Suốt ba tháng trời ròng rã, một hôm thuyền đến Ứng Thiên Phủ ( Kim Lăng). ứng Thiên Phủ là kinh đô cũ của nhà Minh, kể từ khi Chu Nguyên Chương cùng Quách Trí Hưng khởi binh ở Hào Châu, đem quân vượt Trường Giang chiếm cứ Tập Khánh, từ đó thu được thiên hạ, nên khi lên ngôi Hoàng Đế, đã chọn Tập Khánh làm kinh đô gọi là Kim Lăng, còn gọi là ứng Thiên Phủ, do đó, thành quách, đền đài cung điện vô cùng nguy nga lộng lẫy, nhà cửa san sát, dân cư đông đúc, việc buôn bán rất tấp nập, phồn thịnh. Ngày ấy, tuy nhà Nguyên đã bại vong, Nguyên Thuận đế Hậu phi và Thái Tử đã phải vượt Trường Thành bôn tẩu, nhưng lực lượng của Mông Cổ không phải đã hoàn toàn tan rã, thường liên tục nổi lên quấy nhiễu, hòng mưu đồ lấy lại nghiệp đế. Bởi vậy, Minh Thành Tổ, do lo họa Mông Cổ, nên đã dời đô, lấy đất Khai Phong làm kinh đô mới, gọi là BẮC KINH để đề phòng con cháu của Nguyên Thuận Đế và Khoách Quách Thiết Mộc Nhỉ. Việc dời đô này làm cho Trần Nguyên Huân vô cùng phân vân. Thường lệ, việc dời đô mang tính chất quân sự, chỉ có nghĩa là dời toàn bộ đầu não của Vương triều đến một nơi mới, hòng sẵn sàng đương đầu kịp thời với những biến loạn, do đó, cố đô vẫn được giữ nguyên và trở thành một kinh đô thứ hai. Việc dời đô này hoàn toàn khác với việc Đóng Trác thời Tam Quốc, ép Hiến Đế bỏ Lạc Dương về Trường An năm xưa. Bới vậy, Nguyên Huân vẫn còn một chút hy vọng, những văn hóa phẩm tịch thu từ Đại Việt vẫn còn được tàng trữ ở Thư Khố trong Hành Cung Kim Lăng. Điều hy vọng ấy thực ra rất mỏng manh, vì VẠN KIẾP BÍ TRUYỀN không phải chỉ là một tác phẩm văn hóa, mà còn là một bí kíp võ công, biết đâu nó chẳng nằm trong tay một kẻ khác. Việc tìm kiếm hết sức khó khăn, vô cùng diệu vợi. Nguyên Huân buồn bã ngày đêm, nhưng không phải vì vậy mà tiêu tan ý chí. Một ý nghĩ lóe lên trong đầu: Muốn truy tìm được bí láp, phải tìm cho ra kẻ tử thù, mà kẻ tử thù này, Nguyên Huân đã mơ hồ đoán ra. Trong suốt gần ba năm ở Võ Đang, Nguyên Huân thường lợi dụng những lúc cùng anh em của Vân Hạc đàm đạo mà để tâm đò la manh mối. Cứ theo lời của Đoàn Lục thúc, võ công của thân phụ chàng chẳng phải tầm thường, số người trong toàn cõi võ lâm Trung Việt đả bại được ông thật hiếm; vậy mà, ông cùng Lục đệ của ông đã phải chiến đấu hết sức vất vả với một kẻ thù chỉ có hai bàn tay không, đã đủ sức đánh bại hai địch thủ của mình. Người có công lực ấy, trong thiên hạ chỉ có một. Và chàng thường được nghe về võ công của Quang Minh Vương Dương Tiêu, hiện giờ đang là cố vấn của Minh Thành Tổ, cực kỳ cao siêu ảo diệu, không biết thế nào mà lường; người mà một thời danh trấn võ lâm, và cũng là thân phụ của Hân phu nhân, tức Ngoại tổ của anh em Vân Hạc, Bảo Thư, và là Quang Minh Tả Sứ của Hỏa Giáo. Hỏa Giáo còn được gọi là Yêu Giáo, là Quốc Giáo của Ba Tư do Tô Lỗ Chi sáng lập, đã đem đến cho đời một cuộc chiến đấu giữa Thiện Thần và ức Thần. Quang Minh đại biểu Thiện Thần, Hắc Ám đại biểu Ác Thần. Do đó, thờ lửa và mặt trời. Hỏa Giáo truyền vào Trung Nguyên dưới thời Nam Bắc triều Hỏa Giáo được các Vua chúa Bắc triều như Thái Võ Đế, Đạo Võ Đế nhà Ngụy, Văn Tuyên Đế, và nhất là Đế Vĩ nhà Bắc Tề và Tĩnh Đế nhà Bắc Chu tin theo. Đến đời Đường, Ba Tư bị nước Đại Thục xâm chiếm, tín đồ Hỏa giáo bị ngược đãi nên phải trốn sang Trung Thổ. Ma Ni giáo cũng do từ Hỏa giáo mà ra, do người Ba Tỉ Luân là Ma Ni sáng lập, và người Ba Tư cũng tin sùng. Đến năm Giáp Tuất đời 'Võ Hậu Võ Tắc Thiên, người Ba Tư là Phật Đa Đàn đem kinh điển vào chầu Võ Hậu và được Võ Hậu sùng tín. Nhưng đến năm Nhâm Tý đời Đường Huyền Tôn, giáo phái này bị cấm, sang đến đời Đường Túc Tôn lại được thịnh. Sự suy thịnh của Ma Ni Giáo có từng giai đoạn thăng trầm, đến đời Nam Tống, Ma Ni Giáo lại hoạt động, tự xưng là Minh Giáo. Tín đồ không ăn thịt, sùng nhượng, tiết kiệm, giúp đỡ lẫn nhau, từ đó trở nên giàu có. Đến cuối đời Nguyên, trở nên buông tuồng, giáo chúng làm nhiều điều xằng bậy, do đó, võ lâm Trung Nguyên đã có lần hợp sức lại tiêu diệt. Chức Tả Sứ trong Minh Giáo là nhân vật thứ hai. Ngày ấy Dương Tiêu, tuổi còn trẻ mà đã là Tả Sứ, võ công đã lên đến hàng siêu tuyệt. Chu Nguyên Chương vốn là một giáo chúng của Minh Giáo, nhưng đội lết nhà sư của Phật giáo để nương bóng thiền môn mà kiếm ăn cho qua ngày đói khổ. Vì vậy khi gồm thâu thiên hạ, lên ngôi Hoàng Đế, trọng dụng những người trong Minh Giáo. Khi Trương giáo chủ VÔ Kỵ, vì chán nản lòng người gian trá, bỏ đi qui ẩn, Hữu Sứ Phạm Dao cũng tuyệt tích giang hồ, Tứ Đại Hộ Pháp Vương về bọn Ngũ Tảng Nhân bất phục Dương Tiêu nên tản mát hết. Dương Tiêu điều hành Minh Giáo, nên được Thành Tổ phong làm Pháp Vương hay còn gọi là Quang Minh Vương, do chữ Quang Minh