LGT: Ambrose Bierce là một nhà văn Mỹ. Sinh sống tại Horse Cave Creek thuộc Ohio. Xuất thân từ một gia đình nông dân. Ông là Thiếu Tá trong quân đội các bang miền Bắc trong cuộc nội chiến Mỹ. Làm báo. Nổi tiếng về truyện dị thường, phân tích tâm lý. Bị mất tích tại Mexico. Vào năm 1830 chỉ cách xa nơi mà giờ đây là thành phố lớn của Cincinnati vài dặm, là cánh rừng mênh mông và hoang vu hầu như chưa ai khai phá. Toàn bộ vùng này chỉ thưa thớt những cư dân của vùng biên giới - những con người làm việc không ngơi nghỉ. Họ đã chặt cành, đốn cây, để rồi sau đó ít lâu biến nơi hoang vu thành nhà ở và trở nên giàu có, nhưng sự giàu có ấy ngày nay chúng ta gọi là sự bần cùng. Thế rồi, bị thôi thúc bởi những bản năng bí ẩn, họ bỏ lại tất cả và đổ xô nhau đi xa hơn về phía Tây. Họ nỗ lực hơn để rồi lại phải đương đầu với những thiếu thốn và hiểm nguy khác, để rồi lại chuốc lấy sự nghèo nàn như cũ mà trước kia họ đã từng cố dứt bỏ. Nhiều người lại sẵn sàng từ bỏ miền đất ấy để tìm đến nơi định cư xa hơn. Nhưng trong số những người ở lại, có một người vốn là một trong những người đầu tiên đến đây. Ông sống đơn độc trong một căn nhà gỗ, tứ bề là rừng già âm u và hoang vắng mà ông cũng dự phần vào sự lặng lẽ và ảm đạm đó. Bởi vì, không một ai thấy ông cười hay nói một lời nào không cần thiết. Những nhu cầu đơn giản của ông chỉ là buôn bán hay đổi chác những bộ da thú hoang tại thị trấn ven sông. Bởi lẽ, ông không cần thiết một thứ gì trong vùng, mà nếu có cần, thì ông chỉ yêu cầu một cái quyền không bị quấy rầy mà thôi. Thế rồi, có vài dấu hiệu của "sự cách tân", đó là vài mẩu rừng xung quanh căn nhà gỗ của ông đã có lần bị đốn trụi cây. Những gốc cây tàn lụi dần dần phô bày lớp đất mới đã từng được cải tạo bằng chiếc rìu. Nhìn chung, hình như lòng nhiệt huyết đối với nông nghiệp của ông đã bốc cháy với ngọn lửa leo lét, để lại nắm tro tàn của sự ăn năn. Căn nhà gỗ nhỏ bé với ống khói bằng cây, mái nhà bằng những ván ghép cong cong đè nặng trên những cây sào bắc ngang và những khe hở được trét bằng đất sét. Căn nhà chỉ có một chiếc cửa ra vào. Đối diện với một chiếc cửa sổ. Tuy nhiên, chiếc cửa sổ đã bít kín bằng ván - không ai có thể nhớ được nó còn mở ra vào khi nào. Và cũng không ai biết vì sao nó lại được đóng chặt như thế; chắc chắn rằng không phải vì chủ nhân không thích ánh sáng và không khí, bởi vì vào những dịp hiếm hoi mà một người thợ săn đi ngang qua vùng đất hoang vu này vẫn thường thấy con người ẩn dật đó đứng trên bậu cửa nếu như bầu trời hôm đó có nắng. Tôi cho rằng có rất ít người còn sống đến nay biết được điều bí mật của cánh cửa sổ đó, thế nhưng các bạn sẽ thấy tôi là một trong số còn lại ít ỏi đó. Người đàn ông tên gọi là Murlock. Ông ta trông như là ông già 70 tuổi mặc dù tuổi thật của ông chỉ vào khoảng 50. Ông chẳng có gì