Nguyễn Văn Lộc người làng Kỳ Sơn, huyện Tuy Viễn. Thuở nhỏ nhà nghèo phải đi ở chăn trâu cho một phú hộ trong làng. Nhờ có sức khỏe và can đảm nên được đàn trẻ cùng bọn tôn làm thủ lĩnh. Ngày ngày chăn trâu ngoài đồng, rảnh rang chuyên đi đánh nhau. Một hôm, vì ham chơi nên để trâu ăn lúa, về nhà bị chủ đánh mắng, hăm dọa, nên bỏ nhà ra đi. Sau 10 năm trở về đã thành một thanh niên cường tráng, sống bằng nghề làm thuê, gánh mướn. Một hôm đi chơi về khuya, bị đám canh tuần bắt trói vào cột đình, vu cho là đi ăn trộm. Trong đêm tối, nhân đám dân tuần ngủ quên, Lộc dùng miếng mảnh sành cắt dây trốn thoát. Dân canh tuần hơn 10 người đuổi theo điều bị đánh ngã, không đứng dậy nổi. Trời tối như mực, Lộc chạy lạc vào cánh đồng lúa chín, người giữ ruộng ngỡ là ăn trộm. Hô hoán ầm ĩ, người trong xóm tủa ra vây bắt. Người mỗi lúc mỗi đông, kẻ gậy người hèo, đuốc thắp sáng cả đồng, Lộc dùng tay đánh ngã hết lớp này đến lớp khác, nhưng không thoát khỏi vây. Liệu không thể dùng quyền, Lộc bèn giật lấy một cây roi của một tuần đinh rồi dùng chiêu thức đánh giải vây ra sử dụng. Đó là thế "toàn phong tảo diệp". Một ngọn roi vung ra, hàng chục người ngã rạp. Gậy, hèo văng tứ phía. Hoảng hồn, mọi người ùn ùn kéo nhau, xô lấn nhau mà chạy. Đuốc đang cầm tay vội quăng xuống đất, nhân bóng tối và hỗn loạn, Lộc lẹ làng thoát thân. Từ đấy, tiếng đồn Nguyễn Văn Lộc võ nghệ siêu phàm được lan truyền. Khi Tây Sơn vương tụ hội quần anh mưu đồ đại nghiệp, Nguyễn Văn Lộc liền đến gia nhập và được tiếp đãi vào hàng thượng tân. Khi Nguyễn Nhạc xưng vương, Nguyễn Văn Lộc được Phong làm Hữu Đô Đốc, cùng với Tả Đô Đốc Nguyễn Văn Tuyết theo đạo binh Nguyễn Nhạc tiến đánh huyện lỵ Tuy Viễn, rồi tấn công thành Quy Nhơn. Mùa thu năm Quí Tỵ (1773), Nguyễn Văn Lộc tháp tùng Nguyễn Lữ và Võ Văn Cao đi vào Phú Yên, Diên Khánh, Bình Thuận để xem xét tình hình dân chúng và liên lạc với hai vua Thủy Xá, Hỏa Xá, vận động nhân dân địa phương hưởng ứng cuộc Nam tiến của quân Tây Sơn. Phái đoàn về tâu rõ tình hình: mọi tầng lớp nhân dân ba tỉnh đều chán ghét chế độ độc tài tham nhũng của quan lại nhà Nguyễn, ai nấy đều mong có cuộc đổi thay. Còn quan quân nhà Nguyễn thì chỉ lo bóc lột nhân dân, không nghĩ gì đến việc an nguy quốc gia, cho nên việc phòng thủ rất lỏng lẻo. Mùa Đông năm ấy, Nguyễn Văn Lộc cùng Lê Văn Hưng theo Chinh Nam tướng quân Ngô Văn Sở vào đánh chiếm ba phủ Phú Yên, Diên Khánh, Bình Thuận. Quân đi đến đâu nhân dân hoan nghênh đến đó. Tướng nhà Nguyễn là Nguyễn Văn Hiền bị giết, Nguyễn Khoa Kiên bị bắt sống. Đại thắng, quân Tây Sơn rút về. Nguyễn Văn Lộc ở lại trấn thủ Phú Yên. Mùa Đông năm Giáp Ngọ (1774), được tin Châu Văn Tiếp dựng cờ khởi nghĩa tại Trà Lương, huyện Tuy An, Đô đốc Nguyễn Văn