đại biểu Thiện Thần mà ra. Khi nắm Minh Giáo trong tay, Dương Tiêu đã trở thành Ác Thần. Đến năm Hồng Võ thứ mười ba, đời Minh Thái Tổ, Tể Tướng Trung Thư Tỉnh là Hồ truy Dung làm phản, Thái Tổ bãi chức Tể Tướng và dặn con cháu không được đặt ra chức này nữa, do đó, quyền hành nằm trọn trong tay nhà vua, dùng Pháp Vương làm cố vấn. Bởi thế Dương Tiêu ở vào một địa vị cực cao, quyền hành thực lớn, điều hành Minh Giáo làm nhiều điều tàn ác, xằng bậy. Minh Thành Tổ cai trị trăm họ rất nghiêm bạo, gây cuộc chiến tranh làm nhân dân đồ thán cũng do Quang Minh Dương Vương ( gọi tắt là Dương Minh Vương) mà ra cả. Trên đường đi, Nguyên Huân đã gặp lại Kiến Nghiệp Đại sư nguyên là Quang Minh Hữu Sứ Phạm Dao của Minh Giáo thuở trước. Chàng đã làn quen được cùng nhân vật tiếng tăm này, và Phạm Dao quý mến chàng, rủ chàng xuôi thuyền theo Trường Giang mà về Kim Lăng. Suốt thời gian trên thuyền, Nguyên Huân đã được ông tin cẩn, thổ lộ rất nhiều mật sự của giang hồ, ông nói: - Chủ đích của Minh Giáo, lấy cái thiện mà trừ cái ác, lấy cái sáng mà thay cái tối. Thế mà từ cái ngày Dương Phá Thiên Giáo chủ tuyệt tích, Dương Tiêu điều hành Minh Giáo, để đến nội bộ chia rẽ, dung túng bọn giáo chúng, khiến cho võ lâm có thời đã gọi là Ma giáo, gây nên vụ thảm sát Quang Minh đỉnh năm xưa. Những tưởng Trương Vô Kỵ Giáo chủ đã phục hồi được Minh Giáo, lấy lại uy tín giang hồ, dựa theo tôn chỉ của Đức Tổ sư mà hành đạo. Ai ngờ, lần thứ hai, Dương Tiêu lại một lần nữa làm sa đọa Minh Giáo. Việc tuyệt diệt Dương Tiêu không phải là dễ, nhưng cũng có thể làm được. Nhưng giết Dương Tiêu một cách âm thầm phỏng có ích chi. Hạ sát Dương Tiêu phải đi cùng với việc chấn hưng Minh Giáo mới là điều tâm nguyện, bởi thế cho nên bao năm nay, ta ẩn thân, bôn tẩu giang hồ cũng vì lẽ ấy! Nguyên Huân rụt rè hỏi: - Đại sư nếu vãn bối không lầm thì Kình Dương đại hội có liên quan đến việc này? Kiến Nghiệp Đại sư trầm ngâm, một lúc lâu mới ngần ngừ nói: - Việc này, việc này chưa thể tiết lộ ra được! - Xin Đại sư thứ lỗi vì sự tò mò của vãn bối! - Thiếu thí chủ, thật ra, ta rất quý mến thí chủ, có nói ra cũng chẳng ngại gì! Ông im lặng, dáng vẽ suy nghĩ, một lúc rất lâu, ông hỏi: - Tiểu thí chủ, thí chủ có nghe dư luận võ lâm về Đại hội Kình Dương chăng? - Vãn bối cũng được biết qua đôi chút, nhưng chẳng hiểu ra sao cả! Kiến Nghiệp mĩm cười nói: - Gần gũi thí chủ ít lâu nay, ta biết thí chủ là một người rất thông tuệ, chẳng nhẽ thí chủ không có chủ kiến gì sao? Nguyên Huân thưa: - Bạch Đại sư, cứ theo dư luận võ lâm suy đoán thì có nhiều giả thuyết: Có người cho rằng Kình Dương đại hội do người họ Dương ở núi Chung Nam, nhằm dương uy trên chốn giang hồ. Có người cho rằng tổ chức do Dương Tiêu lập nên, có liên quan tông tộc với họ Dương ở Chung Nam, nhằm mưa đồ điều gì đó! - Điều này ta có nghe, nhưng theo thí chủ thì thế nào? - Theo ngu ý của vãn bối, Kình Dương là một ngôi sao hung hãn, một hung tinh trong tử vi, do Từ Dương Nhận, mộ ttên cùng hung cực ác của giang hồ thuở trước. Kình Dương là điềm xấu, vậy cả hai cách suy luận trên đều sai. Theo thiển ý thì có phải chăng việc này có bàn tay của Minh Giáo? Đại sư hỏi đến, nên vãn bối mới dám lạm bàn! - Không sao! Thí chủ thật là thông minh, sỡ dĩ sự hình thành Kình Dương Đại hội không lộ rõ chủ đích vì một lẽ đặc biệt. Nhưng Dương Tiêu là một nhân vật cực kỳ thông minh, thí chủ đoán ra được, thì Dương Tiêu cũng đoán ra được Ta đã biết không thể dấu y! Nguyên Huân hỏi: - Bạch Đại sư, thế còn các vụ thảm sát và việc xảy ra ở Võ Đang Sơn mà vãn bối đã trình bày cùng Đại sư, việc này thế nào? Kiến Nghiệp cau đôi mày bạc, âm trầm nói: - Chắc chắn thí chủ cũng đoán ra kẻ chủ mưa là ai rồi nên mới hỏi như thế. Việc tấn công Võ Đang càng làm cho ta thấy rõ điều ấy. Tất cả bọn cao thủ đều không động tới Vân Hạc và Bảo Thư, tránh né không giao đấu, và khuê phòng của Hân phu nhân không hề bị xâm phạm! - Chẳng nhẽ là Dương Tiêu? - Còn ai vào đó nữa! - Nhưng y làm vậy với mục đích gì? Kiến Nghiệp Đại sư cười, nói: - Đó là phản ứng của y, nhằm đổ tất cả lên đầu của tổ chức Kình Dương những việc làm tàn bạo, khiến võ lâm tẩy chay Kình Dương Đại hội. Ấy là chưa kể võ lâm còn liên kết lại mà đối địch với Kình Dương Đại hội nữa là khác, một mũi tên bắn hai con nhạn. Việc này ta không thể coi thường được y là người chuyên ném đá dấu tay như việc Vi Nhất Tiếu năm xưa! - Chính y đã ám hại Thanh Dực Bức Vương Vi Nhất Tiếu? - Việc này Trương Giáo chủ có nói cho ta biết, người phải dùng Cửa Dương Thần Công để hóa giải khí âm hàn cho Bức Vương. Trần Nguyên Huân hồi hộp hỏi: - Bạch Đại sư, trong giang hồ, người xử dụng Hàn âm độc chưởng có những