triết nhân! - Chà chà! Như vậy chắc là ông ta luyện đá hóa vàng phải chăng? Một nhà phù thủy? Ông ta sợ các hàng giáo phẩm phải chăng?- Đúng vậy, anh đã đoán đúng đấy. - Tôi cũng ngờ là như thế, và ông là đệ tử của người? - Phải, tôi là học trò của ông ta. Tên tướng cướp vừa làm dấu Thánh giá vừa nói một cách trịnh trọng: - Tôi chúc ông thành công. Tôi không hơn gì một người thường, nhưng mỗi người đều lo một phần linh hồn của mình. Tôi không nói rằng tôi tốt lành với cái nghề lục lâm cường đạo nầy, và thỉnh thoảng khi nào cần thiết, tôi cũng không do dự mà đập đầu thiên hạ như đập đầu cá lóc, nhưng còn... ký giao kèo với ác quỷ!... thì... hãy coi chừng nhé, thưa ông, hãy coi chừng! Linh Đông mỉm cười và đáp: - Ông bạn đừng sợ gì cả, thầy tôi cũng quá sáng suốt và tốt lành để có thể làm một cuộc giao kết thuộc về loại đó. Nhưng có lẽ chúng ta đã đến nơi rồi đây, phải không? À! Tòa nhà thật vĩ đại! Phong cảnh rất đẹp thay! Linh Đông dừng chân trong sự ngạc nhiên, và ngắm nhìn phong cảnh chung quanh bằng cặp mắt của nhà họa sỹ. Trong khi vừa đi đường vừa nghe chuyện của tên tướng cướp, y đã lần đi lên sườn núi đến một chiều cao tột độ lúc nào không biết, và lúc ấy y đang đứng trên một khối đá lớn phủ đầy những rong rêu và những bụi cây um tùm. Giữa ngọn đồi nầy và một ngọn đồi khác cũng cao gần bằng nhau, trên đó có tòa lâu đài của Kiềm Mâu đạo sư, là một khe núi rất hẹp và sâu, cỏ cây sầm uất đến nỗi người ta không thấy được dưới đáy sâu bao nhiêu. Tuy vậy, người ta cũng có thể đoán ra bề sâu đó dễ dàng bằng cách lắng tai nghe tiếng nước chảy róc rách dưới đáy vực thẳm. Từ trên ngọn đồi nhìn ra xa, thấy lác đác những lâu đài, những nóc chuông nhà thờ nhọn lểu như mũi tên dựng đứng, và rải rác quanh các sườn đồi là những xóm làng thưa thớt. Xa tít tận chân trời, là thành phố Naples với những vách tường nhà trắng xóa chói rạng dưới ánh nắng vàng của mặt trời chiều, và chân trời màu hồng lợt hòa lẫn với màu nước biển xanh dờn. Một cái cầu bằng gỗ bắt ngang qua khe suối giữa hai ngọn đồi, cầu cũng khá lớn để cho hai người kỵ mã có thể đi song đôi một lượt. Những tấm ván lót cầu rung chuyển và phát ra những tiếng động ầm ĩ khi Linh Đông thúc ngựa đi qua cầu. Một con đường mòn trước kia có lót đá nhưng bây giờ đã bị chôn lấp hết một nửa dưới những ngọn lau sậy và những loại cây rừng, đưa đến sân ngoài của tòa nhà lầu. Phân nửa tòa lâu đài nầy đã bị sụp đổ, những chỗ điêu tàn ẩn khuất dưới những ngọn dây leo và mây rừng mọc rễ bám chặt vào đó đã từ nhiều thế kỷ. Nhưng khi bước vào sân trong, Linh Đông lấy làm nhẹ nhõm mà thấy rằng tại đó có dấu hiệu của sự săn sóc quét dọn và có người ở: vài đóa hoa hường nở lớn như tươi cười chào đón khách ở một bên vách tường rêu xám, và ở chính giữa sân có một vòi nước phun ra từ cái miệng của một con Nhân Sư khổng lồ bằng sành. Tại đó, y được Kiềm Mâu đón tiếp với một nụ cười: - À! Đệ tử đã đến. Người đi tầm chân lý có thể tìm thấy nơi chốn hoang vu nầy một kho tàng minh triết bất diệt với thời gian. Buổi Sơ Giao Với tư cách một triết gia có một đời sống giản dị ít nhu cầu, Kiềm Mâu đạo sư có thuê vài người gia nhân giúp việc nhà: một người lão bộc người xứ Trung Đông, trước đây đã từng phục dịch Kiềm Mâu khi còn ở tại Naples, một người đàn bà nét mặt rắn rỏi, người ở địa phương, do sự đề nghị của Phao Lồ, vài hai thanh niên tóc dài, nét mặt hung tợn, cũng người ở trong làng, và mới được tuyển chọn. Trong nhiều ngày, Kiềm Mâu vẫn im lặng không chịu thảo luận với Linh Đông về những vấn đề mà y muốn biết. Người nói: - Mọi việc đều sẵn sàng về phương diện ngoại cảnh, nhưng còn về bên trong thì chưa, linh hồn con phải tập quen với chốn nầy và thấm nhuần bầu không khí thiên nhiên ở chung quanh, vì cõi thiên nhiên là gốc của mọi nguồn cảm hứng. Thế rồi Kiềm Mâu xoay câu chuyện qua những vấn đề thông thường, ít quan trọng hơn. Người thường hay dắt Linh Đông đi theo, trong