Mười một giờ rưỡi, trời Sài Gòn tháng tư như đem người ta nhúng vào chén dầu rồi bỏ lên chảo rán đến cháy dòn. Tôi chọn gốc mận to nhất, tán lá rộng nhất để dựng “con ngựa sắt”. Phương chống xe kế bên. Như từ yên sau nhảy phóc một cái xuống đất, kéo cái nón kết đỏ chói trên đầu xuống quơ lấy quơ để “cái xứ sở gì bụi bặm nắng nôi…” – Nó cằn nhằn bâng quơ.
Chưa đến mười hai giờ mà đã hết chỗ ngồi, ba đứa tôi phải chịu khó đi lên mấy bậc tam cấp ngồi ở bàn cao nhất của quán. Nói “quán” cho sang, thật ra chỗ bán bún bò chỉ có một cái xe nước lèo, còn khoảng chục bộ bàn ghế nhôm thì để rải rác dọc bờ tường con hẻm, nhờ bóng mát của mấy cây mận để khách ngồi tránh nắng. Mấy hôm đông khách, bà chủ nhà đối diện cho nhờ cái hàng hiên để kê đỡ thêm một bộ bàn ghế nữa. Có điều thềm nhà này xây cao, phải đi lên bậc tam cấp, thành ra cái bàn dự bị này trở thành điểm trung tâm của “quán”. Như ghét ngồi chỗ này lắm, nó nói giống như ngồi trên sân khấu ăn uống sì sụp, người ta ai cũng nhìn lên, mắc cỡ muốn chết. Cái chỗ dã chiến vậy mà làm ăn khá thật. Hơn mười giờ dọn hàng ra thì chưa đến một giờ trưa đã hết sạch. Bún bò Huế ở Sài Gòn cũng lắm tiệm sang trọng, nổi tiếng, nhưng cái khoản thịt bò vừa mềm, vừa mặn mà như ở đây thì chưa tiệm nào sánh được. Có lần mấy đứa tôi đến trễ, vừa bán hết, Phương ức lắm, nó hỏi bà chủ sao không đầu tư mở tiệm rộng thêm, có quán xá đàng hoàng đông khách để tăng thu nhập, bà cười hề hề “tui già rồi cậu ơi, tụi nhỏ có gia đình ra riêng hết rồi, có đứa cháu phụ giúp tí buổi trưa, chiều còn phải đi học. Thôi thì kiếm chút đỉnh đủ sống là mừng rồi, sức khỏe không còn bao nhiêu, đầu tư đầu tám gì, tiền bạc có mấy đâu”. Phương nói chơi “hay là con hùn vốn với bác nghe, con cho bác vay, lãi suất thấp thôi” – Bà chủ nhỏ nhẻ “cậu nói cho vui, tui tiền bạc chi mà hùn” – Phương nhìn tôi nháy mắt “Có sao đâu bác, bác còn con gái hay cháu gái nào nấu bún bò Huế ngon như bác vậy gả cho con trừ nợ”. Như đưa mắt lườm một cái rõ sắc “Phương nhớ đó, ăn bún thay cơm luôn đi nghe” – Thằng nhỏ “nịnh đầm”, nhìn tôi cười cầu cứu “nói chơi chứ bún bò làm sao mà ngon hơn canh chua cá lóc của Như được, chị Thùy há”. Bà chủ quán lắc đầu “thôi mấy cô cậu ngồi vô bàn đi, cũng ba tô nạc gân như mọi ngày với ba ly trà đá hỉ?”