ai? - Ngày xưa Trương Giáo chủ trúng Huyền Minh thần chưởng của Huyền Minh nhị lão nhưng hoàn toàn khác hẳn với loại âm hàn mà Vi Nhất Tiếu trúng phải. Vi Nhất Tiếu trúng Hàn âm Ngọc chưởng khiến máu đông lại nên y phải hút máu người hoặc động vật mà bảo toàn sự sống. Người trúng nhẹ thì tuy âm hàn không đủ làm đông máu, nhưng tích tụ tại các huyệt đạo cũng làm phế võ công, thân thể suy nhược xanh xao, cái chết đến từ từ. Vi Nhất Tiếu nội công cao, nhưng phải dùng Huyết Sinh mà hóa giải thường ngày, y trở thành con dơi hút máu, khiến cho võ lâm kinh hoàng, và Minh Giáo trở thành Ma giáo là vì vậy! Nguyên Huân nghĩ đến Lục thúc và cái chết của thân phụ chàng, nên hỏi: - Võ lâm Trung thổ, người biết được môn công phu này là những ai vậy? - Ta đi lại giang hồ đã trên năm mươi năm nay, nhưng chưa hề biết ai có công phu tà độc ấy. Hình như môn công phu này do một vị lão nhân gọi là Hy Mã Thượng Nhân, đã ở trên vùng tuyết vạn niên Hy Mã Lạp Sơn luyện thành. Ta chỉ được nghe thế thôi, không hiểu vì sao Dương Tiêu có được công phu ấy! Nguyên Huân ngậm ngùi nói: - Phụ thân của vãn bối bị công phu ấy đánh trúng mà qua đời! Chàng tóm tắt kể cho Kiến Nghiệp Đại sư nghe toàn bộ câu chuyện liên quan đến cái chết của cha chàng. Kiến Nghiệp trầm ngâm suy nghĩ một hồi lâu, gật đầu nói: - Cứ như những sự kiện ấy, thì mười phần hết chín, thủ phạm chính là Dương Tiêu. Tuy nhiên, còn phải xem xét lại cho thật kỹ mới được. Bần tăng xem mục quang của thí chủ, biết được nội công thí chủ đã có tám, chín thành hỏa hầu, nhưng nếu thù nhân chính là y thì việc trả'ng Môn của các danh gia đại phái, nào phải tầm thường, vậy mà cộng thêm với sự trợ lực của Đoàn lục gia, vẫn bị thảm bại. Bần tăng hẳn nhiên không là đối thủ của y. Mà nếu giết y bằng mưu kế thật chẳng ích gì đại hội Kình Dương thiếu mất người chủ trì, cho nên đã nhiều phen phải hoãn lại! Đường Trại Nhi đắn đo một lúc sau lên tiếng: - Việc này có tầm quan hệ rất lớn, nó không chỉ liên quan tới từng người, từng môn phái, mà là cả đến sinh linh trăm họ; công việc của Đại sư và công việc của chúng ta đây đều cùng chung một mục đích tối hậu, đó là hạnh phức của muôn dân, kể cả dân tộc Đại Việt và các dân tộc khác, nên Đường mỗ không ngại ngần gì tỏ bày nghĩa lớn. Đường mỗ đã ròng rã suốt bốn năm nay, cùng hào kiệt bốn phương giao kết, thực tâm chẳng phải là chuyện tranh đồ bá vương, chỉ mong dẹp tan nổi bất bình, quét sạch chốn triều trung dẫy đầy bọn tham tàn, bất xứng; khơi lại mạch sống cho trăm họ, đem người đức độ đặt vào ngôi báu. Nay gặp được Đại sư và Trần thiếu hiệp nơi này, nên mạnh dạn tỏ bày tâm ý, mong cùng nhau đấu cập chung lòng, gom sức lớn làm nên nghĩa cả Tai vách mạch rừng nhưng chẳng tỏ bày, làm sao kết hợp! Nguyên Huân liếc nhìn Đường Trại Nhi, thân thể cao to, mặt vuông mũi lớn, râu quai nón, trán rộng, thái dương huyệt nó cao, mắt sáng như điện, đầy chính khí, giọng nói oai nghiêm sang sảng như chuông, chàng càng thêm kính trọng. Một ý nghĩ thoáng nhanh trong đầu Nguyên Huân. Chàng đã không đứng được trong hàng ngũ chiến đấu của dân tộc tại quê hương, đánh đuổi ngoại xâm ngay tại đất nước, bấy lâu nay lòng chàng ray rức không nguôi; thì giờ đây là dịp chàng đóng góp máu xương, hơi thở, tâm, ý cho xứ sở chàng. Đánh địch ngay trong lòng địch. Đóng góp sức lực của mình trong công cuộc nổi dậy trên chính đất nước này sẽ góp phần gây cho Minh triều nhiều nổi rối ren, nội bộ xâu xé sẽ làm giảm bớt áp lực quân sự của địch lên tổ quốc chàng; cuộc khởi nghĩa của nhân dân Đại Việt sẽ bớt đi nhiều cam khổ. Đường Trại Nhi nói tiếp: - Theo tin tức nhận được, Thuận Minh Vương Mã Cáp Mộc của bộ tộc Ngoa Thích đang có chiều hướng muốn vùng lên, và bọn Thát Đát ở phương Bắc cũng đang mưu toan xâm lấn Trung Nguyên. Thật ra, với tình hình hiện tại, bọn chúng cũng chẳng làm được điều gì, nhưng Minh Thành Tổ sẽ bối rối không ít, và cuộc khởi nghĩa của nhân dân có thể sẽ đưa đến thành công, áp lực buộc Minh Thành Tổ phải sửa đổi phương cách cai trị hà khắc, đồng thời quét sạch bọn quyền thần lộng hành, bọn tham quan ô lại, mang đến cho lê dân bá tánh niềm an lạc. Đó là tất cả tâm huyết của Đường mỗ và hào kiệt tỉnh Triết Giang, Phúc Kiến, Giang Tây nói riêng và của cả thiên hạ. Nguyên Huân nhận thấy có một điều gì đấy không ổn trong cách lý luận của Đường đại gia. ông đã dùng những lời hoa mỹ để che dấu một tham vọng?! Nếu quả ông là người yêu nước, chắc chắn sẽ không hưng binh khởi nghĩa vào giữa lúc đất nước đang bị đe dọa bởi họa ngoại xâm. Nguyên Huân kín đáo liếc nhìn Đại sư và chàng cũng bắt gặp ánh mắt đầy ý nghĩa của ông. Riêng đối với chàng, tổ quốc chàng là trên hết, chàng có thể chấp