những chuyến đi dạo chơi quanh vùng giữa những khung cảnh thiên nhiên rừng rú, và hé mở trước tâm hồn ngạc nhiên và thán phục của người thanh niên Anh những kho tàn quý báu của một khoa học có vẻ dồi dào phong phú bất tận. Lần lần, người nghệ sỹ trẻ được nâng cao tâm hồn và cảm thấy lòng lắng dịu nhờ hấp thụ những kiến thức của Thầy, và những ước muốn mãnh liệt của y cũng tiêu tan không còn nữa. Tâm hồn y càng ngày càng đắm chìm trong một cơn yên tĩnh thiêng liêng của sự suy tư thâm trầm. Y cảm thấy mình trở nên cao thượng hơn, và trong sự im lặng của các giác quan, y cảm thấy dường như nghe được tiếng nói của nội tâm. Chính Kiềm Mâu đã tìm cách đưa người đệ tử trẻ tới trạng thái yên tĩnh nội tâm, và trong bước nhập môn đầu tiên đó, người đã hành động giống như mọi nhà đạo sư khác thuộc cỡ thấp kém hơn. Đó là bởi vì người mới nhập môn cần phải giữ cho tâm hồn vắng lặng hư không, để cho những khả năng suy gẫm và tưởng tượng có dịp hoạt động, trước khi tập khám phá và lãnh hội được những chân lý trừu tượng siêu hình. Kiềm Mâu có cái phong độ khác hẳn Zanoni trên nhiều điểm, và nếu cái phong độ ấy không thu hút hấp dẫn bằng của Zanoni, thì trái lại nó gây cho Linh Đông một sự khuất phục và một ấn tượng rất sâu xa. Câu chuyện của Zanoni biểu lộ một sự lưu tâm sâu sắc và tổng quát đối với nhân loại, một tình cảm gần như hứng khởi đối với Nghệ Thuật và Mỹ Lệ. Những giai thoại được lưu truyền về cách sinh hoạt của Zanoni càng làm nổi bật sự huyền bí khi nói về những nét từ thiện và lòng quản đại của chàng. Zanoni có một cái gì gần gũi với nhân loại hơn, nó làm dịu bớt sự e dè sợ hãi mà chàng gây ra cho người khác.Trái lại, Kiềm Mâu dường như hoàn toàn thản nhiên đối với thế gian bên ngoài. Nếu ông ta không làm ác, thì dường như người cũng không đặc biệt tìm cách làm điều thiện. Những việc làm của ông ta không làm xoa dịu một kẻ lầm than đau khổ nào, những lời nói của ông ta không an ủi một kẻ vô phước bất hạnh nào. Nơi ông, điều mà ta gọi là tình cảm dường như đã bị che khuất, lu mờ bởi lý trí. Ông ta suy nghĩ, hành động, và sống như một thực thể trừu tượng, yên lặng và đều đặn, chứ không như một nhân vật còn giữ lại những tình cảm và lòng ưu ái, yêu ghét của con người. Ngày nọ, nhân dịp Kiềm Mâu nói về những sự biến chuyển đổi thay lớn lao vĩ đại mà ông ta chứng kiến trên mặt quả địa cầu, với một giọng hoàn toàn thản nhiên không hề có một mảy may xúc động, Linh Đông bèn mạo muội bày tỏ sự ngạc nhiên của mình về điểm đó. Kiềm Mâu đáp một cách lạnh lùng. - Đúng vậy. Đời Thầy là một cuộc đời quan sát, suy nghiệm, còn đời của Zanoni là một cuộc đời thưởng thức. Khi Thầy hái một cành hoa, nhánh cỏ, Thầy chỉ nghĩ đến sự công dụng về dược tánh của nó, còn Zanoni thì ngừng lại để ngắm nghía, chiêm ngưỡng cái đẹp của hoa. - Và Thầy có tin rằng trong hai trường hợp đó thì cuộc đời của Thầy là cao siêu hơn chăng? - Không: cuộc đời của Zanoni là lối sống trẻ, cuộc đời của Thầy là lối sống già. Chúng tôi đã luyện tập những khả năng khác nhau, mỗi người trong chúng tôi đều có những quyền năng khác hẳn của người kia. Những người học hỏi theo Zanoni phát triển lối sống đẹp, còn những người theo Thầy thì mở mang sự minh triết và kiến thức sâu rộng. Linh Đông nói: - Thật vậy, con có nghe rằng những người gần gũi với Zanoni một thời gian ở Naples về sau đã có một đời sống trong sạch và cao quý hơn trước. Nhưng một nhà hiền triết như Zanoni sao lại giao du với những người như vậy? Đó là điều mà con lấy làm lạ. Còn cái quyền năng lợi hại mà ông ta sử dụng tùy ý muốn, như trong cái chết của hoàng thân Vệ Công và bá tước Ô Diên, thật không phù hợp chút nào với trình độ tâm linh của một bậc siêu nhân. Kiềm Mâu nói với một nụ cười lạnh như băng: - Con nói rất đúng, và đó chính là sự sai lầm của những hiền giả mà muốn chen chân vào cuộc đời thế tục. Người ta không thể nào giúp đỡ một hạng người nầy mà không làm tổn