trong tay ngoại trừ tuổi tác. Tóc dài, râu rậm và bạc trắng, đôi mắt xám trũng sâu, khuôn mặt ông ta thật khác thường với những nếp nhăn trông như những hệ thống xa lộ giao nhau. Ông có dáng dấp cao và gầy gò, còng lưng tôm - vốn là một người mang vác nặng. Tôi chưa bao giờ gặp ông, những nét đặc biệt này tôi chỉ biết được từ ông nội tôi, người đã kể cho tôi nghe về ông già này khi tôi còn là một cậu bé. Sở dĩ ông nội tôi biết rõ vì ngày đó ông sống ở gần đấy. Một ngày nọ người ta tìm thấy ông già Murlock trong túp lều, đã chết. Thời bấy giờ không phải là thời kỳ mà những vụ chết bất ngờ được báo chí và pháp y quan tâm. Người ta đồng ý rằng cái chết của ông là do những nguyên nhân tự nhiên. Tôi chỉ biết rằng, xác ông được chôn gần túp lều, bên cạnh mộ của vợ ông, người đã mất trước ông khá lâu rồi mà truyền thuyết của địa phương còn lưu giữ mồn một về sự tồn tại của nàng. Điều đó sẽ khép lại chương cuối câu chuyện có thật này. Thật vậy, ngoại trừ chi tiết nhiều năm sau đó, cùng với một người bạn gan dạ, tôi đã đột nhập vào nơi ấy, mạo hiểm đến gần túp lều đổ nát, ném viên đá vào đó rồi chạy thật xa để tránh hồn ma mà những đứa con trai vốn là thổ công nơi đây biết là vẫn thường hay lui tới túp lều hẻo lánh đó. Nhưng, có một chương đầu của câu chuyện được ông nội tôi kể lại. Khi Murlock dựng túp lều và bắt đầu khởi công khai phá lập nông trại với một quyết tâm mạnh mẽ. Khẩu súng lúc ấy là trụ cột vững chắc của ông - ông còn trai trẻ khỏe mạnh và đầy lạc quan. Ngay tại miền đất phía đông nơi ông đến ấy, ông đã lấy vợ. Như là có duyên phận, một người phụ nữ trẻ đẹp vẹn toàn xứng đáng với sự tận tụy hết lòng của ông, người đã chia xẻ một cách toàn tâm toàn ý số phận đầy hiểm nguy cũng như khốn khó của ông. Không một giấy bút nào ghi lại danh tính của nàng, vẻ quyến rũ cũng như sự thông minh của nàng. Truyền thuyết lai lịch cá nhân nàng là sự im lặng. Và những kẻ đa nghi vẫn cứ tự do ấp ủ sự hoài nghi của mình. Nhưng lạy trời cho câu chuyện tôi sẽ kể ra đây đừng có thật - Câu chuyện về tình yêu và hạnh phúc của họ. Tình yêu đó vẫn cứ bền vững và đầy ăm ắp trong những ngày còn lại của người đàn ông góa vợ. Bởi vì có cái gì ngoài những hồi ức quyến rũ và hạnh phúc có thể trói buộc một con người dám nghĩ dám làm vào một số phận như thế? Một ngày nọ Murlock đi săn từ cánh rừng xa trở về thì thấy vợ ông mệt lả vì sốt và mê sảng. Không có thầy thuốc nào gần đó không có hàng xóm cũng như không có phương tiện nào để chuyển nàng đi hoặc kêu gọi ai đó giúp đỡ. Thế là ông phải làm tất cả công việc của một y tá để chăm sóc cho nàng. Nhưng cuối ngày thứ ba thì nàng rơi vào tình trạng mất ý thức và qua đời, hoàn toàn không còn một tia hy vọng nào của sự hồi sinh. Từ những điều chúng ta biết về bản chất tự nhiên của một con người giống như Murlock chúng