(Thay thế truyện Viên Ngọc đã in thiếu một phần trong tuyển tập Tình Mua Cuối Chợ)Tiệm mở cửa bắt đầu chín giờ nhưng Phước phải có mặt từ sáng sớm để làm vệ sinh, quét dọn nhà hàng, lót bàn, đặt muỗng đũa, châm đầy các chai tiêu muối, nước mắm, xì dầu... ... tiếp đến, phải vào trong phụ các việc lặt vặt theo lệnh của những người có trách nhiệm nấu ăn. Lúc nào đông khách, Phước được rời bếp ra làm bồi bàn phục vụ ở ngoài. Đây là những điều căn bản của hợp đồng miệng, thỏa thuận giữa chủ và Phước trước khi bắt tay vào việc. Nhà hàng có đến bốn nhân viên phục vụ thực khách nhưng ba người là bà con giòng họ với chủ, đến trễ về sớm và không bao giờ nhúng tay vào công việc vệ sinh hay phụ bếp, tất cả đều xô qua đẩy lại cuối cùng rơi vào tay Phước. Phước chấp nhận thua thiệt nhưng phải bám víu lấy công việc, dù cực khổ nhưng để gánh một phần khó khăn cho gia đình vừa mới đặt chân đến Mỹ. Hôm đến xin việc, Phước không giấu hoàn cảnh hiện tại của mình và cho biết anh là một trong bốn người con đã lớn tuổi, độc thân, tốt nghiệp đại học Sàigòn, theo gia đình qua Mỹ theo chương trình HO. Tất cả bốn anh chị em đều không muốn tiếp tục đi học mà chấp nhận làm bất cứ gì để giúp đỡ gia đình. Ông bà chủ thương tình chấp nhận ngay nhưng vào đây rồi, cái nhãn HO bị đám nhân viên người cũ và nhất là con cháu của chủ xem thường bắt nạt, kiếm cớ đẩy những công việc nặng lên vai Phước. Nhiều lúc bất bình muốn thôi ngang nhưng nghĩ đến cha mẹ Phước vẫn nhắm mắt bám lấy. Những lúc nản chí, Phước cũng dọ hỏi tìm một vài nơi khác, hy vọng sẽ được đối xử thoải mái hơn nhưng khi tiếp xúc, nghe gốc người HO mới qua tất cả đều e ngại từ chối khéo. Thực ra gia đình ông Bảo không gặp khó khăn trong vấn đề tài chánh, với số tiền trợ cấp lúc đầu cho những người trong gia đình tính ra cũng đã khá. Trong lúc đó tất cả đều ở chung một nhà, tổ chức ăn uống cần kiệm theo lối Việt Nam và bốn người con đều đi làm thì có thể nói, số tiền tiết kiệm hàng tháng tính ra còn cao hơn những gia đình định cư đã lâu. Đối với những người cũ, cuộc sống đua đòi và nhất là phải thanh toán hụi chết hàng tháng về khoản nợ nhà, nợ xe, có bao nhiêu tháng nào chi trọn tháng đó không dư được một đồng. Nhưng ông Bảo có vẻ buồn khi vừa đặt chân đến đất Mỹ. Ông nguyên là một cựu sĩ quan cấp tá với hàng trăm nhân viên làm việc dưới quyền. Ông hy vọng qua Mỹ là cơ hội thoát khỏi chế độ kềm kẹp của cọng sản đồng thời sẽ tìm lại được những ân tình thầy trò, bạn bè ngày trước. Nhưng thực tế không đem lại trọn vẹn những điều mơ ước. Thật vậy ở Việt Nam ông Bảo đã chán ngấy việc tiếp xúc, đụng độ với cán bộ cọng sản ngay từ trong các trại tù cho đến phường khóm trước ngày bước chân lên máy bay. Qua đây, cũng nghe bạn bè nhắc nhở, phải đề cao cảnh giác với bọn nằm vùng đang len lỏi móc nối giật giây phá rối trong cộng đồng người Việt và nhất là trong số cựu tù nhân chính trị. Bệnh trong người trước sau cũng lộ ra bên ngoài còn biết cách để tránh, bọn nầy mặc ngay trên người chiếc áo chống cọng của cựu tù nhân chính trị thì biết đâu để đề phòng cảnh giác. Đành rằng chỉ một số rất nhỏ, khó nhận dạng để lột mặt và thẳng tay trừng trị cho hả giận. Nhưng nghĩ lại, ba tên nằm vùng chỉ là chuyện nhỏ, thứ chuột ghẻ nầy chẳng làm nên cơm cháo gì. Điều thất vọng đối với ông Bảo là hoàn cảnh, cuộc sống tình cảm và cách đối xử với nhau bên nầy. Giờ giấc làm chủ quyết định tất cả sự việc. Hẹn với ai cũng phải điện thoại xin trước, ngay với việc đến thăm con cháu. Làm một chuyện gì không thể nói xong là bắt tay vào ngay mà phải tùy thuộc thời gian cho phép hay không. Ngày mới đến, gặp bạn bè mừng tủi chưa nói hết vài ba câu đã vội vã chia tay hứa một dịp khác. Hỏi hẹn lúc nào thì ai cũng ngập ngừng trả lời để rồi xem
sẽ điện thoại cho biết sau. Lúc đầu ông Bảo hơi bực mình về sự lạnh nhạt nầy nhưng sau đó mới biết rằng đời sống Âu-Mỹ phải tính từng giây phút một. Gặp lại đàn em ngày trước hay bạn bè cũ, tay bắt mặt mừng một hai lần rồi dần dần cũng biến mất vì cuộc sống riêng tư. Điều nầy có thể chấp nhận, nhưng còn một vài vấn đề khác vẫn ám ảnh ông hoài. Cùng là tỵ nạn, người đến trước hay kẻ qua sau cũng cùng chung một hoàn cảnh. Ngày đầu đặt chân lên vùng đất tự do ai cũng rách nát như nhau, cũng sắp hành lãnh tem phiếu hàng tháng và làm bất cứ gì để gầy dựng lại cuộc đời. Bây giờ nhà cao cửa rộng với cuộc sống vương giả, những người qua trước đã vội quên quá khứ đau buồn của mình mà còn khinh thường những người qua sau theo diện nhân đạo. Gia đình không nghe ông Bảo thổ lộ bao giờ những đau buồn trong lòng nhưng thấy ông mất ngủ từ ngày qua đây. Một hôm Phước được một người bạn kể lại rằng, anh ta gặp ông Bảo đang sắp hàng mua thức ăn trong một cửa tiệm. Khi trả tiền ông Bảo đưa tem phiếu ra thanh toán, người bàn hàng lạnh lùng hỏi, ông có tiền mặt không, ở đây không nhận loại tem nầy! Ông Bảo nhìn