Mấy tô bún vừa bưng ra, Phương nhìn tôi rồi đưa mắt nhìn sang dãy bàn bên cạnh. Lọt thỏm giữa dãy bàn nhôm lênh khênh, một đứa nhỏ khoảng chín, mười tuổi bế trên tay một em bé còi cọc độ non một tuổi, tay cầm cái ca nhựa màu trắng sờn cũ đã ngả vàng ố. Nó lê cái thân gầy nhom cộng thêm một sinh mạng còi cọc đi qua từng thực khách, chìa cái ca nhựa thay lời van vỉ dường như đã đặc lại vì khô hơi khản giọng. Rất ít người để tâm đến cái cảnh quá đỗi quen thuộc này. Hóa ra, một bi kịch nếu lặp đi lặp lại nhiều lần thì nó cũng chẳng hơn gì một tấn trò tẻ nhạt. Con bé đi đến bàn chúng tôi đang ngồi, đến đây thì dường như nó đã quá mỏi mệt, ngồi phệt luôn xuống bậc thềm. “Chắc nó đói lắm”, Phương nói. “Hay kêu cho nó một tô bún”, tôi hỏi Như. Như lắc đầu quầy quậy “Chị đừng để bị tụi ranh con này lừa đó nha, tụi nó có má mì quản lý đó, hàng ngày phải nộp tiền cho bả, bả cho ăn cho uống, phân công đứa nào đi xin ở khu vực nào … Là có tổ chức hết, không phải tự tụi nó ăn xin đâu” “Thì mình không cho tiền, cho nó ăn chút đỡ đói thôi mà” “Cho nó ăn vài ngàn không phải mình tiếc, nhưng tụi nó ghê gớm lắm, ăn đã đời rồi về nhà thế nào cũng kể rằng đã lừa được mấy tên ngu ngốc nhẹ dạ… Thôi, em thà mang tiếng xấu còn hơn bị cười vào mũi”. Con bé bắt đầu ngủ gật, đứa nhỏ trên tay nó thì đã thiếp từ lâu. Nó dựa sát vào cột xi măng cạnh bậc tam cấp, một tay vẫn ôm chặt đứa nhỏ, tay kia móc vào tay cầm của cái ca nhựa. Đôi chân đen đúa lấm lem của nó buông thỏng lơ lửng, chiếc dép màu gỗ mòn đến sát đất rơi xuống tự lúc nào. Thỉnh thoảng ngủ mê, tay nó lơi lỏng, đầu của đứa nhỏ va vào cột xi măng, nó giật mình ré lên một thứ âm thanh khào đục lấy lệ rồi lại thiếp đi. Con bé vẫn mãi ngủ, nhưng cánh tay siết chặt hơn một cách vô thức. Cứ như vậy, một đứa bé và một đứa bé hơn, cả hai đều bẩn thỉu, kiệt quệ, vừa ngủ gật vừa cựa quậy hoặc phát ra âm thanh trong vô thức… Như kêu thêm một chén gân bò, hơn hai mươi, vẫn còn tuổi háu ăn! Nó ăn ngon lành vừa cằn nhằn cái nóng của trời tháng tư… Không biết bà chủ hôm nay có phải ướp thịt hơi vội hay không, miếng thịt không mặn mà như mọi khi mà lại nhạt thếch trong miệng làm tôi buồn nôn.