nhận mọi điều, như một phương tiện để đạt đến cứu cánh, nhưng trong chàng vẫn không tránh khỏi một cảm giác chua chát. Tiếng gọi tuyệt vọng của tổ quốc lớn hơn trái tim chàng, chàng cố nén tiếng thở dài, cung kính nói: - Thưa tam vị lão tiền bối, vãn sinh thật cảm động được nghe những lời tâm huyết, được nghe những điều cơ mật, mà vãn bối chỉ là một gã dị tộc. Thế mới biết, tấm lòng đối với nhân loại, với nỗi đau khổ của mọi sinh linh lớn hơn tất cả, vượt qua những ranh giới phân chia của dân tộc, vãn sinh nguyện có trời xanh, mang tất cả tâm lực và sinh mạng đáp đền tấm lòng tin yêu cao cả ấy! Đường Trại Nhi mỉm cười hài lòng, nhưng nhìn ánh mắt của ông, Nguyên Huân biết rằng ông cũng đã đoán hiểu được ý nghĩ thầm kín của chàng. Nhưng mục đích của ông là cần người trợ thủ thực lòng, dù thế này hay thế khác, Nguyên Huân sẽ mang hết năng lực của mình trong nhiệm vụ được giao phó, dẫu rằng ông thừa biết sự góp sức nhiệt thành của chàng chẳng phải vì tổ quốc của ông, vì những ước vọng riêng tư của ông, mà chính vì tổ quốc của chàng. Đường Trại Nhi ôn tồn nói: - Ta ghi tạc tấm lòng của Thiếu hiệp, trong trách vụ chung này, mỗi người đều riêng một bổn phận, sự chu toàn bổn phận dù có khác nhau, nhưng tấm lòng vẫn chỉ là một! Ngừng lại một lát, ông đưa mắt nhìn mọi người. Kiến Nghiệp Đại sư đang cúi đầu im lặng, Quan, Bạch hai người cùng tỏ ý đồng tình với lý lẽ của Đường Trại Nhi. - Buổi chiều hôm trước, Đường Trại Nhi nói tiếp, ta thấy Chu Ngoạn Thanh, y biết được Thiếu hiệp đã ra tay cứu tử, y đã tỏ ý cảm kích, nhân đó, Thiếu hiệp nên làm quen cùng y nếu có cơ hội. Qua y, ta có thể dò la mọi hoạt động, mọi mưa tính, ý đồ của địch để có thể có những biện pháp thích nghi, Thiếu hiệp nghĩ sao? Nguyên Huân đưa mắt nhìn Kiến Nghiệp, thấy Đại sư vẫn giữ vẻ mặt bình tỉnh, chàng yên lòng nói: - Vãn bối cũng đã có ý ấy từ lúc ra tay cứu tử cho y, và không dè Đại sư cùng một lúc cứu y thoát chết! Bạch Khởi Phùng nói: - Trong cuộc giao tranh một mất một còn, kẻ nào biết rõ được địch thủ của mình là đã nắm vững được phần thắng. Nếu Thiếu hiệp tâm nguyện làm được điều ấy, thật đáng quý! Đến lúc này Kiến Nghiệp Đại sư mới lên tiếng: - Công việc và mục đích của quí vị tuy có đôi chút khác biệt với chủ trương của bần tăng, nhưng xét kỹ có nhiều điều chung cùng lợi ích. Bần tăng long trọng hứa cùng quí vị thí chủ, sẽ mang hết khả năng có thể có được để hổ trợ lẫn nhau trong từng trường hợp cần thiết. Việc này thật quan trọng, nên cá nhân bần tăng không thể nhất thời hoạch định kế hoạch hành động được, mà phải có một cuộc họp trong nội bộ của Minh Giáo, sau đó cùng nhau chúng ta gặp lại để phân chia trách nhiệm cụ thể. Nhìn thấy vẻ mặt của Đường Trại Nhi, Kiến Nghiệp Đại sư nói tiếp: - Dĩ nhiên Bần tăng hiểu được, đây là một công việc cực kỳ quan trọng, có liên quan đến sinh mạng nhiều người, phải giữ bí mật tuyệt đối. Vì thế chỉ có những người tín cẩn, có trọng trách mới được biết đến đại cuộc, và cũng chỉ trong phạm vi trách nhiệm mà thôi! Đến lúc này Đường Trại Nhi mới hoan hỉ lên tiếng: - Thật ra việc này có hơi vội vã, nhưng thời gian như vàng bạc, cơ hội ngàn năm, nếu không tỏ tấm lòng chân thật hôm nay tức là đã bỏ mất dịp may gặp gỡ mà Đường mỗ bấy lâu ao ước. Nay được Đại sư có lời như thế, Đường mỗ hoàn toàn tin tưởng và an lòng! Đường Trại Nhi bắt đầu trình bày toàn bộ kế hoạch khởi nghĩa trên tất cả mọi phương diện một cách khái quát. Vì không muốn đi sâu vào những bí mật của cuộc nổi dậy, Nguyên Huân nói rõ lý do, và xin phép được vắng mặt trong cuộc họp bàn ấy. Sáng hôm sau và luôn cả buổi trưa, chàng đi thăm kinh thành cũ của Minh triều. Lang thang trên những con phố rộng, khang trang và sầm uất, chàng ghé thăm những danh lam thắng cảnh của cố đô. Đang đi, Nguyên Huân chú ý đênh một toán người khá đông, cỡi trên những con tuấn mã. Dân chúng thấy họ, vội vã dạt ra để nhường lối. Toán người đến gần, Nguyên Huân nhận ra kẻ đi giữa ở hàng đầu chính là gã Tiểu Vương gia Chu Ngoạn Thanh, hai tên đi hầu hai bên mặt mày cực kỳ hung ác, cách ăn mặc cũng kỳ dị, mỗi tên cầm một chiếc roi da quấn vòng trong tay, sau lưng đeo đoản đao; chiếc roi là vũ khí tấn công, mỗi đầu tua tủa những móc sắt óng ánh bạc. Bọn đi phía sau chừng bốn năm tên, mặt mày cũng hung ác không kém. Chàng vẫn đứng yên và chú mục nhìn chúng, bỗng nghe tiếng quát của tên cầm roi, chiếc roi tung ra như một con rắn ba đầu, đầu roi xé gió, nhằm chàng đánh tới. Bị tấn công bất thần, nhanh như chớp, Nguyên Huân uốn cong người tránh đường rơi, đồng thời bàn tay phải bung ra liên tiếp nhằm đầu móc sắt của chiếc roi điểm tới, chỉ nghe lách cách ba tiếng, đầu roi bật ngược trở