Sau ngót 30 năm chiến tranh Việt Nam kết thúc, cộng đồng người Việt hải ngoại đã được chính phủ Việt Nam quan tâm đến bằng một ý nghĩa và một tình cảm khác. Từ vị thế của kẻ lưu vong từng bị kết tội "phản bội tổ quốc" vào những năm sau 1975, cộng đồng người Việt hải ngoại dần dần được công nhận là "khúc ruột ngàn dặm" và hôm nay đã trở thành một "một bộ phận không tách rời của cộng đồng dân tộc Việt Nam". Điều này được khẳng định trong Nghị quyết 36 ngày 26.03.2004 của Bộ Chính trị Đảng Cộng sản Việt Nam [1]. Sự hình thành cộng đồng người Việt hải ngoại Một hệ quả tất yếu của chiến tranh, xung đột ý thức, tôn giáo, mất tự do, đói nghèo là sự di cư. Câu tục ngữ "đất lành chim đậu" bất hủ của tiền nhân bao giờ cũng đúng: Một cộng đồng người Việt hải ngoại đã hình thành. Tính đến nay vẫn chưa có một thống kê chính xác về số người Việt hiện sống tại hải ngoại. Theo tài liệu của Bộ Ngoại giao Việt Nam, "hiện nay có khoảng 2,7 triệu người Việt Nam đang sinh sống ở gần 90 nước và vùng lãnh thổ, trong đó hơn 80% ở các nước công nghiệp phát triển" [2]. Phần lớn tập trung tại Mỹ và Canada, kế đến ở châu Âu (như Pháp, Đức, Ý, Hòa Lan,... ), Úc. Phần còn lại sống rải rác ở châu Á (như Nhật Bản, Đại Hàn, Đài Loan,...) và ở một số nước Phi châu cũng như Nam Mỹ. Riêng tại các xứ tư bản, sự hình thành cộng đồng người Việt hải ngoại đã trải qua nhiều giai đoạn: Trước 1975, người Việt đã có mặt tại một vài quốc gia. Ban đầu là nhóm di dân thời thuộc địa; phần lớn tập trung tại Pháp; không đông. Sau đó, vào thập niên 60-70, nhiều đợt sinh viên du học của miền Nam Việt Nam đã đến và các xứ tư bản như Mỹ, Canada, Nhật, Pháp, Tây Đức, Ý, v.v. theo các chương trình học bổng hoặc du học tự túc. Nhóm này tương đối đông nhưng vẫn chưa đáng kể. Sau 1975, cộng đồng người Việt hải ngoại mới thực sự trở thành một hình ảnh đáng chú ý. Nó đã tăng trưởng nhanh chóng qua nhiều đợt người rời bỏ xứ sở. Di tản 30.04.1975: Đợt này đánh dấu cuộc ra đi lớn đầu tiên của người Việt vào những ngày cuối cùng của chiến tranh Việt Nam. Cuộc di tản chủ yếu bằng đường biển bao gồm nhiều binh sĩ miền Nam, thân nhân của họ và thường dân. Hầu hết đã định cư một cách an toàn tại các nước tư bản, đại đa số tại Hoa Kỳ. Vượt biên: Đây là làn sóng di tản kế tiếp của người Việt: lớn nhất và bi thảm nhất. Hằng triệu người sau vài năm sống với chế độ mới, không còn chịu đựng nổi sự khắc nghiệt, đã rời bỏ quê hương đi tìm tự do bất chấp mọi hiểm nghèo. Họ vượt biên bằng đường bộ xuyên qua Lào, Campuchia vào Thái Lan, song phổ biến nhất vẫn là vượt biển bằng tàu bè thô sơ đến các nước láng giềng (như Thái Lan, Mã Lai, Nam Dương, Singapore, Phi Luật Tân, Đài Loan, Hồng Kông,...). Dự đoán có vài trăm ngàn cho đến nửa triệu người đã bỏ mình trên biển cả. Người vượt biển còn hứng chịu nhiều tại họa dọc