cô bàn hàng một cách thương hại và nhẹ nhàng trả lời rằng, trước đây cô có dùng tem phiếu để mua thức ăn không? Nhớ lại xem! Vừa dứt câu ông Bảo cẩn thận xếp tấm tem phiếu để vào túi và quay nhanh ra cửa tiệm. Kể từ ngày đó ông Bảo ít liên lạc với bạn bè cũ đã qua trước. Có một lần cả gia đình ngồi uống trà buổi tối, mẹ Phước khuyên ông, đến được xứ tự do dù có đau buồn gì nữa cũng nên bỏ qua. Các con đã chịu khó làm việc kiếm tiền giúp gia đình thì nên hưởng phước được ngày nào hay ngày đó, để tâm chuyện đời làm gì cho phí sức. Ông Bảo cảm động trước lời khuyên của vợ nhưng vẫn thổ lộ tâm tình một lần chót với gia đình rằng, nếu ngày trước ông cũng mau chân rút chạy như những đồng đội khác thì giờ nầy đâu có thua gì ai ở đây, con cái đứa nào cũng khoa bảng, trở thành ông nầy bà nọ đâu phải làm bồi, rửa chén cắt cỏ như bây giờ. Ông tiếc rằng giờ phút cuối đã ở lại cầm chân địch để cho đồng đội có rộng thời giờ an toàn lên máy hay xuống tàu thủy
Ông đã nín thở hàng chục năm trong tù để đánh thức lương tâm và lòng nhân đạo của thế giới, để giúp họ hướng tình cảm về những người đã bỏ nước ra đi vì tự do, để mở mắt cho những người ngây thơ trên thế giới biết thế nào là cọng sản và cũng để lấy lại công đạo cho hàng triệu người đã hy sinh cho mảnh đất thân yêu Việt Nam, cho tự do hạnh phúc của con người mà cọng sản thường tuyên truyền bóp méo sự thật. Ông Bảo lặp lại với gia đình, ông chỉ buồn cho những người qua sau đã thất thiệt mà còn bị những người may mắn qua trước xem như những kẻ ăn xin. Phước đã có lần nhắc nhở ông Bảo, với tiền lương bốn người con làm việc, biết tiết kiệm, không đua đòi, không phung phí, chỉ trong một thời gian chắc chắn sẽ ổn định hơn một số gia đình đến định cư tại đây từ trước. Các người con nhất loạt khuyên ông Bảo như vậy, không ai nghĩ đến việc tiếp tục học và dứt khoát làm việc để tạo một căn bản vững chắc cho gia đình. Những việc tầm thường như phụ bếp, lặt rau, làm bồi bàn. Dù trong lãnh vực nào các người con cũng gặp nhiều khó khăn trong công việc nhưng họ đều giấu kín gia đình. Điển hình nhất là Phước, anh cố vượt qua, vui vẻ chấp nhận để đem lại nguồn vui cho gia đình và nhất là lấy lại thăng bằng tinh thần cho ông Bảo. - Thưa cô dùng gì ạ? - Phở đặc biệt, tô nhỏ và ly café sữa đá. - Dạ. Phước vừa quay lưng, cô gái gọi giật lại: - À quên, thêm một chén hành trần. - Thưa, lấy nước béo không? Cô gái hơi xẵng giọng: - Mỡ thì không! Phước buồn cười trong bụng, con gái ăn hành trần không lo hôi miệng mà lại sợ mỡ trong lúc thân hình ốm như con khô. Khác với thường lệ Phước đưa ra một chén đầy ắp hành lá đập dập trụng trong nồi nước lèo. Phước nhớ lời mẹ thường nói, con gái ăn hành không tốt, người đã hôi nách mà còn phát triển tâm tính hung bạo của một người đàn ông và nhất là vấn đề tình dục thường bị căng thẳng. Đứng sát bên trong, Phước liếc mắt quan sát, hôi nách hay căng thẳng tình dục thì không biết được nhưng phảng phất tính tình của một người đàn ông nhìn qua cũng thấy một phần nào. Từ đó cứ mỗi lần cô gái đến Phước không hỏi mà lúc nào cũng kèm theo tô phở một chén đầy hành trần. Cho đến một hôm cô gái từ chối chén hành, Phước ngay miệng hỏi: - Thưa cô hôm nay không dùng hành? - Ô hay, dùng hay không là chuyện của tôi. Khi nào tôi yêu cầu thì anh đem ra. Bực mình vì giọng nói, nhưng công việc bắt buộc Phước vẫn cười rất tươi: - Thưa cô vâng, khi nào cô cần xin cứ kêu. Vừa quay lưng trở đi, cô gái gọi giật trở lại: - Này anh, tôi hôm nay trong người không vui, xin bỏ qua. - Thưa cô không có gì, tôi đã quen những chuyện thế nầy từ lâu. Cô gái vừa xé bao giấy đựng đũa vừa cười vừa hỏi: - Anh không nổi nóng lên trước những câu thiếu lịch sự của khách? - Thưa cô, nghề nghiệp bắt tôi chấp nhận những chuyện như thế nầy. - Tôi xin lỗi anh. Tôi tên Nga, còn anh? - Thưa cô, người ta gọi tôi là bồi bàn. Nói xong Phước quay qua tiếp chuyện với khách bàn kế cận. Lúc ra quầy tính tiền gặp lúc Phước đi ngang qua, Nga níu tay Phước nói nhỏ: - Xin lỗi anh, không biết anh có giận tôi vì câu nói hồi nãy? - Cô yên tâm, tôi không bao giờ biết giận khách hàng. Nga nhìn Phước mỉm cười: - Tôi mời anh café xem như tạ lỗi, chịu không? - Cám ơn cô, tôi làm việc suốt ngày ít khi nào rảnh. Xin hẹn một dịp nào đó. Một năm sau, hết trợ cấp đặc biệt của chính phủ dành cho những gia đình định cư theo diện HO nhưng may mắn bốn người con chịu khó làm việc đều đặn và liên tục, cuộc sống gia đình đã ổn định. Ông Bảo bắt đầu tham gia họp mặt vào các hội đoàn, mẹ Phước tìm lại được những mật thiết với bạn cũ. Đến lúc phải nghĩ đến tình cảm riêng tư của mình, Phước nghỉ một ngày trong tuần để có thời giờ dành cho mối tình vừa chớm nở với Nga. Sau gần hai tháng quen biết và chỉ trao đổi vài câu ngắn gọn trong quán ăn, hai người đã chính thức mở rộng vòng tay ôm lấy nhau. Trong dịp lễ Valentin vừa qua, trên sàn nhảy Nga đã