… Năm giờ ba mươi, thứ sáu, ngẩng đầu nhìn lên công ty chỉ còn có hai đứa tôi. Như rút cái gương bé tẹo trong túi ra xăm soi mái tóc tém nghịch ngợm và trẻ trung, vuốt vuốt một sợi thừa thãi cố tình buông lững lờ bên má. “Điệu quá, có hẹn hả?” Tôi trêu nó “à há”, nó ậm ừ, “weekend mà chị”. “Không phải tối nay Phương nó dạy kèm à?” “Em đâu có hẹn với Phương” “hả?”. Như ném cái gương vào túi, nửa đứng nửa ngồi tựa vào cạnh bàn “em hẹn với Chaiwat” “Thằng cha Thái Lan đen thui?” “Dạ phải, anh chàng cũng dễ thương lắm, lúc này học bập bẹ được tí tiếng Việt. Hôm qua đi ăn phở, hắn ta nói với bà chủ quán là “em ơi tính tiền”, haha… Bà chủ quán hơn sáu chục tuổi rồi. Em bảo rằng phải nói “bác ơi”, nói tới nói lui một lúc lại nhầm, lát sau hắn nhìn em một hồi rồi nói “hôm nay bác đẹp lắm”, thật là nhịn cười không nổi”… Tụi tôi đi bộ một quãng đến bãi xe. Trời đã nhá nhem, loáng thoáng nhập nhoạng giữa ánh đèn đường xanh đỏ và chút ánh sáng còn phơn phớt trên bầu trời xám đen đang chuyển dần sang màu thẫm hơn, những bóng xe loang loáng lướt qua, vội vã chuẩn bị một buổi tối cuối tuần. “Vậy còn Phương thì sao?”, tôi hỏi Như “Thì Phương làm việc của Phương, tụi em chỉ là bạn bè thôi mà, em không có ràng buộc mà cũng chẳng có hứa hẹn gì” “Em thích Chaiwat hơn?” “Cũng không hẳn, đi với ai em cũng thấy vui, mỗi người vui một cách… Em thật sự không nghĩ đến chuyện xa xôi đâu chị”. Tôi thở dài, tự nhiên thấy cái đuôi tóc của nó ngắn quá “Vậy là chưa yêu” “Phải rồi, em chưa,… và mong là sẽ chẳng bao giờ”… “Bye chị nha”, Như rồ ga, chiếc wave đỏ chói chang nổ êm ái, tích tắc đã lẫn vào dòng người vội vã, để lại một lớp khói trắng nhờ nhờ hăng hắc mùi xăng.
Tháng sáu, Như nhận được visa du học ở Sydney. Sân bay mờ sớm lất phất mưa. Khung cảnh tiễn đưa bao giờ cũng vậy, lưu luyến, bịn rịn và đầy nước mắt. Tháng trước tôi cũng ra sân bay, nhưng không đến cổng này để đưa tiễn mà đến cổng đợi đón anh chị tôi từ Mỹ về thăm nhà. Hai cổng cách nhau độ mươi mét, một bên là nụ cười và một bên là nước mắt. Anh chị tôi về chuyến bay mười hai giờ khuya, đường từ nhà đến sân bay vắng ngắt, thành phố đã đi ngủ, nhưng cùng lúc đó ở nơi đây - một góc nhỏ của sân bay – đang lao xao một cuộc sống khác, không có giấc ngủ, chỉ có hội ngộ và chia ly. Mấy phút còn lại trước khi vào phòng cân hành lý, Như ôm ba mẹ nó khóc như mưa. Tôi và Phương đứng một góc nhìn nó, thấy thương. Rồi nó chạy lại nắm chặt tay hai đứa tôi, đôi mắt đầy nước sưng đỏ. Phương đẩy giúp cho nó cái vali to nhất đến tận cổng vào khu cân hành lý rồi chuyển xe đẩy hành lý sang cho Như. Như nhỏ bé quá, tôi chỉ kịp thấy cái đuôi tóc tém của nó thấp thoáng vài giây rồi mất hút… Chúng tôi ra bãi lấy xe, chẳng ai nói với ai tiếng nào. Trên đường về, trời vẫn còn lất phất mưa. Tôi nhớ có người bảo rằng phụ nữ khóc nhiều thường chóng quên và dễ phản bội… “Giờ này chắc Như vẫn chưa lên máy bay” – Phương nói trước khi rẽ sang ngã khác để đến công ty.