đường: gặp cướp biển, phụ nữ bị hãm hiếp, bị bắt đưa vào Bangkok bán dâm, đàn ông bị thiêu sống, bị quăng xuống biển, người ăn thịt người vì đói, người giết người giành nước uống vì khát, người bị cảnh sát đánh đập lúc đặt chân vào bờ, tàu bị kéo lui ra biển và đắm chìm, v.v. Đối với người sống sót, đó là một biến cố hãi hùng không thể nào quên và cũng là nguyên nhân của một mối thù truyền kiếp. Người vượt biên được đưa vào những trại tị nạn nằm rải rác khắp Đông Nam Á (như Pulau Bidong, Kota Bharu, Galang, Palawan,...), hoặc ở Nhật Bản, Đài Loan, Hồng Kông, chờ ngày được một nước thứ ba chấp nhận cho định cư. Đa số đều muốn tới Mỹ và trên thực tế, số người được định cư tại Mỹ cũng đông nhất. Người đi Mỹ nhờ có thân nhân bảo lãnh, hoặc thuộc diện đặc biệt, quân nhân miền Nam, còn không, chỉ trông chờ vào chính sách nhân đạo của chính quyền Mỹ. Những người không đi Mỹ đã được nhiều quốc gia thứ ba cho đoàn tụ gia đình tại nơi họ có thân nhân hoặc được chấp nhận định cư vì lý do nhân đạo. Họ được phân phối đều ở nhiều nước trên thế giới theo một hiệp ước đặc biệt về chủ đề tị nạn Đông Dương được ký tại Genève vào năm 1979 [3]. Đoàn tụ gia đình: Tiếp theo đợt vượt biên là đợt đoàn tụ gia đình. Đợt này bao gồm những người ruột thịt như cha mẹ, con cái vị thành niên muốn đoàn tụ với người thân của đợt vượt biên đã được định cư. Đợt này đông không kém đợt vượt biên. Chương trình HO: Đây là một chương trình di dân đặc biệt của Hoa Kỳ dành cho quân nhân VNCH cũ và thân nhân của họ. Diện này khá đông. Khối xã hội chủ nghĩa tan rã: Ngay khi bức tường Bá Linh sụp đổ, dân chúng từ khối Đông Âu lũ lượt đổ ùa sang Tây Âu, trong đó có hàng vạn người Việt, chủ yếu là công nhân "lao động hợp tác". Phần lớn dân Việt Nam ở Đông Đức cũ được chính quyền Đức chấp nhận cho định cư. Nhiều người Việt Nam ở các nước khác (như Tiệp Khắc, Liên Xô,...) cũng được vậy. Ngoài Đức, nhiều nước Tây Âu khác (như Ý, Hòa Lan, Anh,...) cũng chấp nhận họ. Người không được chấp nhận có huynh hướng quay về chốn cũ hoặc tìm đến các nơi dễ làm ăn buôn bán ở Đông Âu. Xuất khẩu lao động: Ngoài những diện kể trên còn có diện "xuất khẩu lao động" sau này. Hàng trăm ngàn người sống rải rác ở các xứ Mã Lai, Đài Loan, Nhật, Đại Hàn, Ả Rập và Trung Đông. Đại đa số là người lao động chân tay, hoặc giúp việc nhà. Họ không định cư mà sẽ trở về nước khi hợp đồng lao động vài năm hết hạn. Sự thành công của người Việt hải ngoại So với các cộng đồng di dân ngoại quốc khác, cộng đồng người Việt vẫn còn non trẻ nếu tính từ cột mốc năm 1975 cho tới nay. Tuy vậy, sau 31 năm, từ hai bàn tay trắng, người Việt hải ngoại đã làm được những việc phi thường. Đáng kể nhất là hai mặt: kinh tế và tri thức. Về mặt kinh tế, họ đã vững mạnh. Không kể người mới định cư, đại đa số đã an cư lạc nghiệp; rất nhiều người