hại cho một hạng người khác. Ta không thể nào che chở người tốt lành mà không sát phạt kẻ hung dữ, và nếu muốn sửa trị kẻ tội lỗi, người ta sẽ sống chung với họ để biết họ tội lỗi như thế nào. Paracelse cũng nói như thế: "Người ta cần biết điều ác cũng như điều thiện, vì có ai có thể biết điều thiện mà không biết điều ác?" Nhưng Thầy không dại dột như vậy. Thầy chỉ sống bằng kiến thức và hiểu biết, chứ không sống theo cuộc đời của thế gian! Một lần khác, Linh Đông hỏi Kiềm Mâu về Môn Phái hay tổ chức Huyền Môn mà Zanoni đã có lần nói đến: - Nếu con không lầm thì phải chăng Zanoni và Thầy đều là những môn đồ của phái Hồng Hoa? Kiềm Mâu đáp: - Môn phái Hồng Hoa bắt nguồn từ năm1378 sau khi những vị đạo sư Ả Rập tại Damas truyền dạy cho một người du khách Đức tên là Christian Rosenkreuz những bí quyết về khoa Huyền Môn làm nền tảng cho việc thành lập nên môn phái đó. Nhưng trước đó, cũng đã có những tổ chức Huyền Môn gồm có những người đi tìm Đạo bằng những phương pháp tương tự. Tuy nhiên, Thầy nhìn nhận rằng phái Hồng Hoa là môn phái xuất xứ từ một Tổ chức Huyền Môn lớn nhất và lâu đời nhất. Phái Hồng Hoa còn cao hơn cả phái Luyện Kim về mặt giáo lý và đạo đức tâm linh. - Môn phái ấy hiện nay còn được bao nhiêu người? - Chỉ còn có hai người, là Zanoni và Thầy. - Chỉ còn có hai vị thôi sao? Nhưng môn phái ấy truyền dạy cho tất cả môn đồ cái bí quyết trường sinh bất tử kia mà! - Vị tổ phụ của con đã học được cái bí quyết đó. Nhưng ông ta đã chọn lấy cái chết thay vì sống sót lại một mình sau cái chết của người duy nhất trên đời mà ông ta yêu. Trong môn phái Hồng Hoa, điều mà chúng ta coi như là cao quý nhất, chính là cái pháp môn đào luyện tinh thần, chứ không phải cái bí quyết giữ gìn xác thể không mà thôi. Pháp môn tu luyện tinh thần giúp cho người hành giả có thể thắng đoạt kẻ cường bạo, chế ngự kẻ đối phương, và buông một bức màn ảo ảnh để tàng hình trước mắt mọi người. Vài hạng pháp sư cho rằng bí thuật ấy có thể thực hiện bằng cách xử dụng một đạo linh phù hay một loại đá quý. Nhưng Thầy có thể dùng một thứ cỏ dại ở ngoài đồng nó còn có công hiệu chắc chắn hơn là một đạo bùa hay ngọc quý. Nói tóm lại, có khi những thứ sản vật nhỏ mọn tầm thường nhất trong thiên nhiên lại là những thứ mà người ta có thể khai thác được sự công dụng thần hiệu nhất. Linh Đông nói: - Nhưng nếu Thầy nắm được những bí quyết đó, tại sao Thầy lại không đem phổ biến ra ngoài? Phải chăng sự khác biệt giữa Huyền Môn và Khoa Học, là Khoa Học loan truyền cho thế gian biết những phương pháp thực nghiệm, cùng những sự phát minh và những khám phá của mình, còn giới Huyền Môn tự hào đạt được những kết quả nhiệm mầu, nhưng không chịu giải thích nguyên nhân của những điều họ sở đắc?- Phải, nhưng con hãy suy nghĩ kỹ hơn nữa. Bây giờ ta hãy thí dụ rằng nếu như khoa Huyền Môn được truyền bá rộng rãi trên thế gian, không phân biệt kẻ chánh người tà, kẻ thiện người ác, thì chừng đó phải chăng khoa ấy sẽ trở thành một tai họa cho nhân loại? Nếu như kẻ bạo chúa, lăng loàn, dâm ác, những kẻ hung dữ, sa đọa nắm được những huyền năng thần bí trong tay họ, chừng đó họ có khác gì những loài ác quỷ tự do phóng túng nghênh ngang trên mặt địa cầu? Nếu đồng thời những quyền năng đó cũng được ban cho những người hiền lương, chân chính, thì chừng đó, xã hội loài người sẽ ra sao? Chánh và tà sẽ phải đương đầu nhau trong một trận chiến tranh khốc liệt một mất một còn, những người tốt lành sẽ luôn luôn ở thế thủ còn kẻ hung ác luôn luôn ở thế công. Trong tình trạng tiến hóa hiện thời của nhân loại, điều ác hoạt động mạnh hơn và lấn lướt điều thiện, chừng đó điều ác sẽ thắng và chiếm ưu thế. Chính vì những lý do đó cho nên chúng ta không những chỉ truyền dạy khoa Huyền Môn cho những người thật tốt lành và xứng đáng để cho khỏi bị lạm dụng, mà còn đặt ra những cuộc thử thách khó khăn nguy hiểm để bảo đảm cho được tuyệt đối an toàn. Về việc nầy, cõi