lại. Tên sử dụng roi quả thật không phải tầm thường, y rung nhẹ bàn tay cầm roi, đầu mũi roi như được điều khiển quay ngoắt trở lại, tấn công vào Bách Hội huyệt và Kiên Tỉnh huyệt của Nguyên Huân; cùng lúc tên thứ hai cũng tung roi đánh tới. Tuy bị lưỡng đầu thọ địch, chàng vẫn bình tỉnh giở thân pháp Hoán ảnh xuyên qua lại giữa những đường roi dày đặc đồng thời giở công phu Thiết Tỏa Công do Nhị bá phụ Thiên Hư đạo trưởng truyền dạy, hai bàn tay thoăn thoắt chụp bắt, trói buộc những đầu roi của địch thủ lại với nhau. Biết gặp phải một đối thủ có võ công cao siêu, cả hai tên lập tức buông roi, rút đoản đao, tung người khỏi yên ngựa như hai con đại bàng chụp xuống. Đã có chủ ý, Nguyên Huân vẫn không rút kiếm, hai bàn tay chàng cong lại như vuốt chim ưng, hữu trảo giơ cao khỏi đầu, ngửa lên trời, tả trảo thấp ngang sườn chụp xuống đất. - Ngừng tay! Tiếng quát có mãnh lực khiến tên bên trái chuyển đường đao đang đánh tới thành một vòng tròn; tên bên phải dường như không nghe thấy tiếng quát, đường đao như sấm sét vẫn ập xuống bả vai Nguyên Huân. Thân hình chàng vẫn đứng im, chỉ thấy hai bàn tay loang loáng, đã chộp được sống đao, giữ cứng lại. Chiêu thức kỳ đặc này khiến không ai trong bọn chúng nhận ra chiêu số, cả bọn đều trố mắt sững sờ Nguyên Huân buông thanh đao khi thấy Chu Ngoạn Thanh từ trên ngựa tươi cười nhảy xuống, y quát bảo thủ hạ: - Người quen cả, ngừng tay! Chu Ngoạn Thanh bước đến trước mặt Nguyên Huân hỏi: - Các hạ có nhận ra ta không? Nguyên Huân vòng tay thành quyền thi lễ: - Tại hạ tham kiến Vương Tử. Chu Ngoạn Thanh tươi cười: - Hôm qua ta có trở lại nhưng các hạ không còn ở đó nữa. Ta cảm ơn các hạ đã ra tay trợ thủ và ta có ý muốn tìm. Nếu được, ta mời các hạ về vương phủ để cùng đàm đạo! Nguyên Huân nhớ đến nhiệm vụ của mình, vội nói: - Khải bẩm Tiểu Vương gia, tại hạ còn chút công chuyện, đã hứa chiều nay đến thăm một bằng hữu. Xin Vương tử thứ lỗi cho, nếu có thể được, sáng mai tại hạ xin được bệ kiến Vương tử! Cung cách của Nguyên Huân khiến gã công tử thích ý, gã đặt tay lên vai Nguyên Huân, ngắm nhìn gương mặt thanh tú của chàng, gật đầu nói: - Võ công của các hạ thật cao cường, mà còn anh tuấn nữa, ta được kết giao với các hạ thật là tết. Thôi được, vừa nói, vừa móc trong túi ra một thẻ ngà, có tua gù ngũ sắc đưa cho Nguyên Huân. - Đây là tín vật của ta, ngày mai, các hạ cứ đến Vương phủ, bọn thuộc hạ sẽ đưa các hạ đến gặp ta. Ta đợi đó! Nói xong gã quay mình, nhảy phắt lên yên ngựa, cả bọn bỏ đi. Nguyên Huân đứng lại, một đám đông người bao quanh ở phía xa nhìn chàng với ánh mắt tò mò vừa có chiều khinh bỉ. Nguyên Huân mĩm cười đi lẫn vào đám đông. Khi trở về, Nguyên Huân mang câu chuyện gặp Chu Ngoạn Thanh kể lại một lượt. Đường Trại Nhi mừng rỡ nói: - Đây là trời giúp ta nên mới sắp xếp theo ý mình mong đợi nhanh như thế. Đường mịt mới được thuộc hạ báo cho biết, Sở Vương đang dùng tiền bạc để mua chuộc một số cao thủ võ lâm làm vây cánh, phần lớn là bọn Tây Vực, bọn Hồng giáo; nếu Thiếu hiệp đã lọt vào mắt xanh của tên Chu Ngoạn Thanh, cũng.có nghĩa là y muốn lôi kéo Thiếu hiệp làm vây cánh cho y, Thiếu hiệp đừng vồ vập nhận lời ngay, nhưng thế nào bọn cao thủ trong ứng Thiên phủ cũng thử thách công phu Thiếu hiệp. Thiếu hiệp nên biểu lộ thần uy để khuất phục chúng, chiếm lòng tin của Sở Vương, đồng thời lấy tình cảm để lôi kéo bọn cường đồ. Lúc đầu đừng chú tâm đến bất cứ việc gì cả; việc của chúng mặc chúng, Thiếu hiệp đừng tỏ ra phẫn nộ bất cứ điều gì trái tai gai mắt. Thế nào lão Sở Vương ấy cũng cho người theo dõi Thiếu hiệp! Đường mỗ biết là Thiếu hiệp nôn nóng trả thù và thu hồi báu vật, nhưng người quân tử trồng tre để làm gậy.div style='height:10px;'>
Giữa lúc ấy hai lão già và một đại hán bước vào quán. Cả ba ăn mặc theo lối thường dân, nhưng thoáng nhìn qua, chàng biết ngay họ chẳng phải là người tầm thường. Lát sau, lại một bọn sáu, bảy người ồn ào nghênh ngang tràn vào khách điếm, đi đầu là một thư sinh ăn mặc có vẻ diêm dúa, ra dáng một công tử con nhà quyền thế, bọn theo hầu lách cách vũ khí của quan quân, chiếm hai bàn ngay cạnh cửa ra vào. Một tên trong bọn cất tiếng gọi tửu bảo. Chủ quán đã thấy bọn này liền chạy ra xum xoe, có vẻ nể vì, xen lẫn sợ hãi: - Tiểu Vương gia! Đã lâu không thấy Vương gia ghé lại? Gã thiếu niên công tử trợn mắt nhìn chủ quán: - Quản Ninh, mẹ con Khương thị còn ở đây không? Người chủ quán khom mình, vòng tay lễ phép thưa: - Khải bẩm Vương gia, Khương Tú Hoa đã dọn đi từ hai ngày nay rồi! Gương mặt gã công tử sa sầm lại, gã mím môi, rồi hỏi: - Thế việc ta nhờ ngươi, thế nào? - Bẩm, tiện dân có chuyển lại ý muốn của Vương gia, nhưng y thị nhất quyết không chịu, nhất là Miêu Tú khóc lóc đòi quyên sinh. Tiện dân đã phân trần, khuyên bảo đủ mọi lẽ nhưng cũng không lay chuyển được! - Hừ! Không chịu, vì lẽ gì không chịu, khinh ta chăng? Quản Ninh lắp bắp: - Dạ bẩm.. Dạ bẩm Tiểu Vương gia, Khương Tú Hoa nói là đã hứa gã con gái cho Lưu Đại Chu nên không thể... không thể bội ước được. - Lưu Đại Chu là thằng chó nào mà xem trọng hơn ta? - Ngươi có nói cho mụ Khương biết, cho Miêu Tú vào Vương phủ hầu hạ ta sẽ được sung sướng cả đời, chứ có phải làm nô tì đâu mà sợ! - Bẩm, tiện dân đã nằn nì hết lời, còn nói Vương gia là người rộng lượng, hào phóng, san sàng đền bù cho nhà họ Lưu! - Vậy, chúng nói sao? - Bẩm Tiểu Vương gia, Miêu Tú nhất quyết không chịu, nói là không thể tham phú phụ bần được, dẫu có làm Hoàng hậu cô ta cũng không màng! Gã công tử bị chạm tự ái, mặt đỏ bừng, tím lại, quát lớn: - Con mẹ nó, tại sao mi không bẩm báo ngay cho ta biết? - Dạ, tiểu nhân làm sao ra vào Vương phủ được! Ngọn roi cuộn trong tay gã công tử bay vút ra nhắm vào bả vai người chủ quán đánh "chách" một cái trong khi y vẫn ngồi yên trên ghế, không thấy cánh tay vung lên, chỉ động cổ tay, ngọn roi như một con rắn phóng ra một cách bất ngờ. Người chủ quán cố nhịn đau, lồm cồm quì lạy như tế sao. - Ngươi đừng già họng! Ngươi đến Vương phủ, chỉ cần nói với lính gác có chuyện cơ mật bẩm định với ta thì đứa nào dám không cho ngươi vào. Hôm nay không trừng trị ngươi một phen thì ngươi còn coi ta ra gì nữa. Nghe ta hỏi, Khương thị mang con gái đi đâu? Lưu Đại Chu là tên chó chết nào, hiện ở đâu, ngươi có biết không? - Bẩm, tiểu nhân làm sao biết được! Gã thiếu niên đứng phắt dậy, chiếc roi da cuộn trong tay, bước lại gần Quản Ninh, gằn giọng: - Ngươi phải biết! Ba ngày nữa mà ngươi không tìm được Miêu Tú, thì đừng trách ta! Ngay lúc đó, hai điểm sáng loang loáng từ một góc khuất, như sao xẹt, nhắm ngực gã thiếu niên công tử vút đến. Hầu như cùng một lúc, hai đôi đũa đang cầm trong tay Kiến Nghiệp Đại sư và Nguyên Huân nhất loạt phóng ra, vút như một vệt khói; chỉ nghe tiếng " keng keng", bốn chiếc đũa đã đánh trúng hai vệt sáng, bật tung lên, cắm phập vào thân cột Hai lưỡi Liễu Điệp phi đao và bốn chiếc đũa cắm chụm vào với nhau. Sự việc xảy ra quá nhanh, đến nổi gã công tử đang định vung roi xuống người chủ quán để dằn mặt, chưa kịp tung ra. Từ lúc gã Tiểu Vương gia bắt đầu tra hỏi chủ quán, mọi người ngừng ăn và chăm chú theo dõi. Quán lại khá đông khách, nên khi hai ngọn Liễu Điệp phi đao phóng ra chớp nhoáng, mục tiêu là gã công tử, mọi người chẳng kịp nhìn rõ là ai. Gã thiếu niên công tử, đã lui lại một bước, kinh ngạc đưa mắt nhìn hai ngọn phi đao và bốn chiếc đũa cắm lạnh lùng trên thân cột, hiểu ra rằng y vừa thoát chết trong gang tấc giữa lúc bất phòng, và y cũng hiểu rằng y đã được một người nào đó cứu thoát, người này phải là một cao thủ có công lực thượng thừa với kình lực thực khủng khiếp. Bốn chiếc đũa tre, cắm vào thân cột gỗ thuộc loại danh mộc. Gã liếc nhìn sang bàn bên trái, và phát hiện ai là người vừa cứu mình, trên tay Nguyên Huân không còn đôi đũa đang dùng giở bữa. Gã khẽ gật đầu ra hiệu cảm ơn, cùng lúc, thoáng thấy một bóng người vừa lách ra lối cửa hông bên phải với thân pháp rất nhanh, gã chỉ kịp hô thủ hạ: - Đuổi theo! Bọn thuộc hạ phóng theo chủ ra khỏi quán, tiếng hò hét, tiếng binh khí, tiếng xô đẩy mọi người trên đường, như gặp lửa bỏng khiến ai ai cũng kinh hãi. Trong thoắt chốc, quán vắng ngắt, chỉ còn lại năm người, Kiến Nghiệp và Nguyên Huân, hai lão già và vị trung niên đại hán. Quản Ninh vẫn ôm bả vai, đau đớn, gương mặt tái xanh, run rẩy nói: - Các vị không nên ở lại đây. Đại họa, đại họa rồi! Vị trung niên hán tử rời bàn bước đến trước mặt Kiến Nghiệp Đại sư, nghiêng mình thi lễ: - Tại hạ tham kiến nhị vị cao nhân! Kiến Nghiệp Đại sư nói nhỏ: - Đường Đại gia không nhận ra bần tăng sao? Vị trung niên đại hán ngẩn người ra, một lúc sau khẽ reo: - Đại sư! Chuyến này may mắn thực. Ở đây không tiện, thế nào cũng có chuyện không hay xảy đến, mong Đại sư và Thiếu hiệp nên rời khỏi nơi này. Tại hạ có việc nên ghé xuống Kim Lăng, hiện đang ngụ tại một nơi an toàn, tại hạ mong nhị vị cùng đến. Nguyên Huân thanh toán tiền cho chủ quán, rồi cùng theo đại hán họ Đường đến một dinh cơ cách Hoàng thành khá xa, nơi đây, phong cảnh u tịch, hữu tình. Qua chiếc cổng đá có đôi Thạch sư trấn phía ngoài, một trong hai con đầu bị bể nát, dường như có ai dùng búa tạ đánh cho vỡ ra vậy. Qua khỏi viên môn, đại hán dẫn mọi người vào một khu nhà khuất sau hàng trúc, phía trước mặt nhà là một hồ sen đang mùa nở rộ, hương sen thơm ngát thoảng trong gió chiều cho mọi người một cảm giác nhẹ nhàng, thanh