có đời sống sung túc. Theo báo chí trong nước, mức thu nhập hàng năm của cộng đồng người Việt hải ngoại đạt khoảng 30 tỉ USD [4]. Bất kể giàu nghèo, hầu như ai cũng có khả năng giúp người thân trong nước cùng phát triển. Ngày nay, tại các thành phố lớn ở Việt Nam như Sài Gòn, Hà Nội, Hải Phòng, Đà Nẵng, Vũng Tàu, Cần Thơ,... nền kinh tế tư nhân đang phát triển bùng nổ, âu phần lớn cũng là nhờ nguồn tài trợ của thân nhân ở nước ngoài. Cũng theo báo chí trong nước, "trong 5 năm 2001 - 2005, lượng ngoại tệ của kiều bào gửi về Việt Nam đạt gần 16 tỉ USD. Riêng năm 2005, kiều hối ước đạt 3,8 tỉ USD (tăng 42,9% so với năm 2004), cao hơn cả tổng vốn đầu tư nước ngoài thực hiện (khoảng 3,3 tỉ USD)" [5]. Đó là chưa kể nguồn ngoại tệ gián tiếp chảy về nước xuyên qua đường du lịch. Nguồn kiều hối còn có ích cho việc khác. Ông Trương Văn Phước, vụ trưởng Vụ Quản lý Ngoại hối của Ngân hàng Nhà nước, cho biết "khoản tiền 2 tỉ 600 triệu đô la do kiều bào gởi về trong năm ngoái (tức 2004 - DV) đã giúp cải thiện cán cân thanh toán của Việt Nam và giúp bù đắp 53% số thâm hụt của cán cân thương mại lên tới 5 tỉ 100 triệu đô la" [6]. Không những chỉ vững mạnh về mặt kinh tế, cộng đồng người Việt hải ngoại còn sản sinh ra một lực lượng tri thức đông đảo và xuất sắc chưa từng có trong lịch sử Việt Nam. Ước tính, một cộng đồng với khoảng 2,7 triệu người mà có đến 300 ngàn khoa học gia [7], chuyên gia, kỹ sư, bác sĩ, v.v. với trình độ quốc tế, tức là hơn 10% dân số cộng đồng. Một con số khá cao. Người Việt hải ngoại có mặt khắp nơi trong hầu hết mọi lĩnh vực khoa học kỹ thuật tiên tiến nhất thế giới. Từ việc thám hiểm vũ trụ cho đến việc chế tạo nhà máy nguyên tử, từ việc phát minh máy tính cá nhân cho đến việc chế tạo xe hơi, máy bay, từ việc tự động hóa nhà máy cho đến việc nghiên cứu vật lý lượng tử, từ việc viết hệ điều hành Windows cho tới việc làm phim hoạt họa Nemo, v.v., đâu đâu cũng có sự góp mặt của người Việt. Môi trường làm việc của họ là các viện nghiên cứu, đại học nổi tiếng: NASA, ESA, Frauenhof, Harward, Oxford, Michigan, Paris, Sydney, Montreal, Munich, Hamburg,... hoặc các tập đoàn, công ty lớn: IBM, Hewlett Package, Microsoft, Motorola, Intel, Acatel, Siemens, DaimlerChrysler, BMW, VW, Porsche, Boeing, Airbus, General Motor,... Họ đã góp phần không nhỏ vào việc phụng sự nhân loại và được quốc tế công nhận. Ngoài lĩnh vực khoa học kỹ thuật, còn vô số thương gia thành đạt. Tiếng Việt, một vấn đề lớn của cộng đồng người Việt hải ngoại Bên cạnh thành công, người Việt hải ngoại cũng có vấn đề. Tiếng Việt là một vấn đề nổi bật. Bức tranh toàn cảnh cho thấy tiếng Việt đang mai một dần theo từng thế hệ của cộng đồng người Việt hải ngoại: Thế hệ thứ nhất gồm những người cao niên đã có con và có thể có cháu. Họ thành thạo tiếng Việt. Thế hệ thứ hai là