Lộc đem quân vây đánh. Quân của Châu Văn Tiếp chưa giáp trận đã tan rã. Tiếp tẩu thoát, leo lên núi thượng đạo vào Gia Định, cung thuận Định vương Nguyễn Phúc Tần. Mùa thu năm ấy, Tống Phước Hiệp cử đại binh chiếm Bình Thuận, tấn công Diên Khánh. Lê Văn Hưng trấn thủ Diên Khánh lui quân về Phú Yên, kết hợp với Nguyễn Văn Lộc chờ binh Nguyễn Huệ kéo vào đánh bại thủy, bộ binh của Tống Phước Hiệp, chiến thắng xong, Nguyễn Văn Lộc theo Nguyễn Huệ về Quy Nhơn. Năm Bính Ngọ (1786), Nguyễn Văn Lộc được thăng chức Thủy sư Đô đốc theo Tiết Chế Nguyễn Huệ đem đại binh ra đánh Thuận Hóa. Thành Thuận Hóa do Phạm Ngô Cầu trấn thủ, phó tướng Hoàng Đình Thể phụ tá. Phạm Ngô Cầu là tướng vô mưu lại tham lam, chỉ lo việc vơ vét của dân để làm giàu, còn việc quân thì giao cho kẻ thuộc hạ. Do tính tham lam, lòng đố kỵ, nghi ngờ, nên Cầu đã trúng kế Nguyễn Huệ ly gián giữa Cầu và Đình Thể. Nguyễn Huệ làm một phong thư để gởi cho Hoàng Đình Thể khuyên về hàng Tây Sơn, mà lại bắn vào cho Phạm Ngô Cầu xem. Cầu bắt đầu nghi ngờ Thể. Khi binh Tây Sơn vây đánh thành Phú Xuân, Ngô Cầu sai Đình Thể đem binh ra đánh, rồi đóng cửa thành không tiếp viện. Thể và hai con cùng tướng sĩ chết tại trận tiền. Nguyễn Văn Lộc một mình một ngựa xông vào phá cửa thành, vượt qua chướng ngại cùng binh giữ thành, xông thẳng vào dinh trấn thủ. Người ngựa đến đâu, thây người ngã ra đến đó. Vượt qua cổng dinh, Nguyễn Văn Lộc bắt gặp Phạm Ngô Cầu đang cùng gia đình khuân của cải chạy trốn. Bắt sống được Phạm Ngô Cầu, Nguyễn Văn Lộc lập công đầu. Thành Phú Xuân vừa hạ xong, Nguyễn Văn Lộc lại lên ngựa cùng Nguyễn Lữ, Võ Văn Nhậm tiến quân đánh lấy các doanh trại thuộc Quảng Trị, Quảng Bình. Chỉ trong mấy hôm, đất Thuận Hóa được bình định xong. Tháng 6 năm Bính Ngọ (1786), Nguyễn Văn Lộc ở lại giữ thành Phú Xuân cùng với Nguyễn Lữ để Nguyễn Huệ kéo quân ra Bắc Hà diệt chúa Trịnh. Tháng 11 năm Mậu Thân (1789), Quang Trung lên ngôi Hoàng đế, kéo quân ra Bắc diệt quân Thanh. Nguyễn Văn Lộc được phong Đại Đô đốc chỉ huy cánh quân phía tả, tiến lên Lạng Sơn, Phượng Nhãn, giữ vùng Yên Thế, chận đường rút lui của địch. Tôn Sĩ Nghị cùng binh tướng trên đường rút chạy về Nam Quan, bị quân của Đại Đô đốc Lộc đánh giết. Tôn Sĩ Nghị phải vứt bỏ tất cả sắc thư, ấn tín để lo chạy thoát thân. Sau khi vua Cảnh Thịnh lên ngôi, Nguyễn Văn Lộc được cử vào trấn thủ Quảng Nghĩa. Năm Đinh Tỵ (1797), Nguyễn Phúc Ánh kéo thủy binh ra đánh Quy Nhơn, song thất bại, bèn kéo quân ra đánh Quảng Nam. Thành Quảng Nam bị vây, nhờ có Lâm Thị Bạch cố thủ và viết huyết thư cầu cứu Nguyễn Văn Lộc đem binh ra đánh lui Nguyễn Phúc Ánh, giải vây cho thành Quảng Nam. Tháng giêng năm Canh Thân (1800), Nguyễn Văn Lộc kéo binh vào kết hợp với Trần Quang Diệu, Võ Văn Dũng vào cứu Quy Nhơn, bị Tống Viết Phước cầm chân tại Bình Đê. Vốn biết rõ địa thế của Quảng Nghĩa, Lộc đã đề nghị chia quân làm ba đạo theo ba ngõ đèo Bến Đá, núi Sa Lung và núi Cung Quăng vượt qua khỏi Bến Đá vào thẳng Quy Nhơn. Tháng năm năm Tân Dậu (1801), thành Quy Nhơn thất thủ. Trước đó, Phú Xuân cũng thất thủ. Tướng nhà Nguyễn là Lê Văn Duyệt cùng Lê Chất đem quân vào cứu Quy Nhơn, bị Tây Sơn chận đánh. Sau được tin Thuận Hóa hoàn toàn bị chiếm, Diệu và Dũng đem quân ra Nghệ An. Nguyễn Văn Lộc và Nguyễn Quang Huy đóng ở Dương An. Kỳ Sơn ở phía Đông Nam thành Quy Nhơn. Đó là một hòn thổ sơn chạy dài theo hướng Bắc Nam, bao quanh đến vài mươi dặm. Hình núi không đều, hai đầu mở rộng và cao, chính giữa hơi eo và thấp. Ở đầu phía Bắc nổi lên hai đỉnh đứng song song, một là hòn Phụng Sơn, một là hòn Xuân Sơn. Đầu phía Nam cũng có một đỉnh cao gần hai ngọn kia, tên là Mai Sơn. Trên núi gồm nhiều hòn đá lớn và có một cái hầm rộng ăn sâu vào núi, có tên là Qui Khanh tức là Hầm Rùa, vì trước miệng hang có một hòn đá hình giống con rùa. Thế núi rất hiểm trở. Vốn là người ở Kỳ Sơn, nên Nguyễn Văn Lộc biết rõ những nơi hiểm yếu. Với 80.000 quân, trấn phục hơn 20 cứ điểm hiểm trở, Nguyễn Văn Lộc đã cầm chân hơn 30 vạn quân của Lê Văn Duyệt và Nguyễn Văn Thành. Nhờ vậy mà thành Quy Nhơn được giữ vững. Năm Nhâm Tuất (1802), Nguyễn Văn Lộc nghe tin vua Cảnh Thịnh bị bắt, ông tự động giải tán quân sĩ, một mình lên núi Kỳ Sơn ẩn náu, dùng Hầm Rùa làm chốn nương thân. Nguyễn Quang Huy cũng lên núi Dương An trú ẩn, thỉnh thoảng về Phú Yên thăm quê hương và ra Kỳ Sơn thăm ông Lộc. Tuy nhà Tây Sơn mất, song Nguyễn Văn Lộc trong lòng vẫn nuôi chí phục hưng. Một hôm, ông Lộc hỏi ông Huy: - Cựu thần nhà Tây Sơn, văn cũng như võ, còn khá nhiều tay tài tuấn, sao không hợp sức lại cùng lo việc phục hưng. Như thế chẳng hóa ra là không tận trung với cựu chúa hay sao? Ông Huy đáp: - Những anh hùng nghĩa sĩ ra giúp nhà Tây Sơn từ ngày mới khởi nghĩa cho đến nay, không ai phụ nhà Tây Sơn. Tất cả đều lo tròn phận sự cho đến giờ chót, như thế là tận trung. Nhà Tây Sơn đã không còn nữa thì chúng ta tận trung với ai? Bầy tôi của vua Lê Chiêu Thống bo bo giữ lòng trung với cố chủ, nổi dậy đánh ở miền Bắc, hết lớp này đến lớp khác đã chẳng lợi gì cho nhà Lê mà còn làm khổ dân hại nước. Phải nghĩ đến dân đến nước trước. Không có thể làm lợi cho dân, cho nước thì nằm yên chớ đừng nên gây rối thêm. Trung với một người, một nhà, mà làm khổ cho dân cho nước thì trung ấy, kẻ chân chính không nên nghĩ đến. Trung ấy không phải là trung. Nguyễn Văn Lộc nghiệm thấy đúng, nên không còn nuôi mộng phục hưng nhà Tây Sơn nữa. Từ ấy không còn ai trông thấy ông xuất hiện nữa. Mây trời năm tháng thong dong.