thiên nhiên cũng kiểm soát và giúp đỡ chúng ta, vì thiên nhiên đã có đặt sẵn những "người giữ cửa" khủng khiếp rùng rợn và những bức rào chướng ngại kiên cố không thể vượt qua giữa các cõi hữu hình và vô hình, tức giữa cõi phàm trần hạ giới và các cõi siêu nhiên. Đó là đại khái một vài câu chuyện trong những cuộc đối thoại giữa hai thầy trò Kiềm Mâu, những cuộc nói chuyện ấy càng làm kích thích sự tò mò của Linh Đông. Như thế, ngày tháng trôi qua, tâm hồn của Linh Đông lần lần đã quen với lối sống cô đơn trầm lặng, thiền định suy tư, và quên cả những điều phù du giả tạm cùng những mơ ước hão huyền vô vị của thế giới bên ngoài. Thế rồi một đêm nọ Linh Đông đang lúc ngắm nhìn cảnh vật bao la với muôn nghìn ngôi sao lấp lánh trên nền trời, y bỗng có một sự cảm hứng tâm linh đột ngột, y có cảm giác lạ lùng về một cái gì thiêng liêng vĩ đại huy hoàng ẩn dấu trong cái xác thể hữu hình hữu hoại nầy. Điều ấy làm khởi động nơi y những hoài bão to tát, dường như một ký ức mơ màng về một kiếp sống trong lành và thánh thiện trong cái thời dĩ vãng xa xăm. Một động lực bên trong mà y không cưỡng lại được, thúc đẩy y đi tìm vị đạo sư. Y muốn xin Thầy khai mở cho y cánh cửa nhập môn vào cõi Đạo, để cho y bước vào những cõi giới khác lạ ở bên ngoài cõi hạ giới phàm trần. Y cảm thấy sẵn sàng bước vào một cuộc sống thiêng liêng hơn cuộc sống hiện tại. Y bèn trở vào tòa lâu đài và đi qua dãy hành lang tăm tối dưới ánh sao khuya để bước đến phòng của Kiềm Mâu. Trạng Thái Xuất Thần Tư thất của Kiềm Mâu trú ngụ trong tòa lâu đài gồm có hai phòng làm việc thông với nhau và một phòng ngủ. Tư thất ấy vị trí ở trong cái đài cao hình vuông, nhô lên bờ vực thẳm đầy những bụi cây um tùm ở phía dưới. Linh Đông bước vào phòng thứ nhất thì thấy trống trơn. Y lẳng lặng bước tới bằng một bước đi êm như ru và mở cánh cửa đưa vào phòng thứ hai, thì một mùi nồng nặc từ trong phòng nầy xông vào mũi, làm cho y thụt lùi lại. Một thứ sương mù làm cho không khí trở nên dầy đặc hơn lúc thường nhưng vẫn trong suốt, giống như một làn mây tuyết từ từ tiến tới một cách đều đặn từng dợn sóng xuyên qua khoảng không. Linh Đông cảm thấy như tim y ngừng đập vì một cơn lạnh chết người, và máu y đông đặc lại trong huyết quản. Y đứng sững như trời trồng ở trước ngưỡng cửa, và đôi khi mắt y cố nhìn xuyên qua gian phòng, y tưởng tượng như y thấy những bóng ma hình thù ghê rợn, mờ mờ nhân ảnh, lướt qua nhẹ xuyên qua những đợt khói sương mù. Trưới khi Linh Đông có thời giờ để thở cái bầu không khí đó, vì khi đó toàn thân y dường như ngừng sinh hoạt và rơi vào một trạng thái hôn mê khủng khiếp, thì y cảm thấy có người nắm lấy tay y và dắt y bước ra phòng ngoài. Y nghe tiếng cửa đóng lại, máu y luân chuyển trở lại trong huyết quản, và y nhìn thấy Kiềm Mâu đứng một bên. Toàn thân y run bắn lên như bị phong giựt, rồi y ngã quỵ xuống đất, bất tỉnh nhân sự. Khi y tỉnh dậy, y tự thấy mình đang nằm ở chỗ thoáng khí, trên một bao lơn bằng đá gie ra ngoài trời. Sao khuya tỏa ánh sáng mờ nhạt xuống tòa lâu đài yên tĩnh tịch mịch và chiếu lên gương mặt vị đạo sư đứng một bên, hai cánh tay khoanh vòng trước ngực và đang nhìn y chăm chú. Kiềm Mâu nói: - Con hỡi! Với sự gì đã xảy ra vừa rồi, con hãy biết rằng thật là nguy hiểm vô cùng mà muốn tìm sự hiểu biết trước khi được chuẩn bị sẵn sàng. Nếu con chỉ đứng thêm một lúc nữa thôi trong không khí của gian phòng đó, thì bây giờ con chỉ còn là một cái xác chết! Linh Đông nói: - Khoa Huyền Môn lợi hại như thế nào mà Thầy có thể theo đuổi nó một cách an toàn trong cái bầu không khí âm u lạnh lẽo nầy, trong khi đối với con thì lại nguy hiểm đến tánh mạng? Thưa Thầy, con đã sẵn sàng chuẩn bị, ít nhất là để làm một vài bước đầu tiên. Con xin Thầy, cũng như người đệ tử sơ cơ đến tìm vị Đạo Trưởng của thời cổ Ai Cập, hãy cho phép con được nhập môn. Kiềm Mâu đặt bàn tay trên quả tim của Linh Đông, một quả tim đang đập mạnh, đều