lớp trung niên. Họ sử dụng tiếng Việt ít nhuần nhuyễn hơn. Thế hệ thứ ba gồm thanh thiếu niên và trẻ nhỏ, khoảng 25 trở xuống. Thẩm năng tiếng Việt của thế hệ trẻ này thực sự đáng quan tâm. Nhiều yếu tố khách quan lẫn chủ quan đã tạo nên một hiện trạng vừa kể, song yếu tố cần để ý trước tiên vẫn là môi trường sống. Môi trường sống của người Việt hải ngoại là xứ người; ngôn ngữ chính được sử dụng không phải là tiếng Việt mà là tiếng bản xứ, tức một ngoại ngữ: Anh, Pháp, Đức, Nhật, Tiệp, Nga, v.v. Thế hệ thứ nhất khó học ngoại ngữ vì lý do tuổi tác. Nhìn chung, trình độ ngoại ngữ của họ chỉ đủ để giao tiếp, xem TV, đọc báo. Đối với họ như vậy cũng đủ để tồn tại. Mức hòa nhập của người có tuổi yếu hơn so với người trẻ tuổi. Người có tuổi thích sinh hoạt với người đồng hương hơn là với người bản xứ; nói nôm na là gặp người Việt dễ hạp hơn nhờ đồng ngôn ngữ, đồng văn hóa, đồng cảm nghĩ, đồng cảnh ngộ,... Người quan sát dễ nhận thấy hiện tượng người có tuổi thích đi chùa, đi lễ vào Chủ nhật mặc dù không hẳn vì nhu cầu tôn giáo. Mục đích chính của nhiều người là muốn gặp gỡ người đồng hương để trò chuyện cho vui tinh thần. Gia đình đối với họ cũng là một không gian tương tự. Chỉ ở những nơi ấy, họ được nói tiếng Việt. Tiếng mẹ đẻ trong hoàn cảnh tha hương quả là một món ăn tinh thần cần thiết. Họ gìn giữ nó như thể nó là cái căn cước của mình. Một cách gián tiếp, nó còn là một nhịp cầu tình cảm nối với quê hương. Sống giữa lòng một cộng đồng ngoại ngữ, người có tuổi vẫn xem tiếng Việt là ngôn ngữ chính. Thế hệ thứ hai là thế hệ hòa nhập vì sự nghiệp. Đây là một thế hệ song ngữ đúng nghĩa. Họ cần hai ngôn ngữ cho hai thế giới: tiếng bản xứ cho thế giới người bản xứ, và tiếng Việt cho thế giới người Việt. Khác với thế hệ thứ nhất, thế hệ thứ hai là thế hệ mưu sinh tích cực và bằng ngoại ngữ. Từ lúc vào trường học cho đến lúc ra trường đời họ chỉ dùng ngoại ngữ để giao tiếp, học hỏi và làm việc. Rất nhiều người là những chuyên gia cao cấp có thẩm năng ngoại ngữ hoàn hảo không thua kém người bản xứ. Họ cố gắng hòa nhập để làm việc thật tốt, mong chóng thành đạt hầu đạt địa vị, đời sống sung túc. Sự cố gắng hòa nhập còn có nghĩa là muốn nắm được một cộng đồng mà họ sẽ được hưởng mọi thứ trong đó giống như mọi người khác. Đối với họ, đó là những nhu cầu thực tế cho cuộc sống nơi xứ người. Không chỉ sống với thế giới bản xứ, thế hệ thứ hai còn sống với thế giới người Việt mà họ vẫn coi mình là một thành viên của nó. Trong gia đình, nhất là gia đình còn cha mẹ, họ chỉ nói tiếng Việt với cha mẹ. Với người thân lớn tuổi, với bạn bè người Việt, họ cũng dùng tiếng Việt. Phần đông đều có thẩm năng ngoại ngữ khá tốt. Tuy vậy, cảm giác ngôn ngữ của họ đối với ngoại ngữ vẫn không cao bằng đối với tiếng mẹ đẻ. Hầu như tất cả người thuộc lớp tuổi khoảng 45 trở lên