siết chặt vòng tay, ôm lấy vai người tình và thú thật lòng mình với Phước. Đối với Nga không biết là cuộc tình thứ mấy nhưng với Phước, chàng chưa thực lòng yêu ai dù đã hai mươi bốn tuổi. Có lẽ trong thời gian còn tại Việt Nam Phước quá bận tâm vào việc học, chuyện buồn gia đình trong lúc ông Bảo đang trong vòng tù tội. Qua bên nầy, thực tế cuộc sống buộc Phước dồn hết thời giờ vào công việc để giúp gia đình. Bây giờ cuộc sống tạm ổn thì Nga đến với chàng, chính nàng săn đón và ngã vào tay Phước. Buổi gặp đầu tiên do Nga hẹn, đi uống café với nhau xem như để giải hòa lỗi lầm nhỏ với chàng trong tiệm ăn lần trước. Tiếp đến những lần hẹn hò tại các phòng trà khiêu vũ vào mỗi chiều chủ nhật, cho đến ngày lễ tình nhân Nga đã thú thực lòng mình. Tình yêu đến với Phước không đam mê không vồn vã như những thanh niên mới yêu lần đầu. Chàng chỉ gật đầu và hôn nhẹ lên mái tóc khi nghe Nga vừa tỏ tình. Nụ hôn hờ hững để chấp nhận miễn cưỡng một thực tại đã đến, tình yêu không trông chờ không háo hức mà Phước đã phân vân kể từ lúc quen thân với Nga. Nga nhỏ hơn Phước ba tuổi, con thứ nhì của một gia đình có hai chị em, định cư tại Mỹ từ lâu, học hành đã dùng lại ở nửa chừng và sắc đẹp cũng không được xếp vào hạng chim sa cá lặn. Nhưng những điều nầy không quan trọng, Phước rất thực tế, muốn tìm một tình yêu chân thành để đi đến hôn nhân. Người vợ không cần phải đẹp, giàu sang hay đỗ đạt cao. Phước muốn một người con gái bình thường hợp với hoàn cảnh, số phận và gia thế của chàng. Nhìn chung hình dáng bên ngoài, Nga cũng thuộc mẫu người hợp với Phước nhưng một điều làm chàng đắn đo suy tư, đó là quan niệm quá chú trọng cuộc sống vật chất của Nga. Nàng thường tỏ vẻ buồn khi nhắc đến công việc bồi bàn của Phước và ước mong Phước sẽ trở nên một người đàn ông khoa bảng như thiên hạ. Phước đã nhiều lần giải thích, không có nghề nào xấu mà chỉ có con người xấu mà thôi. Trong sinh hoạt hằng ngày mỗi người một việc để phục vụ đời sống con người. Không lý guồng máy xã hội chỉ toàn những ông bà khoa bảng thì lấy ai làm những công việc tầm thường để phục vụ những nhu cầu căn bản của đời sống. Có lần vừa nghe Phước trình bày xong Nga nổi nóng và trả lời thẳng Phước rằng nàng không muốn người ta kêu nàng bằng bà bồi bàn! Phước không buồn, nhưng câu nói của Nga đã xác định rõ ràng cái tầm thường trong quan niệm hôn nhân của đa số con gái thời nay, đặt tiền tài danh vọng làm điều kiện tiên quyết trước khi đưa tay đón nhận chiếc nhẫn. Vẫn biết Nga bị thu hút trước vóc dáng đẹp trai, tính tình hiền lành của một thanh niên chưa từng trải. Nhưng những lợi điểm của Phước chưa hẳn là điều kiện để đem lại vinh dự cũng như đáp ứng đòi của một người con gái đang đặt nặng vấn đề vật chất. Phần bị mặc cảm của một người đến sau thua thiệt phần bỡ ngỡ trong mối tình đầu, Phước không can đảm dứt khoát để chấm dứt những liên hệ mật thiết với Nga hầu tránh những cơn đam mê càng ngày càng lún sâu vào vũng lầy xác thịt, cũng như hậu quả nếu có, sẽ ràng buộc hai người với nhau qua những lần vụng trộm trong khách sạn. Đang phân vân đắn đo tìm một lối thoát thì Nga đã kịp thời giải tỏa Phước bằng những vòng tay níu chặt, bằng những giọt nước mắt của một người bại trận và yêu cầu Phước ra mắt trình diện với gia đình nàng. Phước ăn mặc đơn giản như những ngày đi làm, bình thản theo Nga đến thăm và dùng cơm gia đình. Cả nhà quan sát kỹ Phước từ lối phục sức, phong cách con người đến những lời đối thoại cần thiết lúc đầu. Ông Thân, bố của Nga cũng thuộc mẫu người xưa, thủ cựu nhưng khá dễ dãi sau những câu đối đáp chân thành mộc mạc của Phước. Người chị và bà Thân lúc đầu niềm nở khi nghe Phước hoạt động trong lãnh vực nhà hàng, nhưng sau đó hai người sa sầm nét mặt ngay lúc Phước đính chính rằng, chàng đang làm bồi trong một quán ăn. Trong suốt bữa cơm hôm đó, câu chuyện chỉ xoay quanh công việc, tương lai của người rể cần phải có để gia đinh có thể nhìn lên, nở mày nở mặt với bạn bè và nhất là xứng đáng với người con gái quý giá của gia đình. Phước không hứa hẹn một thay đổi hay một tương lai tốt đẹp nào để có thể xứng đáng với lòng ưu ái của người chị và bà mẹ Nga. Trước khi ra về, bà Thân an ủi bằng Phước cách ban một ân huệ là chấp nhận nói chuyện rõ ràng với mai mối trước khi tiếp đón gia đình Phuớc đến thăm. Bà còn nhấn mạnh, vì mến tính nết của Phước nên bà chịu nói chuyện với mai mối và phải qua mai mối, chứ bà không chấp nhận chuyện đi tắt, mà nhà trai phải tuân theo thủ tục cưới hỏi của ông bà để lại. Phước đem sự tình kể rõ cho gia đình. Ông Bảo có vẻ bực mình nhưng giữ thái độ dè dặt, im lặng để nghe ý kiến của vợ. Bà Bảo vì thương Phước, bỏ ngoài tai thái độ khinh người của gia đình Nga, miễn làm sao vui lòng con. Bà góp ý với chồng rằng, hỏi vợ là bổn phận phải lo cho con, miễn làm sao chúng nó biết yêu thương sống hạnh phúc với nhau trọn đời, dù họ có