đặn và đầy sinh khí. Với đôi mắt chiêm ngưỡng người nhìn những nét mặt thản nhiên lạnh lùng của người đệ tử trẻ, và thầm nhủ: - Với một tâm hồn quả cảm như thế nầy, chắc là ta sẽ có một đệ tử chân thành. Rồi người cất tiếng nói với giọng bình thường: - Được rồi! Bước đầu tiên trong thời kỳ nhập môn là trạng thái xuất thần. Mọi sự minh triết của người đời đều khởi đầu từ những lúc mộng mơ. Chính trong những giấc mơ mà người ta phóng một chiếc cầu giao thông đầu tiên, tuy hãy còn rất mỏng manh yếu ớt, nhưng nó sẽ nối liền cõi thế gian với các cõi vô hình. Con hãy nhìn kỹ cái ngôi sao kia! Linh Đông vâng lời, và Kiềm Mâu rút lui vào phòng. Từ trong phòng ấy, từ từ tỏa ra một luồng khí màu nhợt nhạt hơn và mùi cũng ít nồng hơn là đám mây mù lúc nãy đã gây cho y một ảnh hưởng khốc hại. Luồng khí nầy, trái lại, khi nó vừa bao phủ lấy y và tiêu tan trong không khí ban đêm, tỏa ra một mùi hương trong lành và mát rợi. Y vẫn nhìn ngôi sao không chớp mắt, và ngôi sao dường như lần lần chế ngự lấy y và thu hút lấy tầm nhỡn quang của y. Một cảm giác uể oải xâm chiếm lấy toàn thân y nhưng thần trí y vẫn sáng suốt tỉnh táo, và khi cảm giác uể oải ấy mỗi lúc càng thấm sâu vào cơ thể, y cảm thấy hai bên màng tang dường như được thấm nhuần trong một loại nước hoa thơm tho nhẹ nhàng và ấp áp. Trong lúc ấy, cả tứ chi của y đều run rẩy và cảm giác suy nhược càng tăng thêm. Y tiếp tục nhìn ngôi sao, cái vòng ánh sáng của ngôi sao bây giờ hình như nở lớn và nới rộng ra. Ánh sáng ấy lần lần trở nên chói rạng hơn, nới rộng thêm lên và từ từ xâm chiếm lấy cả không gian vô tận. Sau cùng, giữa bầu không khí sáng chói lung linh màu bạc, y cảm thấy một cái gì vừa nứt rạn bên trong khối óc, dường như một sợi dây sắt vừa bị bẻ gãy. Đến lúc đó, một cảm giác giải thoát lâng lâng, nhẹ nhàng, thoát tục, một niềm an lạc vô biên xâm chiếm lấy y và gây cho y cái ấn tượng rằng y đang bay lượn phất phơ trong không gian. Giọng nói thì thầm của Kiềm Mâu lọt vào tai y: - Bây giờ, con muốn nhìn thấy ai trên cõi thế gian nầy? - Kiều Dung và Zanoni!, - Linh Đông đáp lại từ trong tâm hồn, nhưng y cảm thấy rằng đôi môi của y không hề cử động. Thình lình, khi tư tưởng ấy vừa mới phát ra, thì xuyên qua không gian tràn ngập thứ ánh sáng êm dịu và lung linh như vừa kể trên, Linh Đông nhìn thấy diễn ra những hình ảnh nối tiếp nhau như trong một cuốn phim: cây cối, núi non, thành thị, biển cả, thung lũng, đồng bằng... Và sau cùng tầm nhỡn quang của y trụ lại ở một nơi nhất định: y nhìn thấy một động đá ẩn khuất đằng sau những bụi cây cam quýt rậm rạp sầm uất, trên một bãi cát trắng phau chạy dài xuống tận bờ biển. Ngoài miệng hang núi ấy, dưới ánh trăng êm dịu, hiện ra hình hai người, những đợt sóng biển từ ngoài khơi chạy vào liền tan biến nhanh dưới chân họ. Linh Đông cảm thấy dường như y cũng nghe được tiếng sóng gợn rì rào. Zanoni ngồi trên một tảng đá, còn Kiều Dung ngả mình nằm dựa gần bên và nhìn gương mặt chàng cúi xuống kề sát gương mặt của nàng. Những nét mặt của nàng lúc ấy biểu lộ một niềm hạnh phúc hoàn toàn của những tâm hồn đang bơi lội trong biển yêu đương. Kiềm Mâu lại hỏi với một giọng đến với y như một hơi thở: - Con có muốn nghe họ nói chuyện không? Và một lần nữa, Linh Đông lại đáp bằng tư tưởng, mà không thốt ra một âm thanh nào: - Có. Khi đó thì những tiếng nói của hai kẻ si tình vọng đến tai y, nhưng bằng một giọng có vẻ lạ lùng, xa xôi dường như những giọng nói từ cõi khác mà các vị Thánh hay tu sĩ nhập định thường nghe được trong những cơn linh ảnh: Kiều Dung nói: - Làm sao anh có thể thấy thích thú mà nghe chuyện của một người đàn bà dốt? Zanoni đáp: - Bởi vì quả tim không dốt bao giờ, bởi vì những bí quyết của tình cảm cũng có đầy những điều huyền diệu như những bí quyết của trí tuệ. Nếu em không phải lúc nào cũng hiểu được ngôn ngữ của những tư tưởng của anh, thì đôi khi anh cũng nhận thấy có những điều bí hiểm