đều cảm thấy nói tiếng Việt thoải mái hơn nói tiếng Anh, tiếng Đức, tiếng Pháp,... Thế nhưng, tiếng Việt mà họ sử dụng là tiếng Việt dùng để chuyện trò bình thường; số từ vựng không nhiều. Đụng một đề tài chuyên môn, văn chương hoặc có tính hàn lâm, rất nhiều người thiếu từ để diễn đạt. Họ thường chêm ngoại ngữ hoặc hỏi lại từ đó tiếng Anh gọi là gì. Vốn từ vựng tiếng Việt của thế hệ thứ hai có nguy cơ giảm sút theo thời gian vì quên, hoặc không gia tăng nếu không thường xuyên đọc sách báo tiếng Việt. Mức độ sinh hoạt tiếng Việt thường xuyên của mỗi người cũng khác nhau. Người sử dụng tiếng Việt nhiều nhất trong thế hệ thứ hai thường là người thuộc gia đình gia giáo, giới trí thức, văn nghệ sĩ, tu sĩ, giới truyền thông, người ở nơi người Việt tập trung đông đảo, và đặc biệt là người sống trong cộng đồng khép kín. Tiêu biểu cho cộng đồng khép kín là cộng đồng người Việt lao động hợp tác cũ ở châu Âu. Người Việt của cộng động này có khuynh hướng sống quanh quẩn trong tập thể của mình. Khả năng ngoại ngữ của họ có giới hạn. Họ được gửi sang Đông Âu lao động nhưng không được học tiếng bản xứ trừ những người thợ cả. Cấp trên của họ là người bản xứ. Khi muốn giao việc, người cấp trên chỉ cần nói chuyện với anh thợ cả bằng tiếng Đức, tiếng Tiệp, tiếng Ba Lan, rồi anh ta sẽ dịch lại cho người Việt của mình. Trong hoàn cảnh ấy, người lao động Việt Nam thực sự không quan tâm đến ngoại ngữ. Họ đến xứ lạ là để làm việc, sau vài năm hết hợp đồng rồi về nước, chứ không ai nghĩ sẽ sống lâu dài ở đó. Họ chấp nhận mình là kẻ thấp hèn, không biết tiếng nước ngoài, xa gia đình đi làm thuê, miễn sao kiếm được đồng tiền để trả nợ, để gửi về người thân bên Việt Nam, hoặc dành dụm cho tương lai để khi trở về, họ sẽ xây được một ngôi nhà cho gia đình, có chút vốn làm ăn, đủ tiền cho con cái ăn học. Đó là ước mơ của họ. Bất thình lình bức tường Bá Linh đổ xuống. Nhiều người được ở lại và xem đó như một cơ hội trời cho sẽ giúp mình dễ dàng làm ăn và sẽ trở nên giàu có. Đa số không được học nghề. Họ làm cật lực bằng đủ thứ việc không khác nhiều người Việt bên Mỹ làm mỗi ngày hai ba job. Từ ngày không còn anh thợ cả bên cạnh, họ phải tự trang bị cho mình một vốn liếng ngoại ngữ tối thiểu để giao tiếp. Ngoài giờ làm việc, họ vẫn nói tiếng Việt và quây quần trong cộng đồng người Việt giống như người Hoa ở Chợ Lớn vậy. Ít ai cảm thấy nơi mình định cư là quê hương thứ hai. Thế nhưng suy nghĩ ấy đã chạm phải điều mâu thuẫn. Một mặt người ta xem châu Âu là đất tạm dung, không cần hội nhập, mặt khác, không ai muốn trở về nước. Sự giằng co giữa "ở lại" và "trở về" kéo dài từ năm này qua năm khác trong khi con cái họ phải đến trường, cần hội nhập để tồn tại. Trên thực tế, rất nhiều người cũng không muốn con cái mình được giáo dục ở Việt Nam. Họ giải thích, dẫu sao học ở châu