khiết. Gian phòng được bài trí hết sức trang nhả, mọi sinh hoạt trong dinh cơ rộng lớn này dường như không có, chỉ có tiếng gió làm xôn xao lá trúc. Mùi hương của sen, của bao nhiêu loại hoa quý càng làm tăng thêm cái mênh mông, trầm lắng của buổi chiều xuống muộn. Năm người chia nhau ngồi quanh chiếc bàn đá kê dưới gốc lão mai và hàng nguyệt quế. Đường đại hán mở lời: - Đã lâu lắm không gập Đại sư, tại hạ thường mong có ngày tái kiến. Vị Thiếu hiệp này là ai vậy? Kiến Nghiệp Đại sư nói: - Đây là một người.bạn trẻ thân thiết của bần tăng, họ Trần tên Nguyên Huân. Còn đây là Đại gia họ Đường, tên là Trại Nhi ở Triết Giang mà ta đã được quen biết! Nguyên Huân đứng dậy nghiêng mình thi lễ: - Danh tiếng Đường Đại gia như sấm dậy bên tai, tại hạ thường ngưỡng mộ, đến nay mới được diện kiến, thật là hạnh ngộ! Đường Trại Nhi mĩm cười: - Thiếu hiệp 'đừng. khách 'khí như vậy, Đường mỗ chỉ là gã nông phu nơi thôn dã, nào có gì đáng được thiếu hiệp yêu mến như vậy. Lúc nãy, Đường mỗ được chứng kiến thủ pháp của Thiếu hiệp, trong. lòng rất khâm phục. Thiếu hiệp tuổi còn trẻ mà đã có công lực như vậy, quả là trên đời ít thấy! Nguyên Huân nói vài lời khiêm tốn và đưa mắt nhìn hai vị lão nhân, hiểu ý, Đường Trại Nhi nói: - Xin Đại sư và Thiếu hiệp thứ lỗi, Đường mỗ vì mãi chào hỏi nhị vị nên chậm giới thiệu hai vị lão tiền bối này! Đường Trại Nhi ngửa bàn tay hướng vào vị lão nhân có chòm râu trắng bạc, mặt đài, tuổi chừng bảy mươi, nói: - Vị này họ Quan, tên Thiên Sách, Trưởng Lão của Cái Bang, vốn cùng với Đường mỗ là chỗ giao tình thân thiết! Đường Trại Nhi quay sang người ngồi bên phải, ân cần giới thiệu: - Còn đây, Bạch đại hiệp, nổi danh là Nhất chưởng Trấn Giang Tây Bạch Khởi Phùng, vốn là dòng dõi của thi hào Bạch Cư Dị! Người vừa được giới thiệu, râu năm chòm còn đen nhánh, đôi lông mày bạc, gương mặt hồng hào, đôi mắt long lanh những ánh tinh quang, cùng với họ Quan đứng lên thi lễ, Bạch Khởi Phùng nói: - Xin Đại sư và Thiếu hiệp chớ nghe lời của Đường gia, vì yêu mến lão phu mà quá khen đấy thôi! Kiến Nghiệp Đại sư cùng Nguyên Huân đứng dậy đáp lễ, Đại sư mừng rỡ hỏi: - Đây có phải là Bạch anh hùng, năm trước, với hai tay không đã hạ sát bảy tên cướp lừng danh trên Trường Giang chăng? Chúng có tiếng trên giang hồ sông nước là Thất Sát Trường Giang Quỷ. Thật là hạnh ngộ, hạnh ngộ! Đường Trại Nhi quay sang Đại sư, đưa tay nói: - Và đây Đường mỗ hân hạnh với Quan. Bạch nhị vị lão huynh. Đại sư đây pháp hiệu Kiến Nghiệp, năm xưa từng là Quang Minh Hữu Sứ của Minh Giáo dưới thời Dương, Trương Giáo chủ! Quan Thiên Sách, Trưởng Lão Cái Bang mừng rỡ nói: - Bốn mươi năm trước, ngày ấy lão hủ còn trai trẻ, đã nghe được uy danh của Hữu Sứ, bây giờ bèo mây gặp gỡ thế, này chẳng uổng lòng mong ước! Bạch Khởi Phùng vòng tay thành quyền chen lời: - Ngày trước Hữu Sứ nổi danh thiên hạ về võ công và anh tuấn sao gương mặt đổi thay nhiều đến vậy? Kiến Nghiệp lấy tay gỡ chiếc mặt nạ làm bằng một loại da cực mềm, để lộ khuôn mặt thật với những vết sẹo ngang dọc; còn đâu dung mạo tuấn tú của chàng thanh niên nổi tiếng một thời cùng với một thân võ học giang hồ danh trấn. Đại sư mĩm cười nói: - Xin tam vị anh hùng tha lỗi cho, vì có công việc nên không tiện để lộ hình tích được! Đường Trại Nhi nghĩ ngợi một lúc rồi hỏi: - Đại sư và Thiếu hiệp lúc ra tay giải cứu cho gã công tử ở khách điếm, nhị vị có biết hắn là ai không? Nguyên Huân đáp: - Thật ra vãn bối không biết y là ai, nhưng theo cách xưng hô của người chủ quán, thì hắn là con của một vị Vương gia nào đó. Thái độ và hành động hống hách của y quả là đáng chết, nhưng ta giết y nào có ích gì chỉ đem lại vạ gió tai bay cho chủ quán và lương.dân Kim Lăng, xin Đường đại gia cho vãn bối biết y là ai vậy? Bạch Khởi Phùng lên tiếng: - Thiếu hiệp còn trẻ., công lực và thủ pháp đã cao siêu mà tấm lòng cũng thật đáng quý. Đúng ra giết hạng người như y lúc nào chẳng được, nhưng bọn nhũng nhiễu dân đen đâu phải chỉ có một mình y, giết làm sao hết được, chỉ gây di họa cho dân lành mà thôi. Y là Chu Ngoạn Thanh, con trai của Sở Vương Chu Tần Hoán. Sở Vương Hoán là con của bà Thứ phi họ Vương dưới triều Thái Tổ. Hoán vốn là tên tham tàn, hiểm ác, được giao trấn giữ khu vực phía Nam Trường Giang. Mấy tỉnh Triết Giang, Phúc Kiến, Giang Tây, Hồ Nam đều nằm trong quyền sinh sát của y, y tha hồ ra tay bóc lột, khắc chế lương dân. Chu Ngoạn Thanh là con trai út, thường gây nên biết bao vụ động trời mà Sở Vương chẳng hề răn dạy, còn tỏ ra dung túng nuông chìu, bởi thế y càng ngang ngược ngông cuồng quá lắm, giết y đi cũng là phải! Đường đại gia nối lời họ Bạch: - Dân đen đã khổ trăm chiều dưới sự cai trị hà khắc của