đáng yêu trong ngôn ngữ của những tình cảm của em. Kiều Dung vừa nói vừa quàng tay lên cổ Zanoni: - Ồ! Anh đừng nói thế, vì bí hiểm là cái ngôn ngữ thông thường của tình yêu, hãy để cho tình yêu giải đáp. Trước khi em biết anh, trước khi sống với anh, trước khi tập theo dõi dấu chân anh khi anh vắng nhà, và để thấy anh ở khắp nơi, em không ngờ rằng cõi thiên nhiên và linh hồn người có một sự hấp dẫn tương ứng mãnh liệt và sâu xa là dường nào. Và tuy vậy, bây giờ em mới biết chắc chắn điều mà em vẫn tin từ lúc đầu: là những tình cảm nó thu hút em lại với anh lúc đó không phải là ái tình. Em biết như vậy do bởi sự so sánh hiện tại với quá khứ. Hồi đó, cái tình cảm ấy chỉ là một thứ tình cảm bị chi phối bởi lý trí! Bây giờ, em không thể nào chịu nổi khi anh nói với em rằng em hãy sung sướng mà sống chung với một kẻ khác. - Anh cũng vậy. Bây giờ anh cũng không thể nào thốt ra được câu nói đó nữa với em. Kiều Dung! Em hãy đừng bao giờ quên nói với anh là em được sung sướng. - Tại sao em không sung sướng, vì chính anh cũng sung sướng kia mà. Tuy vậy, hỡi Zanoni đôi khi anh lại có vẻ buồn. - Đó là bởi vì đời người thật ngắn ngủi, và bởi vì rốt cuộc chúng ta phải xa nhau, bởi vì con trăng kia sẽ tiếp tục chiếu sáng khi con chim hoàng anh đã ngừng hót trên cành. Chỉ không còn bao lâu nữa, đôi mắt em sẽ mờ, sắc đẹp của anh sẽ phai lợt, và những lọn tóc vàng óng nuột nầy sẽ bạc màu và không còn sinh sắc nữa. Kiều Dung nói: - Còn anh! Em sẽ không bao giờ nhìn thấy nơi anh những dấu hiệu của sự già nua! Nhưng phải chăng cả hai ta sẽ quen nhìn thấy một sự thay đổi về phần thể xác, nhưng nó sẽ không ảnh hưởng gì đến tình yêu? Zanoni thở dài. Chàng day mặt qua một bên và có vẻ như hướng cả tâm tư vào bên trong. Linh Đông càng chăm chú nghe. Zanoni vừa nhìn Kiều Dung vừa nói với nụ cười mỉm: - Em không tò mò muốn biết thêm về người yêu mà trước kia đã có lần em coi như một nhà phù thủy tà đạo hay sao? - Không! Tất cả những gì mà người ta muốn biết về người mình yêu, thì em đã biết rồi: anh yêu em! - Anh đã nói với em rằng cuộc đời của anh khác hẳn với mọi người. Em có muốn thử chia sẻ cuộc sống đặc biệt ấy chăng? - Thì hiện nay em đang chia sẽ cuộc sống với anh đây. - Nhưng em chỉ được như vậy, nếu em có thể trẻ đẹp mãi mãi, cho đến ngày tận thế! - Chúng ta sẽ được như vậy khi chúng ta từ giã cõi đời nầy. Zanoni im lặng trong giây lát, và nói: - Em có nhớ chăng những giấc mơ thần diệu đã đến với em khi xưa, khi em tin rằng em sẽ có một định mệnh khác hẳn người thường? - Zanoni anh hỡi! Em đã tìm thấy định mệnh của em! - Em có cảm thấy lo sợ gì về tương lai chăng? - Tương lai! Em đã quên mất nó từ lâu và cũng không cần biết! Dĩ vãng, hiện tại và tương lai, tất cả đối với em đều hiện rõ trên nụ cười của anh. Zanoni! Anh đừng nghĩ gì về sự tin tưởng dại dột của em khi xưa. Em đã trở nên tốt lành hơn và khiêm tốn hơn kể từ ngày mà sự hiện diện của anh đã quét sạch đám mây mù u ám bao phủ chung quanh em. Tương lai! Nếu có lúc chúng ta lo ngại vì nó, thì em sẽ ngẩng mặt lên trời và nghĩ đến đấng Tạo Hóa đã hướng dẫn dìu dắt định mệnh của chúng ta. Khi đó, nàng ngước mắt nhìn lên. Linh Đông chợt thấy một đám mây xám thình lình che khuất bãi cát trắng trên bờ biển. Đôi mắt say mê thích thú của y còn nhìn thấy Kiều Dung và Zanoni: gương mặt Kiều Dung tràn đầy một niềm an lạc, hạnh phúc tuyệt vời, còn gương mặt của anh Zanoni thì có vẻ suy tư, với những nét mặt nghiêm nghị hơn lúc bình thường, trong một vẻ đẹp u buồn và trầm lặng. Kiềm Mâu nói: - Con hãy tỉnh dậy, cơn thử thách đã bắt đầu đối với con. Bây giờ con hãy trở về phòng nằm nghỉ. Hãy nhịn đói trọn ngày hôm nay. Đừng đọc sách, mà hãy tham thiền quán tưởng. Rồi con hãy trở lại gặp Thầy vào lúc nửa đêm! Lễ Nhập Môn Lúc ấy đã gần nửa đêm, khi Linh Đông trở lại tư thất của tôn sư. Y đã nhịn đói suốt ngày như lời Thầy dặn, và trong cơn thiền định công phu y không