Âu vẫn thuận tiện hơn, không tốn tiền, có chất lượng hơn, có tương lai hơn. Rốt cuộc, một phần vì tương lai con cái, một phần vì phải kiếm tiền gửi về giúp gia đình bên Việt Nam, người "lao động hợp tác" nào cũng muốn ở lại, tiếp tục lao động, và tự nhiên trở thành những con người hy sinh cao quý. Nhiều người thường than thở, người thân của mình bên Việt Nam ở nhà lầu, có tiền gửi về tiêu thoải mái, có biết rằng, mình bên này ở nhà thuê, cầy bừa như trâu ngựa? Tóm lại, thế hệ thứ hai sử dụng hai ngôn ngữ chính: tiếng Việt và tiếng bản xứ. Thế hệ thứ ba được hiểu là thế hệ Việt Nam sinh đẻ ở hải ngoại, hoặc định cư ở hải ngoại lúc còn bé và lớn lên ở đó. Sự thành công nổi bật nhất của thế hệ này là việc học. Các em đã tạo được ấn tượng tốt ngay từ lúc mới bước chân vào vườn trẻ và tiếp tục ở tiểu học, trung học. Hầu hết các em đều dẫn đầu lớp hoặc có học lực giỏi. Giáo viên thường giải thích về hiện tượng này rằng, ngoài tính thông minh, chăm chỉ và nghị lực của trẻ em Việt, "cây roi" của cha mẹ cũng là một áp lực khiến các em trở thành học sinh giỏi. Người Việt có truyền thống lâu đời là muốn con cái ăn học thành tài và nhất là phải hơn người. "Con hơn cha, nhà có phúc" là câu tâm niệm muôn đời. Đứa con đứng đầu lớp đối với người cha, người mẹ là một niềm hãnh diện. Họ chấp nhận họ là hạng người ít học, làm nghề lau chùi toilet, làm culi,... nhưng con họ phải khá. Có cảnh cha mẹ chấp nhận mình là hạng dân lao động hợp tác, không có nghề nghiệp chuyên môn, phải đi bán chợ trời, nhưng không để con cái thất học. Có cảnh một người phụ nữ trẻ đi vượt biên, chồng bị hải tặc giết chết, mình bị hãm hiếp nhưng may mắn còn sống sót, bồng được đứa con sang Mỹ trong một hoàn cảnh đơn thân, tủi nhục, nhưng vẫn lo cho con mình ăn học đàng hoàng. Có nhiều trẻ xuất thân từ gia đình có cha đi học tập cải tạo, mẹ ở nhà phải bươn chải lo cho chồng ở trong tù, lo cho con được cắp sách tới trường. Nhờ sự cảm nhận về những kinh nghiệm bất hạnh của cha mẹ, đứa trẻ đã cương quyết vươn lên. Nói chung, nhờ những động lực khác thường, rất nhiều trẻ em Việt Nam đã trở thành những sinh viên xuất sắc và chuyên gia lỗi lạc sau này. Thế hệ thứ ba của cộng đồng người Việt hải ngoại thành công nhờ hòa nhập. Không những hòa nhập mà là còn hơn thế nữa. Người quan sát có lý do để tiên đoán một viễn ảnh: hòa nhập rồi hòa tan. Rất dễ nhận thấy những vấn đề sẽ xảy ra trong quá trình phát triển về ngôn ngữ của trẻ nhỏ Việt Nam ở hải ngoại tựa như hình ảnh sau đây: Lan sinh năm 1985, tại Stuttgart, Đức; bố mẹ là người Việt [8]. Lan biết nói từ lúc được một tuổi rưỡi. Đến năm ba tuổi, Lan đã nói chuyện với cha mẹ bằng tiếng Việt khá tự nhiên. Đến tuổi này, giống trẻ em khác, Lan đi vườn trẻ và bắt đầu tập nói tiếng Đức. Ban đầu, Lan bị khó khăn vì gặp ngôn ngữ lạ. Ở nhà Lan vẫn