khinh khi gia đình mình đi nữa cũng phải bấm bụng. Thời buổi bây giờ đồng tiền và danh giá ngự trị trên tất cả lễ, nghĩa, đạo lý và tình người, mình cũng phải châm chế cho con nó vui lòng. Bà Bảo nhắc đi nhắc lại nhiều lần, miễn là con Nga yêu biết thương sống trọn vẹn cho thằng Phước thì đôi lúc gia đình cũng phải nhắm mắt làm ngơ. Nhưng ông Bảo vẫn giữ thái độ im lặng một thời gian. Bà vợ nói riết, cuối cùng ông cũng chấp thuận để bà tìm một người mai mối đến nói chuyện, tìm hiểu những yêu cầu, điều kiện do gia đình nhà gái đưa ra. Vừa xong ngụm trà, bà Thân vào đề: - Chị mai, chẳng hay chị chỉ quen biết hay có bà con thân thích xa gần gì với gia đình cậu Phước? - À, gia đình chúng tôi là bạn ngày trước ở Việt Nam. - Thế gia đình bà cũng qua theo diện HO? - Đúng vậy, nhưng qua trước gia đình ông bà Bảo mấy năm. Bà Thân dò xét: - Chắc mới qua sau nầy đời sống cũng chật vật khó khăn? - Dạ phải thưa bà, đi tù trên chục năm, về phải mất thời gian chạy lo thủ tục, qua đến bên nầy cha mẹ thì quá tuổi con cái phải ra đi làm. - Xin lỗi bà, hôm nay bà đến thăm hay có mục đích
Bà mai tiếp lời: - Thực ra đến để xin ý kiến ông bà về việc hai cháu Phước và Nga. - À, chuyện đó con gái tôi đã trình qua và cháu Phước cũng đã đến ra mắt. Ngập ngừng giây lát, bà mai tiếp: - Thưa, ông bà thấy thế nào ạ? - Trai gái lớn lên đến tuổi nào đó thì việc hôn nhân cũng phải tính. Nhưng việc dựng vợ gả chồng tất nhiên cha mẹ phải nhúng tay vào. Đối với chúng tôi, việc hôn nhân con cái không thể để tự chúng nó tự tung tự tác tấp chỗ nầy cặp chỗ kia được! - Dạ tôi cũng nghe ông bà Bảo lặp lại ý kiến của ông bà, cũng vì lý do đó, tôi được ông bà Bảo nhờ qua thăm dò ý kiến. - Vợ chồng tôi cũng không khó khăn gì, nhưng đâu phải ra đó, những cái gì ông bà cha mẹ dạy phải tuân theo mong bà và gia đình cậu Phước thông cảm. Bà Thân rót thêm nước trà vào tách vừa nhìn khách dò xét vừa đẩy đưa: - Thưa bà, xem như vậy có tiện không ạ? - Dạ dĩ nhiên là như vậy, nhưng thời buổi bây giờ cũng mong ông bà thông cảm, xí xoá phần nào cho mấy đứa nhỏ kẻo tội nghiệp. - Bà nói tội nghệp rồi miễn cho mấy đứa nhỏ, tôi không đồng ý, đi lấy vợ phải làm cái gì cho ra hồn chứ. Cũng phải mai mối, lễ hỏi lễ cưới không rình rang nhưng cũng phải đẹp mặt cho hai họ. - Tôi nói tội nghiệp là nếu ông bà đề nghị gì thì chúng nó cũng phải chạy tiền vay nợ để tổ chức cưới hỏi rình rang nhưng rồi phải cong lưng trả nợ năm nầy qua năm khác
Nhìn thẳng khách, bà Thân sửa lưng bà mai: - Tôi nói tổ chức làm thế nào cho đẹp mặt hai họ chứ đâu yêu cầu rình rang. Tôi biết gia đình cậu Phước nghèo mới chân ướt chân ráo qua Mỹ, cậu ta thì làm bồi lấy gì bảo đảm để vay mượn. Tiền của đâu để làm rình rang! Nhưng bà cũng phải nghĩ cho con gái gia đình tôi, cũng cành vàng lá ngọc đâu phải của thúi của hôi để cho cưới chạy làng! Bà mai nhỏ nhẹ: - Dạ thưa bà tôi không dám có ý nghĩ như vậy, tôi chỉ xin một sự giảm thiểu nếu được, để cho gia đình nhà trai đủ khả năng lo liệu. - Nếu bà đã nói vậy thì vợ chồng tôi sẽ nhân nhượng phần nào nhưng các lễ vật cần thiết cũng như thủ tục bắt buộc phải có. - Dạ xin ông bà vui lòng cho biết. Bà Thân gọi ông chồng ra để những yêu cầu của bà tăng thêm phần giá trị. Vừa ngối xuống, ông Thân mở lời: - Tất cả đều do vợ tôi định đoạt, nghe qua mong bà chuyển lời đến gia đình nhà trai rồi cho chúng tôi biết kết quả. Phần chúng tôi cũng đã bàn tính với nhau xong xuôi. Tiếp lời chồng, bà Thân nhấn mạnh từng điểm một: - Thì cũng đại khái vài ba trăm xuất, trình cho thân nhân bạn bè của nhà gái. Những phần phụ thuộc cho cô dâu, để hai đứa tự nhiên mua sắm lo liệu cho nhau, phần chúng tôi chỉ cần một chiếc nhẫn đính hôn để hôm lễ trình ra cho đẹp mặt gia đình nhà trai. - Thưa cho biết chính xác bao nhiêu xuất và mỗi xuất gồm những gì. Riêng về nhẫn đính hôn, xin cho biết rõ loại nào
Bà Thân trả lời không suy nghĩ: - Chắc nghề mai mối, bà đã biết rõ mỗi xuất gồm những thứ gì rồi. Chúng tôi cần năm trăm xuất và nhẫn đính hôn thì cỡ chừng
ba carats tối thiểu. Vừa nghe qua, bà mai đã thấy xây xẩm mặt mày, nhưng vẫn bình tĩnh làm hết nhiệm vụ: - Thế còn tiệc cưới? - Gia đình chúng tôi bà con bạn bè đông, phải chọn một nhà hàng lớn ở vùng nầy để có thể chứa hết khách mời. Riêng phần nhà gái cũng chừng bốn trăm chỗ. Nghi thức gồm có lễ cáo biệt ông bà tại nhà gái, ký giấy hôn thú tại tòa thị chính và theo tôn giáo thì tại chùa như vậy tránh được những điều thiếu sót đáng tiếc. Nghe bà mai thuật lại chi tiết từ đầu chí cuối, ông Bảo bực mình trả lời ngay với mấy người đang có mặt: - Về Việt Nam cưới vợ là xong chuyện! Bà Bảo nhướng mắt nhìn chồng: - Ô hay, lấy vợ cho nó chứ đâu phải cho ông mà hấp tấp vậy! Ngoài miệng trách chồng nhưng trong thâm tâm bà Bảo cũng bất mãn thái độ quá đáng của một gia đình sống bên nầy lâu năm mà đầu óc còn thành kiến giai cấp, lòe loẹt khoe khoang bên