những đã trở nên bất động thản nhiên đối với những nhu cầu của thể xác, mà còn vượt lên cao hơn mọi điều ham muốn, dục vọng. Kiềm Mâu ngồi bên cạnh người đệ tử và nói: - Trong Cơ Tiến Hóa vĩ đại của Hóa Công, không phải chỉ có cõi phàm trần hạ giới nầy, là nơi duy nhất có sự sống mà thôi. Sự sống là cái nguyên lý đại đồng nó thấm nhuần tất cả, dầu ở trên mặt quả địa cầu, hay ở trên những bầu thế giới khác. Sự sống cũng hiện diện khắp nơi trong không gian, và trong những cõi giới thanh nhẹ hơn cõi trần, mà ta gọi là những cõi Vô Hình. Khoa học vẫn chưa phát minh ra được những loại cơ khí có thể khám phá ra những sinh vật thuộc các loại khinh thanh hơn, vẫn hằng có luôn luôn và bay lượn phất phơ trong không gian vô tận. Tuy vậy, giữa những sinh vật đó và loài người vẫn có một sự tương ứng, giao cảm bí mật và thường xuyên. Chính bởi đó mà trong những chuyện huyền thoại của các dân tộc mới có nói đến việc ma quái hiện hình cùng sự tin tưởng nơi quỷ thần.Nếu những sự hiện hình đó vẫn thường hay xảy ra trong những chủng tộc cổ xưa hãy còn sơ khai, chất phác, hơn là trong thế hệ vật chất trọng trược hiện nay, đó là bởi vì thuở xưa kia loài người có những giác quan tinh tế và nhạy cảm hơn ngày nay. Người dân mọi ở những vùng rừng rậm bên Phi Châu hay Mỹ Châu, có thể đánh hơi mà biết có dấu vết kẻ thù ở cách xa hằng nhiều cây số, điều nầy, giống người văn minh, với những giác quan ô trọc không thể biết được. Cũng y như thế, bức rào chướng ngại nó ngăn cách nhân loại với quỷ thần không phải là quá kiên cố và không thể vượt qua đối với những dân tộc dã man và bán khai, như là đối với người văn minh chúng ta. Con có nghe rõ chăng? - Con nghe với hết cả tâm hồn! - Nhưng trước hết, muốn vượt qua bức rào ngăn cách đó, người hành giả phải có một tâm hồn vững chãi như sắt thép, được trui rèn bởi một sự hứng khởi nồng nhiệt và được tinh luyện cho không bợn nhiễm mọi dục vọng phàm trần. Cũng vì lẽ đó mà các đạo sư của mọi thời đại và ở bất cứ nơi nào cũng đều chủ trương sự tuyệt dục và thiền định công phu như là những điều kiện tất yếu để bước vào cửa Đạo. Khi linh hồn đã được chuẩn bị như thế, nó mới sẵn sàng thụ cảm đối với những anh hưởng từ cõi trên. Giác quan linh thị có thể làm cho được bén nhạy, thần kinh hệ sẽ nhạy cảm hơn, tinh thần sẽ được sáng suốt mẫn nhuệ hơn, thậm chí đến bầu không khí và cõi không gian chung quanh ta cũng có thể được làm cho trở nên linh động hơn. Người hành giả sở đắc khoa Pháp Môn có thể kiểm soát được cõi thiên nhiên, và giao cảm được với cõi giới vô hình. Trong cõi vô hình, có hằng triệu sinh linh mà mắt phàm không nhìn thấy rõ, nhưng chúng không hẳn là đã có sự tiến hóa tâm linh. Chúng cũng có hình thể vật chất, nhưng đó là những thể cấu tạo bằng chất thanh khí, mỏng manh, nhẹ nhàng và tinh tế hơn xác phàm của con người. Khoa Huyền Môn có nói đến một loại trong những sinh vật đó, và gọi chúng là những Tinh Linh ngũ hành, gồm có Sơn Tinh, Mộc Tinh, Thủy Tinh, Hỏa Tinh, Thổ Tinh... Nhưng ngoài ra còn có vô số những loại vong linh khác nữa, khác biệt nhau đến thiên hình vạn trạng. Có những loại tiến hóa rất cao và khôn ngoan minh triết hơn loài người, cũng có những loại rất hung ác, có loại trình độ tiến hóa không hơn loài cầm thú. Những loài gọi là ác quỷ, thì thù nghịch với loài người. Những loại khác nữa, gọi là thần linh, lại hay giúp đỡ hộ trì loài người, và làm những vị trung gian, môi giớ giữa cõi trần gian hạ giới với các cõi trên. Người muốn tiếp xúc với những loại vong linh đó chẳng khác nào như người du khách muốn đột nhập vào những nơi xa lạ. Y có thể gặp phải những nguy hiểm bất ngờ, những điều rùng rợn khủng khiếp mà y không thể nào biết trước. Khi con đã tiếp xúc được với cõi vô hình, Thầy không thể che chở con trước những hiểm nguy của cuộc phiêu lưu đó. Thầy sẽ không thể hướng dẫn con theo những đường lối an toàn để tránh khỏi những sự đột kích bất ngờ của