Hai ngày sau, tôi đã nhận được email đầu tiên của Như “… Tháng này ở đây vẫn là mùa Đông. Lạnh và buồn lắm. Thức ăn ở đây khó ăn quá, chắc vài hôm nữa em phải tập nấu ăn. Buổi tối em chẳng ngủ được, phần vì chênh lệch múi giờ, phần vì nhớ nhà. Em nhớ công ty, nhớ tiếng fax chạy e e đến nhức cả đầu. Em nhớ chị và Phương nhiều lắm.” Như cũng siêng viết, cứ một hai ngày nó email một lần. Hơn hai tuần sau, chắc bận rộn, nó email thưa hơn. Ba tháng sau, trong một email gửi cho tôi, nó viết “… Em vẫn nhớ Sài Gòn lắm nhưng cũng đã quen dần với cuộc sống ở đây. Em ở chung phòng trọ với hai đứa bạn Việt Nam. Một đứa cũng là dân Sài Gòn và một đứa quê ở Cần Thơ. Tụi nó cũng dễ thương lắm chị. Hôm nay thèm bún bò, em nấu thử nhưng dở quá, không làm sao bằng quán cây mận mình vẫn thường ăn. Phương còn đòi làm cháu rể bà chủ quán nữa không chị?…” Rồi sau đó cả tháng nó mới viết một lần… Một năm sau, nó email cho tôi “… Em đã quen cuộc sống ở đây rồi chị à. Nhớ nhà thì vẫn nhớ nhưng không còn buồn quay quắt và một hai đòi về như trước nữa. Năm nay chưa thu xếp được, có thể Noel năm sau em sẽ về thăm mọi người. À, em cho chị biết một tin vui. Em có một anh bạn người Uùc dễ thương lắm, tên anh ấy là Peter. Nhưng tụi em chưa tính gì đâu, chị đừng suy diễn đó nha. Có lẽ năm sau Peter sẽ về thăm nhà cùng em. Mình dắt anh ấy đi ăn bún bò cây mận nha chị…”
Chiều thứ bảy, Phương rủ tôi ăn bún bò. “Lát nữa em ghé tiệm áo len” “ bây giờ mới tháng sáu mà mua áo len làm chi” “Em định gửi cho Như, nhớ giờ này năm trước Như mới qua đó email về nói rằng bên đó lạnh lắm”… Một con nhỏ cầm ca nhựa, tay xốc một đứa bé độ vài tháng tuổi… Tôi nhớ đứa nhỏ lần trước ngủ gật trên bậc thềm, lâu nay không thấy nó, không hiểu sống chết ra sao. Phương vẫy con nhỏ lại, kéo ghế cho nó ngồi và kêu cho nó một tô bún không cay. Con nhỏ hì hục ăn, mặc cho ruồi bâu vào đứa bé trên tay nó. Con nhỏ mới tí tuổi, chắc nó về sẽ không cười nhạo hai đứa tôi đã dại dột cho nó chút lòng trắc ẩn như lời Như nói.
… Buổi tối vừa bước chân ra khỏi phòng trà đã thấy ngập hơi nóng hầm hập oi bức của tiết trời chuyển mưa. “Có cần đưa về không?” Lâm hỏi “Không cần đâu, cảm ơn nhiều.” “Không sợ bị bắt cóc hả?” “Không ai thèm bắt cóc bà già như em đâu” – Tôi đùa. Tôi kêu taxi, ông tài xế lớn tuổi vừa đưa tay che miệng ngáp vừa hỏi “Về đâu cháu” – Tôi nói địa chỉ nhà rồi kéo cửa sập lại. Cái mùi hăng hăng trên xe thật khó chịu. Tiếng xe rù rù nghe buồn quá… Tôi nhớ bài hát vừa nghe ở phòng trà “Làm người ở lại có bao giờ vui. Khi tình nhân không còn đứng chung đôi. Làm người ở lại bao giờ cũng buồn. Khi nụ quỳnh hương không còn ngát hương…” Không biết giờ này Như đang làm gì, nói chuyện tào lao với mấy đứa bạn cùng phòng? Làm bài tập? Cũng có thể nó đang đi chơi với cậu Peter nào đó. Hay là ngày mai tôi nói với Phương, bảo nó đừng mua áo len nữa…
04/2002

Xem Tiếp: ----