ngoài. Bà mai bình tĩnh hơn: - Hay họ làm khó để từ chối khéo việc cầu hôn của cháu Phước? - Có thể như vậy. Ông Bảo trả lời câu hỏi xong quay qua nhìn con: - Nghĩ thế nào, chuyện tình cảm do con chọn lựa, nhưng điều kiện nhà gái đưa ra, như con đã thấy, không thích hợp với khả năng gia đình chúng ta. Con cần xét lại lòng mình và quan trọng nhất là tính tình của Nga trước khi cho cha mẹ biết quyết định cuối cùng của con. Như vậy, tất cả đều bất mãn thái độ của nhà gái nhưng đồng ý dành cho Phước trước quyết định hệ trọng của đời chàng. Phước thưa với ba mẹ: - Thưa cho con xin một thời ngắn để đặt thẳng vấn đề với Nga, dù sao chính nàng là mấu chốt quan trọng trong tình yêu cũng như thách thức của gia đình nàng. Bà Bảo đồng tình: - Làm như vậy đúng để sau nầy Nga không trách cứ gì con cũng như gia đình không ân hận đã hối thúc con chấp nhận một quyết định ngoài ý muốn. Sau nhiều đêm suy nghĩ, Phước hẹn Nga vào một buổi chiều chủ nhật. Nga đến với vẻ mặt bình thản, dường như đã chuẩn bị một tính toán trong đầu. Vừa gặp Phước, Nga cười một cách tự nhiên: - Sao anh, ông bà cụ có đồng ý với ba mẹ em không? Phước ngập ngừng: - Đồng ý nhưng rất khó thực hiện? Nga hỏi ngay: - Vấn đề tài chánh? - Đúng vậy, như em biết khả năng gia đình không thể cáng đáng nổi một đám cưới linh đình như những gia đình giàu có ở đây. Đợi một lúc không thấy phản ứng của Nga trước những thổ lộ chân tình của mình, Phước mập mờ đưa ra đề nghị để dò xét: - Hay mình cứ sống chung với nhau một thời gian, đặt hai gia đình trước một việc đã rồi như một số lớn thanh niên nam nữ hiện nay. Sau đó chuyện gì đến sẽ đến. Nga la hoảng lên: - Đâu được anh, như vậy anh xem gia đình em ra gì nữa! - Không anh vẫn trọng gia đình em nhưng hoàn cảnh không cho phép anh thực hiện những yêu cầu, có thể nói, hơi quá đáng với hoàn cảnh của anh. Nga xẵng giọng: - Như vậy anh cho rằng gia đình em đòi hỏi quá đáng? Con người em không xứng đáng để tổ chức một đám cưới linh đình mà phải cưới hỏi chụp giựt chui rúc như gái lỡ thì hay thứ đứng đường đứng chợ? Phước không còn cách gì giải thích, hai tay ôm lấy đầu xuống nước phân trần: - Em nghĩ lầm oan ức cho anh. - Không lầm hay oan ức gì nữa, nếu gia đình anh không chấp nhận những điều kiện của gia đình em thì... đường ai nấy đi! Phước giật mình không ngờ Nga đưa ra một đề nghị dễ dàng như vậỵ. Nếu không phải một lời hờn dỗi thường tình giữa hai người yêu nhau thì đúng là bằng chứng Nga không yêu thương Phước thực tình. Nàng đến với chàng có lẽ vì những đòi hỏi của tinh thần cũng như thể xác đang bộc phát dữ dội ở lứa tuổi của nàng. Nhưng Phước vẫn thắc mắc, tại sao Nga yêu cầu chàng ra mắt gia đình để đi đến việc hợp thức hóa tình yêu giữa hai người. Nhưng qua hành động và những lời nói bộc lộ vừa rồi trong lúc tâm thần Nga không ổn định, chứng tỏ việc lựa chọn của nàng vẫn chưa ngã ngũ. Vậy tình yêu hay danh vọng, yếu tố nào mà Nga cần phải chọn để có một quyết định dứt khoát, tiến đến một cuộc hôn nhân chính thức, hợp thức hóa mối tình nam nữ trong hạnh phúc, hay, sẽ kết thúc một cách đau thương rồi chia tay mỗi người một ngả? Thật Phước không thể hiểu đuợc trong đầu Nga đang suy tính gì. Phước cố gắng tìm hiểu một lần nữa: - Em bình tĩnh cho anh hay, em nói thực tình hay chỉ là những lời hờn dỗi? Nga vẫn bình thản: - Không, em nói thật. Chia tay, giữa hai người em là kẻ thua lỗ. - Em chấp nhận? - Chứ làm sao bây giờ! - Như vậy, cho anh nói hỏi, em không yêu anh? Nga thẳng thắn: - Yêu thì được làm vợ thì không? - Tại sao? - Em nói anh đừng buồn, em không muốn đời em bị đóng khung trong ba chữ 'bà bồi bàn'. Phước không buồn vì câu nói tàn nhẫn vừa qua, chàng đưa tay choàng qua vai Nga vỗ nhè nhẹ: - Anh hiểu em và cảm phuc em đã nói ra những lời thẳng thắn. Mỗi người đều có một số mạng khác nhau, tất cả đều được an bài. Muốn thay đổi, cần phải có thời gian dài, một môi trường thích hợp và một ý chí sắt đá.. - Sao anh không tìm cách vươn lên? - Anh sẽ cố gắng vươn lên nhưng hoàn cảnh hiện tại chưa cho phép. Không thể đến đích bằng con đường tắt một sớm một chiều như trở bàn tay. - Như vậy anh sẽ cố gắng đi học trở lại? - Anh chưa nghĩ đến điều nầy, tất cả hoạt động dù ở ngành nghề nào cũng cần thiết để xã hội sinh hoạt hằng ngày. Đặt nặng vấn đề khoa bảng, lấy ai làm những công việc bình thường nhưng rất cần thiết cho đời sống. Nga mải lắng nghe không có phản ứng trong lúc Phước muốn chấm dứt câu chuyện đau lòng, kéo dài chẳng đi đến đâu, chàng hỏi nhỏ Nga: - Chúng ta xa nhau, em không giận anh? - Không. - Và cũng không ân hận những gì về tình yêu trong thời gian qua của hai đứa mình? - Cũng không! - Như vậy cám ơn em nhiều. Phước cho gia đình biết quyết định của mình cũng như nội dung đã trao đổi với Nga. Ông bà Bảo thở ra nhẹ nhỏm. Cả nhà khuyên Phước nên về Việt Nam cưới vợ để khỏi rắc rối. Phước gật đầu cho qua chuyện. Tuy