những kẻ thù nguy hiểm nhất! Con phải đương đầu một mình với mọi hiểm nguy và chịu mọi hậu quả xảy đến. Nhưng muốn con yêu thích sự sống, và chỉ muốn được trường sinh bất tử bằng cách uống bầu Kim Đơn linh dược, có lẽ con tự hỏi rằng trong trường hợp đó, tại sao con lại dại dột mà chuốc lấy sự hiểm nguy trong việc tiếp xúc với những vong linh trong cõi vô hình làm gì? Đó là vì con không thể làm khác hơn, bởi vì Kim Đơn thần dược chuyền vào cơ thể một nguồn sinh lực dồi dào gấp bội, khai mở năng khiếu thần thông làm cho giác quan con trở nên bén nhậy vô cùng đến nỗi con sẽ nhìn thấy và nghe được cả những sinh vật vi khuẩn trong không khí. Bởi đó cho nên, trừ phi người ta đã được chuẩn bị lần lần để đối phó với những vong linh bất hảo và khắc phục được những loài yêu mị, ma quái, thì khả năng thần thông đó sẽ là cái tai họa khủng khiếp nhất mà người ta có thể tự chuốc lấy vào mình. Vì thế, chỉ có những người nào đã vượt qua những cuộc thử thách khốc liệt nhất, và đã trải qua một thời kỳ tinh luyện ráo riết gắt gao như đã kể trên, mới có thể sử dụng bầu Kim Đơn an toàn. Và dẫu cho với tất cả những điều kiện đó, cũng có những người bị khủng khiếp kinh sợ đến cực điểm vì phải đương đầu với những loài ma quái thình lình xuất hiện ngay trước mắt họ khi họ vừa vượt qua vùng cấm địa lần đầu tiên. Khi đó họ mới nhận thấy rằng Kim Đơn linh dược không có đủ mãnh lực để cứu nguy cho họ, còn những sức mạnh thiên nhiên lại rất vô cùng lợi hại và có thể tiêu diệt họ bất cứ lúc nào. Bởi đó đối với kẻ nào chưa chuẩn bị sẵn sàng, thì thuốc Kim Đơn chỉ là loại thuốc độc nguy hiểm nhất. Trong những loại vong linh đứng trấn giữ cửa ngõ đưa vào cõi vô hình, có một loại mệnh danh là "Người giữ cửa," loại nầy hung ác và lợi hại hơn tất cả các loại khác. Cái nhìn khốc hại từ trong cặp mắt ám ảnh của nó đã từng làm cho những kẻ gan dạ nhất phải sợ hãi rụng rời. Uy lực áp đảo của nó đối với linh hồn kẻ sơ cơ càng tăng gia tùy theo mức độ sợ hãi rùng rợn mà nó gây ra cho y càng nhiều. Con đã cảm thấy sợ chưa? - Vậy con hãy đi theo ta, và hãy chịu đựng những nghi thức chuẩn bị cho con được Nhập Môn. Kế đó, Kiềm Mâu đưa Linh Đông vào nơi phòng trong, và bắt đầu giải thích cho y nghe vài cuộc chế biến hóa học. Tuy đó là những việc làm rất đơn giản, nhưng Linh Đông nhận thấy chúng có thể đưa đến những kết quả lạ lùng. Kiềm Mâu nói: - Cõi thiên nhiên là một cái phòng thí nghiệm khổng lồ, nơi đó các loại kim khí và khoáng chất luôn luôn có sự biến đổi thường xuyên. Với sự hiểu biết tường tận về cội rễ của vật chất và bí quyết tạo nên những tác động phản ứng hóa học, người ta có thể biến chì thành vàng như môn phái Luyện Kim đã từng làm. Tuy vậy, luyện đồng thành vàng cũng còn tương đối dễ dàng hơn và ít tốn kém hơn là làm ra kim cương và ngọc quý. Những kẻ ngu dốt, nông cạn bảo rằng những việc ấy là pháp môn tà đạo và tìm cách đàn áp khủng bố thẳng tay. Nhưng họ lại không cho là tà đạo việc phát minh ra thuốc súng, mà chỉ với một vài sự chế biến thông thường, người ta có thể bắn ra một phát hỏa pháo và giết chết hằng nghìn người! Hãy khám phá ra những loại vũ khí giết người, rồi bạn sẽ được suy tôn như một bậc vĩ nhân, hãy tìm ra một thứ linh dược để kéo dài sự sống, rồi bạn sẽ bị coi là một kẻ bịp bợm, đùa giỡn với ma quỷ! Hãy phát minh ra một loại cơ khí nó làm cho những kẻ giàu trở nên giàu thêm, và kẻ nghèo càng nghèo mạt, rồi người đời sẽ dựng lên cho bạn một pho tượng đồng. Hãy tìm ra một phương pháp để san bằng mọi chênh lệch và đem lại sự bình đẳng, là tức khắc bạn sẽ bị người đời mỉa mai và ném đá! Đời là thế, hỡi đệ tử! Đó là cuộc đời thế gian mà Zanoni hãy còn luyến tiếc. Ta hãy bỏ cuộc đời đó lại cho y. Và bây giờ, sau khi con đã nhìn thấy một vài tác dụng của khoa học huyền bí, con hãy bắt đầu học những bài học vỡ lòng! Kế đó, Kiềm Mâu giao cho Linh Đông một vài công việc để làm trong những giờ còn lại của đêm đó.