ta có thể phác họa thêm vài chi tiết trong bức tranh mà ông nội tôi đã vẽ nên. Khi mọi người thuyết phục rằng nàng đã chết. Murlock vẫn đủ sáng suốt để nhớ rằng người chết cần phải được đem chôn. Trong khi thực thi bổn phận thiêng liêng này thỉnh thoảng ông lại tỏ ra ngớ ngẩn, làm những việc không đúng vào đâu cả, kể cả những công việc mà ông đã từng làm đi làm lại một cách chuẩn xác. Ông thực hiện những công việc đơn giản thường nhật với vẻ đầy kinh ngạc như thể một người đàn ông say rượu băn khoăn về sự ngừng nghỉ của những quy luật tự nhiên. Ông bàng hoàng đến nỗi không thể khóc - bàng hoàng và có phần hơi hổ thẹn, hiển nhiên rồi vì thật không phả khi không khóc cho người đã chết. "Ngày mai", ông nói to "Ta sẽ làm một chiếc quan tài và đào cái huyệtp rồi thì ta sẽ nhớ nàng, khi không còn thấy nàng bên cạnh nữa. Nhưng còn bây giờ - nàng đã chết rồi, dĩ nhiên rồi, thế nhưng mọi việc sẽ ổn thôi, dù có gì đi chăng nữa, mọi việc cũng phải ổn thôi. Mọi việc không thể quá tồi tệ đến như thế. Ông đứng cạnh thi hài nàng trong ánh đèn mờ nhạt, sửa lại mái tóc và hoàn thành công việc rửa ráy và trang điểm cho nàng. Ông đã làm tất cả mọi việc một cách máy móc, vô ý thức. Từ trong tiềm thức, ông không có cảm giác chắc chắn rằng mọi việc đều ổn thỏa, rằng ông sẽ có nàng như trước kia và mọi điều rồi sẽ dễ hiểu thôi. Ông chưa từng có kinh nghiệm về nỗi buồn, sự chịu đựng của ông chưa từng cạn kiệt. Trái tim ông không thể chứa đựng hết tất cả điều đó, cũng như trí tưởng tượng của ông không chấp nhận hoàn toàn điều đó. Ông không biết rằng ông bị một cú choáng khá mạnh, nhận thức của ông về sự mất mát sẽ đến hơi muộn một chút nhưng chẳng bao giờ rời đi nữa. Nỗi buồn là một nghệ sĩ đầy tài năng với đủ các loại nhạc cụ khi tấu lên bản nhạc sầu bi cho người chết, gợi lên từ những bản nhạc này những âm thanh cao vút, từ những bản khác những hợp âm trầm thấp đập đều đều giống như tiếng trống ở xa xăm. Có bản nhạc làm người ta giật mình, có bản làm người ta trở nên ngây độn. Đối với người này, bản nhạc ấy lại giống như mũi tên đâm vào tính nhạy cảm, vào đời sống tinh tế của anh ta. Nhưng đối với người khác nó giống như một cú đập bằng dùi cui làm cho anh ta tê liệt hẳn. Chúng ta thừa nhận Murlock đã bị ảnh hưởng theo lối đó, bởi vì (bây giờ chúng ta đã có căn cứ vững chắc hơn là sự phỏng đoán trên) chẳng bao lâu sau khi hoàn tất những công việc đạo nghĩa, ông ngồi thỏm trong ghế cạnh chiếc bàn để thi hài và thắc mắc không hiểu vì sao mà khuôn mặt trông nghiêng của nàng sầu thảm đến thế. Ông khoanh tay trên cạnh bàn và úp mặt trên đôi tay, mắt ráo hoảnh, nhưng sầu thảm vô cùng. Ngay chính giây phút đó, một tiếng kêu gào dài giống như tiếng khóc của một đứa trẻ đi lạc, vang vọng qua cửa sổ, từ phía xa trong rừng thẳm. Nhưng ông vẫn không động đậy. Một lần