nhiên trên cương vị người lớn, ông bà Bảo vẫn nhờ bà mai, một lần nữa, chuyển tiếp lời cáo lỗi của gia đình nhà trai. Sau khi điện thoại lấy hẹn, bà mai đến thì ông bà Thân đã chờ sẵn ở phòng khách. Tất cả đều biết trước nội dung cuộc gặp nhưng gặp nhau, câu vào đề của bà Thân vẫn vui vẻ: - Chào bà mai, chắc hôm nay đến báo tin vui cho mấy cháu? Im lặng vài giây, bà mai ngập ngừng: - Dạ hôm nay tôi rất buồn đến để chuyển lời cáo lỗi của gia đình nhà trai. Bây giờ bà Thân đổi ngay thái độ: - Cháu Nga đã cho chúng tôi biết rồi. Thôi thế đỡ mất mặt cho gia đình tôi. Bà mai vẫn nhỏ nhẹ: - Thưa bà, bà nói như vậy hơi quá lời. Ông Thân thấy tình hình không êm đẹp, đứng dậy đi vào phòng trong, bà Thân vẫn còn hậm hực: - Tôi đâu nói gì đụng chạm đến gia đình nhà trai đâu. Quyết định sớm như vậy đỡ kẹt cho chúng tôi. Trong lúc chưa ngã ngũ việc cưới hỏi với cậu Phước thì một số kỹ sư bác sĩ đang sắp hàng nối đuôi để xin bước chân vào nhà nầy. - Xin chúc mừng ông bà. Một lần nữa, xin thay mặt ông bà Bảo thành thực xin lỗi vì không thể đáp ứng yêu cầu của ông bà nên buộc lòng chúng tôi xin rút lại đề nghị đã đưa ra lần truớc. Nếu không còn gì, xin phép ông bà tôi cáo từ. Thực ra Phước chưa muốn về Việt Nam, vì tất cả liên hệ thân thích gần đều đang định cư ở nước ngoài. Hơn nữa tiền dành dụm chưa được bao nhiêu trong lúc đời sống đang chập chững lấy lại thăng bằng. Một chuyến cưới vợ xa, nếu không đưa đến nợ nần thì cũng tiêu tan số tiền đã khổ công dành dụm trong suốt thời gian qua. Nhưng gia đình thấy Phước buồn, ông bà Bảo không những khuyến khích về Việt Nam cưới vợ mà còn mở hầu bao cho thêm một sốt tiền tạm gọi là lớn để phụ vào việc cưới hỏi. Phước ngần ngại nhưng ông bà khuyến khích rằng cứ cầm lấy, xem như một phần nhỏ cha mẹ phải đóng góp trong việc hôn nhân của con cái. Thấy Phước không phản đối, bà Bảo vội vã liên lạc với người em họ, cho biết ý định của Phước trong chuyến về Sàigòn sắp tới. Do đó, ngay khi Phước đặt chân xuống phi trường, gia đình ông Thung đã có sẵn kế hoạch kiếm cho người cháu một cô vợ hiền thục nết na theo ý của bà chị bên Mỹ. Ngay trong buổi cơm chiều, ông bà Thung đã đặt câu hỏi về mẫu người vợ Phước muốn chọn. Vừa nghe Phước đề nghị, một người vợ không cần đẹp, không cần giàu sang và cũng không cần học thức cao rộng làm gì, chỉ cần một người con gái nhu mì biết đãm đang công việc gia đình và thương yêu chồng con. Vừa nghe qua, ông bà Thung cười lớn: - Tưởng gì chứ chuyện bình thường như vậy quá dễ dàng, cháu tha hồ lựa chọn. Phước do dự: - Cháu không có quan niệm phải cân nhắc lựa chọn mà nghĩ rằng nếu mình tốt phước thì duyên số sẽ đến dễ dàng. Ông Thung gật đầu đồng ý quan điểm của Phước nhưng cũng cho hay: - Không đắn đo lựa chọn nhưng cũng phải ra ngoài tiếp xúc tìm hiểu, không lẽ ngồi nhà chờ người ta ra mắt ứng thí? - Thưa chú cháu không dám có ý như vậy, nếu duyên trời đã định thì dù tránh đường nào cũng không khỏi. Bà Thung tiếp lời: - Nói chơi cho vui vậy chứ chú cũng đã sắp xếp trước cho cháu. - Thưa, thế nào ạ? - Sau được điện thoại mẹ cháu, chú con nói với đồng nghiệp trong sở biết ý định của cháu muốn về cưới một cô gái Việt nam làm vợ, lập tức có hai ba mối đã liên hệ thăm hỏi chi tiết. Chú con cũng xem mắt sơ qua vài ba cô
Phước hướng về chú Thung: - Chú thấy thế nào? - Trong đám nầy có một người con ông trưởng phòng của chú xem ra khá nhất. Gia đình họ đã biết cháu về ngày hôm nay. Nghỉ cho khỏe, tối mai mình đến thăm xã giao. Bà Thung căn dặn thêm: - Cháu nên ăn mặc chỉnh tề một chút, kiểu quần bò áo bỏ ra ngoài không thích hợp với cách thức đi xem mắt vợ bên nầy. Lại nữa, cháu lựa xem cái gì quý đem từ Mỹ về để làm quà. Phước sực nhớ ra: - Chết, cháu quên ba cái vụ lỉnh kỉnh nầy, cháu chỉ đem về một ít quà để chú thím dùng trong gia đình. - Không sao, ở đây thiếu gì, mua ở đây cũng được nhưng cứ bảo rằng cháu đã mang từ Mỹ về! Câu chuyện xoay quanh vấn đề cưới vợ gả chồng giữa Đông và Tây là đề tài chính trong suốt bữa ăn. Trước khi chấm dứt, ông Thung bất ngờ hỏi Phước: - Cháu có muốn tiếp xúc trước với người bạn gái mà cháu sẽ gặp vào chiều mai không? Nếu cần chú có thể điện thoại xin phép xếp của chú trước. - Thưa chú cháu nghĩ không cần thiết. Cứ đến nhà thăm xã giao, gì cũng gặp mặt trao đổi vài ba câu như vậy đủ đối với lúc đầu. Theo ý cháu, để dò xét thái độ nhà gái trước như thế nào, lỡ ra câu chuyện không đi đến đâu cũng không gây khó khăn nhiều cho con gái nhà người ta. Bà Thung xen vào, trả lời tiếp đề nghị của chồng: - Phước nói đúng đó ông. Đâu cần gì hấp tấp, đừng để người ta đánh giá cháu mình ngang hàng với những đám Việt kiều chụp giựt. Buổi hẹn xã giao được ấn định từ bảy giờ tối và dùng cơm chung do chủ nhà khoản đãi. Phước đi cùng ông bà Thung. Nhà gái, không biết có bao nhiêu người đứng rình xem phía trong nhưng ra mặt tiếp đón chỉ có hai ông bà Tùng, bố