nói tiếng Việt với bố mẹ và chưa có dấu hiệu gì thay đổi. Sau một tháng, Lan đã bập bõm nói được vài chữ tiếng Đức. Sau 1 – 1,5 năm, tiếng Đức của Lan khá lên còn tiếng Việt yếu dần. Lắm lúc thiếu từ tiếng Việt, Lan phải chêm một từ tiếng Đức vào. Mới đầu là từ, sau đó là câu cú. Khi cô bé đã nói được tiếng Đức khá chuẩn như bạn bè trong lớp, thì cha mẹ cứ phải thường xuyên sửa lại tiếng Việt của con mình cho đúng ngữ pháp tiếng Việt. Đây là một vấn đề song ngữ phổ biến nơi trẻ nhỏ Việt Nam ở hải ngoại. Đến năm sáu tuổi, Lan vào tiểu học. Hết tiểu học, Lan lên trung học. Suốt 13 năm đi học, Lan chỉ học toàn tiếng Đức. Ở nhà Lan vẫn nói tiếng Việt với cha mẹ. Mỗi cuối tuần cô bé còn được gửi đi học thêm tiếng Việt do người Việt tổ chức. Mặc dầu có cơ hội trau dồi tiếng Việt, nhưng đối với Lan, muốn diễn đạt một điều gì bằng tiếng Việt quả là khó hơn bằng tiếng Đức. Mọi cố gắng của cha mẹ Lan muốn con mình nói đúng tiếng Việt theo thời gian đã từ từ trở nên vô hiệu quả. Cứ vài năm, cha mẹ lại đưa Lan về Việt Nam du lịch, cốt tạo dịp cho con mình tiếp xúc với môi trường chỉ toàn người Việt để trau dồi tiếng mẹ đẻ. Sau mỗi lần như thế, tiếng Việt của Lan khá hẳn lên, nhưng chỉ được một thời gian ngắn thì đâu lại vào đó. Người quan sát có thể nhìn thấy chi tiết hơn về mặt nói tiếng Việt của trẻ em Việt Nam ở hải ngoại như sau:
[1]Nghị quyết 36 của bộ Chính trị về công tác đối với người Việt Nam ở nước ngoài. http://www.mofa.gov.vn/vi/vd_quantam/ns041215094700] [2]xem [1]. [3]xem http://www.km.bayern.de/blz/web/old_100111/feske.htm [4]Theo VietNamNet: Tiềm năng của doanh nhân VN ở nước ngoài rất lớn, nhưng việc thu hút nguồn lực này đầu tư về nước lại chưa đạt hiệu quả cao. http://vietnamnet.vn/kinhte/2006/09/614489/ [5]Theo Thứ trưởng Bộ KH-ĐT Nguyễn Ngọc Phúc, xem [4] [6]Theo tin đài VOA:. http://www.voanews.com/vietnamese/archive/2004-01/a-2004-01-02-9-1.cfm [7]Bộ Ngoại giao Việt Nam: http://www.mofahcm.gov.vn/vi/mofa/nr040807104143/nr040807105001/ns050812135039 Xem thêm: http://www.vnpost.mpt.gov.vn/bao_2005/so36/chuyende/t8b1.htm [8]Dữ liệu đã được thay đổi. [9]Xem giải thích ở Ngữ pháp chức năng tiếng Việt, quyển 1, Câu trong tiếng Việt của Cao Xuân Hạo et al., nxb Giáo Dục, 2000. [10]Xem giải thích chi tiết ở Tiếng Việt và Ngôn ngữ học hiện đại - Sơ thảo về cú pháp, cùng tác giả. Tủ sách talawas: showFile.php?res=3244&rb=0202 [11]Halliday M.A.K, Angus McIntosh, Peter Strevens (1964) The Linguistic Sciences and Language Teaching. London: Longmans. [12]Theo tài liệu http://www.destatis.de/presse/deutsch/pm2006/p1340025.htm [13]Theo tài liệu http://www.frankreich-experte.de/modules.php Xem thêm http://www.migration-info.de/migration_und_bevoelkerung/artikel/030606.htm [14]Trừ vài cộng đồng rất ít người như Nhật và Đại Hàn chưa được khảo sát.