nữa, tiếng kêu gần hơn trước. Tiếng kêu kỳ bí ấy không đánh động được ông. Có lẽ đó là một con thú hoang, cũng có thể là một giấc mơ. Bởi vì Murlock đã ngủ thiếp đi. Vài giờ sau khi tiếng kêu xuất hiện, người canh giữ không trung thành này tỉnh giấc và ngẩng đầu lên chú ý lắng nghe - Ông không biết tại sao ông làm thế. Có một hình thù tối sẫm cạnh xác chết, gợi cho ông nhớ lại tất cả chẳng cần một cú sốc. Ông căng mắt ra để nhìn mà không biết mình nhìn cái gì. Tất cả những giác quan của ông như được báo động. Nhịp thở của ông như ngưng lại, máu ngừng chảy trong mạch máu, như thể cưỡng lại sự im lặng kia. Ai - cái gì, đã đánh thức ông, nó đâu rồi? Bất thình lình, chiếc bàn lắc dữ dội dưới tay ông. Ngay lúc đó ông nghe, hoặc tưởng rằng đã nghe tiếng một bước chân nhẹ nhàng - rồi một bước chân nữa - âm thanh nghe như thể bước chân trần trên sàn nhà! Ông kinh hoàng đến nỗi không thể la lên hoặc cử động. Cần thiết phải chờ đợi, chờ đợi ở đó trong bóng tối, chờ lâu như hàng thế kỷ trong sự kinh hoàng mà nếu ai từng chứng kiến chưa chắc gì còn sống để kể lại. Ông cố gắng một cách vô vọng để gọi tên người phụ nữ đã chết, vô vọng khi vươn tay về phía trước trên chiếc bàn xem nàng có ở đấy không. Cổ họng ông bất lực, còn đôi tay thì quờ quạng. Thế rồi xảy ra một điều khủng khiếp. Những thân hình nặng nề xô vào chiếc bàn với một cú đẩy, húc mạch vào ngực ông đau nhói gần như đẩy ông ngã lăn. Cùng lúc ấy ông nghe thấy tiếng vật gì đó ngã đánh thịch lên sàn nhà mạnh đến nỗi căn nhà rung chuyển vì chấn động. Một cuộc ẩu đả xảy ra sau đó, kèm theo những âm thanh hỗn độn không thể nào tả nỗi. Murlock đã đứng dậy được, nhưng nỗi sợ hãi quá mức đã tước mất mọi bản năng vốn có của ông. Ông quờ tay lên bàn. Không còn gì trên đó. Có một điều là nỗi kinh hoàng có thể dễ dàng chuyển thành điên loạn và sự mất trí ấy sẽ kéo theo những hành động. Với ý định không thể định nghĩa được, cũng không có một động cơ nào, nhưng với sự thôi thúc không cưỡng nỗi của một người mất trí, ông mò mẫm chộp lấy khẩu súng nặng, nhảy về phía bức tường và nổ súng không mục đích. Ánh lửa đạn lóe lên làm căn phòng rực sáng. Ông trông thấy một con báo đen khổng lồ đang kéo xác người phụ nữ về phía cửa sổ, hàm răng của nó ngoạm lấy cổ họng nàng! Thế rồi bóng tối tràn ngập hơn trước và cuối cùng là sự im lặng. Khi ông hồi tỉnh lại thì mặt trời đã lên cao và trong rừng vang vọng tiếng những con chim hót. Thi hài nằm bên cạnh cửa sổ, nơi con thú hoảng sợ vì tiếng súng nổ và ánh lửa đã bỏ chạy làm rơi lại. Y phục nàng xộc xệch, mái tóc dài rối bời còn tay chân sắp lộn xộn. Từ cổ họng nàng, thật kinh hoàng, một vũng máu chưa kịp đông lại hoàn toàn. Dải nơ mà ông đã buộc nơi cổ tay nàng đã bị dứt đứt; đôi tay nàng nắm chặt lại. Giữa hàm răng là một mẫu tai của con thú. ĐÀO THỊ DIỄM TUYẾT dịch