mẹ của cô Mỹ Hà. Ông bà Tùng gốc người miền Bắc vào Nam sinh sống chừng hai chục năm nay, nghĩa là gia đình dọn vào Nam lúc Mỹ Hà vừa được một tuổi theo lời của bà mẹ. Khi người cậu của Phước bắn tin cho hay cháu trai là Việt kiều Mỹ sẽ về việt Nam cưới vợ, ông được cung cấp đầy đủ danh tánh, khả năng, tài đức, gia thế của nhiều cô gái trong đó có Mỹ Hà. Do đó ông Thung đã có sẵn trong tay lý lịch người bạn gái mà họ đang đến thăm. Mỹ Hà trong lối phục sức thời trang lịch sự kín đáo, bước ra chào ông bà Thung và Phước. Vừa dứt vài câu, Mỹ Hà đã vội xin phép vào bếp. Nhưng lúc vào bàn Phước được sắp ngồi kế cạnh hai mẹ con bà Tùng. Ông Tùng chỉ kín đáo quan sát Phước qua những câu đối đáp xã giao thông thường nhưng ngược lại bà vợ bám sát Phước từng cử chỉ một, từ lời ăn tiếng nói đến những vật dụng trên người như đôi giày, chiếc đồng hồ đeo tay. Đầu thì câu chuyện chỉ xoay quanh sự khác biệt khí hậu mưa nắng, giờ giấc, cuộc sống khác nhau giữa hai lục địa cách nhau gần hai mươi giờ bay. Nhưng rồi bà Tùng hình như sốt ruột, ngắt ngang và hướng hẵn câu chuyện vào mục đích chính mà gia đình bà cần biết. Những câu thăm hỏi về hai gia đình đều nằm trong chiều hướng bình thường của việc tìm hiểu nhau giữa hai gia đình sắp trở thành sui gia. Phước trình bày một cách trung thực những cái khó khăn và thua thiệt của một gia đình định cư qua sau những người khác, ông bà Tùng tỏ vẻ cảm thông và cỗ võ Phước phải can đảm và hy sinh cho gia đình thêm nữa. Nhưng đến lúc Phước trả lời câu hỏi của bà Tùng về nghề nghiệp của mình thì hai ông bà mở to đôi mắt ngạc nhiên tột độ. Bà mẹ Mỹ Hà còn sợ mình nghe lầm nên vẫn hỏi lại lần thứ hai: - Cậu nói cậu làm bồi nhà hàng ăn? - Dạ thưa đúng vậy. Bà Tùng vẫn chưa tin Phước nói thật: - Cậu nói đùa cho vui chứ từ trước đến giờ Việt kiều ai về đây cũng không bác sĩ, kỹ sư thì cũng ông nầy ông nọ. Sao cậu lại không chịu học hành đỗ đạt như người ta lại làm gì cái nghề hèn mọn đó. - Dạ thưa bác, bên Mỹ nghề nào cũng tốt cả. Không đồng ý việc đánh giá cháu mình, bà Thung vừa cười vừa trả đũa: - Làm bồi bàn bên Mỹ nhưng lương và tiền típ của cháu cũng cao hơn lương trong sạch của một ông tổng giám đốc bên nầy. - Nhưng dù lãnh bao nhiêu đi nữa cũng là một nghề thấp hèn làm việc bằng tay chân cực khổ. Ông Thung thấy tình thế không thuận tiện, một bên là cháu một bên là xếp lớn, ông không muốn mất lòng ai nên chêm vào một câu cầu an: - Mới qua, ai cũng vậy. Lúc đầu phải dành trọn thời gian để xây dựng đời sống vật chất. Khi đã ổn định xong xuôi đâu đó lại bắt tay vào việc học. Người mình chân ướt chân ráo qua bên đó buổi đầu ai cũng như ai, nai lưng ra làm việc kiếm cơm thuê nhà. Mấy cậu Việt kiều khoa bảng mà ông bà gặp chắc họ đã qua được giai đoạn khó khăn lúc đầu. Tôi thì chưa qua bên đó, nhưng ai về cũng cho biết việc lấy bằng cấp ở Mỹ rất dễ dàng nếu có chí đeo đuổi đến cùng. Cháu tôi qua mới vài ba năm mà đã tạo được đời sống ổn định, bây giờ về đây lập gia đình, xong xuôi sẽ tiếp tục việc học đang dở dang thì đâu khó khăn gì. Không khí buổi cơm đãi khách trở nên ngượng ngập, Ông Tùng tìm cách đưa những lời đối thoại trở lại những chuyện mây gió nắng mưa và hối thúc người nhà đem hai đĩa trái cây lên để chấm dứt bữa ra mắt làm quen. Trên đường về bà Thung an ủi cháu: - Đừng buồn, bên nầy người ta còn quan niệm lệch lạc về nghề nghiệp. Hơn nữa có lẽ lần đầu người ta nghe một thanh niên Việt Kiều đã nói thật và bằng lòng công việc tầm thường của mình ở xứ ngoài. Ông Thung phụ họa: - Bà nói tôi cũng đồng ý, từ xưa đến nay thường nghe người ta nói đến lớp trẻ về Việt Nam đều là bác sĩ kỹ sư, không thì cũng xuất thân khoa bảng từ các trường đại học nổi tiếng của Mỹ. Gả con ai cũng muốn kiếm người rể danh giá. Bà Thung chặc lưỡi tiếc rẻ: - Biết vậy cháu đừng nói thật. Phước không đồng ý câu nói bà Thung: - Thưa cháu không bao giờ che giấu công việc mà hân hạnh về việc làm của mình. Bồi bàn ở các xứ văn minh cũng phải qua một khóa học một hai năm trời, cũng tốt nghiệp lãnh bằng cấp chứ đâu phải là nghề 'chẳng đặng đừng' theo quan niệm của người Việt. Cháu yêu thích vì một nghề dễ thương lương thiện, làm việc trong bóng mát mà lợi nhuận ngoài tiền lương còn được chia phần tiền típ của khách hàng. Bưng một thức ăn đưa đến khách hàng cũng là một nghệ thuật, một hành động cần phải khéo léo, cần một kinh nghiệm lâu năm cũng như công việc của một người thợ làm móng tay hay sửa xe hơi, một y tá hay một bác sĩ. Có khác chăng là kiến thức hiểu biết, thời gian học nghề và môi trường hoạt động khác nhau nhưng tất cả chung qui đều có một mục đích chung là phục vụ đời sống con người. Thú thật cháu không buồn vì người ta đánh giá nghề nhiệp mình mà ngược lại cháu vui, thà biết ngay từ lúc đầu như vậy để tránh những phiền toái bực mình sau nầy. Hôm sau từ sở về, ông Thung cho biết ngay rằng xếp ông đã thẳng thừng từ chối. Gia đình ông lấy làm tiếc không thể chọn một người rể không có tương lai nghề nghiệp vững chắc! Thông báo xong ông Thung vẫn cười vui vẻ rồi vỗ vai Phước: - Cháu yên chí, trong cái xui lại gặp cái hên. Bà Thung mau mắn: - Hên gì? - Thì một mối khác vừa bắn tin cho hay, họ không cần gì ở chú rể tương lai. Tiền bạc, gia thế, công danh