- Mắc lỗi ngữ pháp, ngữ nghĩa. Ví dụ nghe ai gọi điện thoại muốn nói chuyện với mẹ, thỉnh thoảng Lan trả lời là "Con mẹ không có nhà". Đúng ra phải nói là "mẹ con không có nhà". Lỗi ngữ pháp này xuất phát từ thói quen của trẻ Việt là nghĩ trong đầu bằng câu tiếng bản xứ trước, rồi sau đó mới dịch sang tiếng Việt. Câu tiếng Đức là "Meine (của con) Mutter (mẹ) ist nicht zu Hause (không có nhà)". Lan dịch "Meine Mutter" thành "con mẹ" theo nguyên tắc 1 đối 1, chỉ bỏ chữ "của" vì thấy người Việt cũng thường hay bỏ. Dĩ nhiên khi được sửa lại, Lan sẽ nói đúng. Song đôi lúc cô bé lại quên do đã bị ngữ pháp tiếng Đức chi phối quá nặng nề. Hoặc khi bố đi làm về, Lan mừng rỡ reo lên "Ba tới rồi". Đáng lý phải nói là "Ba về rồi". Cô bé mắc lỗi này vì đã dịch "Papa kommt" thành "Ba tới". Động từ "kommt" của tiếng Ðức (nguyên mẫu: kommen) không phân biệt "về" hay "tới", và Lan cũng không phân biệt.
- Nói lắp hoặc ngượng nghịu cũng thường xảy ra khi đứa bé cố gắng lập một câu tiếng Việt phức tạp. Nói lắp ở đây không phải là cố tật nói cà lăm bình thường mà do chưa nghĩ ra được từ kế tiếp, đứa bé phải dừng lại và lặp lại từ cũ. Nói ngượng nghịu là do dùng một từ không thích hợp hoặc tìm cách lập một câu theo ngữ pháp ngoại quốc để diễn tả một nội dung phức tạp khác hẳn nguyên tắc Đề-Thuyết [9] và tịnh tiến đặc thù của tiếng Việt [10]. Đối với những câu ngắn thông dụng, đứa bé ít bị lỗi này.
- Nói lớ. "Đây" nói thành "tây". "Rồi" nói thành "gồi", v.v.
- Nói giọng nhẹ, có ngữ điệu. Tuy tiếng Việt không có ngữ điệu, đứa bé vẫn lên giọng xuống giọng như nói tiếng Anh, tiếng Đức, tiếng Pháp.
- Chêm từ ngoại quốc do thiếu vốn từ vựng tiếng Việt hoặc do thói quen.
[1]Nghị quyết 36 của bộ Chính trị về công tác đối với người Việt Nam ở nước ngoài. http://www.mofa.gov.vn/vi/vd_quantam/ns041215094700] [2]xem [1]. [3]xem http://www.km.bayern.de/blz/web/old_100111/feske.htm [4]Theo VietNamNet: Tiềm năng của doanh nhân VN ở nước ngoài rất lớn, nhưng việc thu hút nguồn lực này đầu tư về nước lại chưa đạt hiệu quả cao. http://vietnamnet.vn/kinhte/2006/09/614489/ [5]Theo Thứ trưởng Bộ KH-ĐT Nguyễn Ngọc Phúc, xem [4] [6]Theo tin đài VOA:. http://www.voanews.com/vietnamese/archive/2004-01/a-2004-01-02-9-1.cfm [7]Bộ Ngoại giao Việt Nam: http://www.mofahcm.gov.vn/vi/mofa/nr040807104143/nr040807105001/ns050812135039 Xem thêm: http://www.vnpost.mpt.gov.vn/bao_2005/so36/chuyende/t8b1.htm [8]Dữ liệu đã được thay đổi. [9]Xem giải thích ở Ngữ pháp chức năng tiếng Việt, quyển 1, Câu trong tiếng Việt của Cao Xuân Hạo et al., nxb Giáo Dục, 2000. [10]Xem giải thích chi tiết ở Tiếng Việt và Ngôn ngữ học hiện đại - Sơ thảo về cú pháp, cùng tác giả. Tủ sách talawas: showFile.php?res=3244&rb=0202 [11]Halliday M.A.K, Angus McIntosh, Peter Strevens (1964) The Linguistic Sciences and Language Teaching. London: Longmans. [12]Theo tài liệu http://www.destatis.de/presse/deutsch/pm2006/p1340025.htm [13]Theo tài liệu http://www.frankreich-experte.de/modules.php Xem thêm http://www.migration-info.de/migration_und_bevoelkerung/artikel/030606.htm [14]Trừ vài cộng đồng rất ít người như Nhật và Đại Hàn chưa được khảo sát.