tất cả đều không quan trọng. Họ chỉ muốn một chàng rể là Việt kiều có quốc tịch Mỹ, thế thôi! Vừa nghe qua Phước lắc đầu không ý kiến, chàng lặng lẽ vào phòng trong lúc bà vợ hăm hở hỏi tới: - Như vậy cháu Phước gặp may. Nào, nói rõ đầu đuôi nghe ông. - Thì cũng bạn chung sở, anh ta có người bà con nghe đâu làm lớn tại Sàigòn nầy mà gia đình chỉ có cô con gái. Họ muốn kiếm một Việt kiều gả chồng, mục đích để sau nầy cả gia đình có thể định cư một cách chính thức tại Mỹ. Bà Thung gật gù: - Tôi cũng nghe qua có nhiều trường hợp như vậy. Việt kiều trẻ về cưới vợ đã không tốn kém mà còn ẵm được của hồi môn đem theo. mình cũng thử xem sao. - Bà nói nghe hay không, cưới vợ cho thằng Phước chứ đâu phải cho tôi. Việc quan trọng là nó có chịu đi thử một lần nữa không. Bà Thung háy chồng: - Chuyện! muốn ăn thì lăn vô bếp. Để tôi nói với nó xem sao. - Bà để thư thả vài bữa xem sao, nó vừa bị cú sốc vừa rồi, trai đứa nào không tự ái. Nể lời ông bà Thung, Phước một lần nữa khăn gói đi xem mặt vợ tương lai. Trái với trường hợp vừa qua, gia đình nầy thuộc loại quyền thế và giàu có. Họ tiếp khách không vồn vã như đa số gia đình có con gái muốn được lấy chồng Việt kiều mà trịch trượng đánh giá người trình diện như một kẻ đến dự thí. Trong buổi gặp mặt đầu tiên, chỉ có vài ly trà đơn giản thay bữa cơm thịnh soạn, con gái không được chính thức ra chào. Hiện diện tại phòng khách chỉ có hai ông bà chủ nhà, với phong cách kẻ cả của người ăn trên ngồi trước, đang ra lệnh cho người hầu phục dịch châm nuớc pha trà đãi khách. Sau vài giây quan sát Phước, họ gật đầu tỏ ý hài lòng hình dáng bên ngoài của người đến cầu hôn. Mở đầu câu chuyện, chủ nhà lên tiếng trước: - Ông bà và cậu cứ gọi tôi là ông Thuận cho tiện, đừng gọi chức vụ làm gì thêm phiền toái. - Rất hân hạnh cho cháu, Phước đáp nhỏ. Bà Thuận tiếp lời: - Thế cháu năm nay được bao nhiêu? Tôi quen tính theo người Việt, tuổi con gì vậy cháu? Phước thật thà: - Dạ con gì cháu không biết nhưng tuổi tây tính ra gần hai mươi lăm tuổi. - Đến tuổi nầy mới đi hỏi vợ, thế
trước đó có rắc rối gì không? - Dạ chẳng có gì, vì hoàn cảnh gia đình trước ngày định cư và qua Mỹ trễ nên cháu chỉ chú tâm đến công việc làm ăn. Ông Thuận gật đầu: - Rất tốt, tôi nói thẳng, gia đình chúng tôi không cần gì cả, miễn cậu đã có quốc tịch hay thẻ xanh thường trú của Mỹ. Bà Thung xen vào: - Gia đình qua Mỹ theo diện HO nên đã có thẻ xanh thường trú sau đó chừng hơn một vài tuần gì đó. - Được, tôi vắn tắt để cậu cho tôi biết ý kiến. Con gái tôi tuổi xấp xỉ cậu, đã có một con nhưng tình trạng vẫn độc thân. Có thể nói đẹp nhất nhì thành phố nầy. Vợ chồng tôi muốn cậu làm hôn thú với con gái tôi. Cả ba người không hiểu ý ông Thuận, chưa ai kịp lên tiếng hỏi thì bà vợ tiếp lời chồng: - Nghĩa là làm giấy hôn thú chứ không phải cưới hỏi chính thức như vợ chồng. Tỏ vẻ thông cảm, ông Thung nhìn ông bà chủ nhà: - Chúng tôi hiểu ý định của ông bà. Xin cám ơn, nhưng thực tình, mục đích cháu nó muốn cưới một người vợ. Phước cũng góp ý với người cậu: - Thưa đúng vậy, ý định của cháu muốn lấy một người vợ để ăn đời ở kiếp với nhau chứ thực tình không muốn tạm bợ qua ngày hay có một dụng ý nào khác. Nhìn từ người nầy qua người khác, cuối cùng bà Tùng nói nhỏ: - Bù lại chúng tôi xin biếu một số lớn ngoại tệ, như vậy cũng sòng phẳng. Đến đây, ông bà Thung đều huớng về phía Phước chờ đợi. Phước tỏ vẻ thông cảm: - Cháu cám ơn nhiều, cháu thì nghèo, tiền bạc rất qúy đối với cháu nhưng mục đích kiếm người vợ ăn đời ở kiếp với nhau chứ không bao giờ nghĩ đền vấn đề mua bán đổi chác trong hôn nhân. - Không phải hôn nhân thật sự đâu cháu, đây chỉ làm thủ tục để hai mẹ con ra đi chính thức. Qua đó sau một thời gian theo luật định sẽ ra tòa xé giấy hôn thú. - Dạ cháu hiểu nhưng cháu không nhận. Ông Tùng đứng dậy tiến đến trước mặt và đặt tay lên vai Phước: - Cháu là một thanh niên liêm sĩ và khí khái thật hiếm có. Con gái chúng tôi vì một hoàn cảnh đặc biệt không thể kết hôn với cháu được. Chúng tôi rất lấy làm tiếc và mong ông bà cũng như cậu bỏ qua. Khác với thái độ ban đầu, chủ nhà tiễn khách ra đến cửa. Trước khi bắt tay từ giã, ông bà Tùng ân cần: - Vợ chồng tôi rất hân hạnh mời ông bà cùng cậu đến dùng bữa cơm gia đình xem như chúng ta làm quen kết thân với nhau. Phước đáp lời thay: - Dạ rất hân hạnh, cháu về đây bạn bè cũng nhiều, cho phép cháu xem lại và sẽ điện thoại đến ông bà sau. - Được chúng tôi đợi. Trả lời để làm vui lòng chủ nhà nhưng rồi Phước không liên lạc gì với ông bà Tùng kể từ ngày đó.