Thành Tổ, mà bọn quan lại càng ra sức sách nhiễu, nhất là ở hai vùng Sơn Tây và Thiểm Tây. Dân ở đó có một số chỉ là gia thuộc của những kẻ phản đối việc " Tĩnh Nạn" năm xưa chứ có tội tình gì. Nhân dân ba vùng Giang Tây, Triết Giang, Phúc Kiến còn khổ ải trăm bề. Nào là bọn cướp bể, bọn giặc lùn, nào là vua chúa, quan quyền sách nhiễu. Thật là thảm cảnh, cơm không còn mà ăn, áo không có mà mặc, lại cộng thêm thiên tai hạn hán, dân chúng tứ xứ phiêu bạt, bọn ăn xin nơi nào chẳng có. Năm xưa dưới thời Nguyên M tên lính vào viên môn, cả một khu điện đài nhà của mênh mông, tráng lệ mở ra trước mắt chàng, dưới tàn bóng rợp của các loại cây mà chàng không biết tên, hoa đang nở rộ trên lối đi thênh thang lát đá trắng, hai bên có những lối nhỏ hơn dẫn vào những tòa nhà lộng lẫy khác. Chàng theo tên lính đi về phía trái, chạy dọc theo một hoa viên với đủ kỳ hoa dị thảo, mùi hương tỏa trong không khí ngây ngất; ánh nắng được lọc qua tàn cây cao điểm là chỗ xuống từng phiến đá Vân Ban màu trắng ngà. Lối đi dẫn đến một tòa dinh thự khác ngay trên lối dài. Tòa viên môn treo ba chữ đại tự thếp vàng:"Võ Hiển Cung". Một viên thư lại từ trong bước ra hỏi: - Mã Thạnh, ngươi dẫn ai đến đó? - Trình Tổng quản, có khách quý của Vương tử! Gương mặt lạnh lùng của viên thư lại đổi sang vẻ cung kính khi nhìn thấy thẻ bài tín vật, y xum xoe cong lưng thật thấp cúi chào chàng: - Kính mời Đại nhân quá bộ cùng ty chức! Được dẫn vào một đại sảnh, Nguyên Huân choáng ngợp vì sự trần thiết cựu kỳ sang trọng. Chàng được mời ngồi xuống một chiếc ghế chạm trổ long, ly, qui, phượng phủ gấm Tứ Xuyên. - Xin Đại nhân chờ ty chức bẩm cùng Vương tử. Chỉ thoáng sau, có tiếng chân bước, và chiếc rèm bằng san hô quí giá vén lên. Chu Ngoạn Thanh bước ra: - Từ sáng, ta đã nóng lòng chờ các hạ đấy? Nguyên Huân đứng dậy vái chào: - Tại hạ e đến sớm, khinh động đến giấc ngủ của Vương tử! Ngoạn Thanh cười lớn: - Các hạ tưởng ta lười biếng đến thế sao? Ta thường dậy sớm, văn ôn võ luyện mà. Ta thật vô ý, không hỏi danh tánh của các hạ đấy. - Tại hạ họ Đoàn, tên Thiên Chính! - Các hạ người nước Đại Lý cũ đó chăng? - Thưa phải, nhưng từ mấy đời nay đã trở thành người Trung Nguyên rồi! - Thảo nào võ công các hạ siêu tuyệt như vậy. Đoàn Hoàng gia, hai trăm năm trước nổi danh lừng lẫy trong thiên hạ, ta vốn ham mê võ thuật nên có biết ít nhiều kiến thức về võ lâm, như vậy các hạ cũng thuộc dòng dõi trân quí đấy! - Xin đội ơn Vương tử quá khen! - Ta nói thật đấy. Thể nào diện mạo, cốt cách của các hạ hơn hẳn bọn phàm phu nhiều lắm, từ nay ta mong các hạ không nên khách khí như vậy. Ta vốn quí trọng những bậc tài năng, Vương phụ ta cũng rất ưu ái những bậc anh hùng hảo hán. Đột ngột, hắn đổi giọng ân cần. - Hôm nay, ta mời hiền đệ ở lại đây cùng ta, ta sẽ giới thiệu với hiền đệ những cao thủ mà ta đã kết giao, cùng các huynh đệ ta uống rượu một phen. Đoàn hiền đệ, theo ta vào trong này! Chu Ngoạn Thanh nói xong bước đi, Nguyên Huân nối gót theo sau. Qua khỏi dãy hành lang lợp ngói đỏ, xuyên qua một hoa viên rộng, đến một tòa nhà rộng lớn, trên của treo ba chữ " Diễn Võ Đường". Nguyên Huân gặp ở đây một số đông người đang tề tựu, khi thấy chàng bước vào cùng với Chu Ngoạn Thanh, tất cả cùng đứng dậy. Chu Ngoạn Thanh nói lớn: - Xin chư vị bình thân cho, hôm nay ta giới thiệu với chư vị một người bạn mới! Mọi ánh mắt đổ xô vào chàng, trong số người lố nhố, chàng thoáng thấy tên đã dùng roi tấn công chàng; Nguyên Huân vòng tay thành quyền giơ ngang trán: - Vãn sinh kính chào các chư vị anh hùng! Sự tươi cười nhũn nhặn của chàng đã làm nhiều ánh mắt đang đăm đăm nhìn chàng như đánh giá, như ước lượng kia dịu xuống. Chu Ngoạn Thanh quay sang nói với người hầu cận luôn quanh quẩn bên cạnh y để đợi sai phái: - Ngươi chuyển lệnh ta cho nhà bếp, khẩn cấp bày đại tiệc ở Diễn Võ Sảnh! Quay sang đám đông đứng xung quanh, y nói: - Hôm nay chúng ta phá lệ, uống rượu một bữa để chào đón người anh em mới quen biết này, ta giới thiệu, y quay sang Nguyên Huân: Đây là người anh em họ Đoàn, tên Thiên Chính, vốn là hậu duệ của Đoàn Nam Đế khi xưa! Mọi người nghe giới thiệu đều trố mắt nhìn, một người trong bọn lên tiếng: - Nam Đế khi xưa là một trong Ngũ Bá, võ công cái thế, Nhất Dương chỉ, Tiên Thiên công vang danh thiên hạ, ngày nay anh em chúng ta hẳn được sáng mắt ra! Nguyên Huân thấy người vừa nói, đôi mắt lồi, mặt đen, râu quai nón như Trương Phi thời Tam Quốc; tiếng sang sảng như chuông, nên biết y nội lực rất sung mãn. Chu Ngoạn Thanh nói: - Đoàn hiền đệ, vị này là Thiết Chưởng Lôi Chấn Hoa. Nguyên Huân nghiêng mình chào: - Vãn sinh hân hạnh được quen biết chư vị anh hùng, thật là tam sinh hữu hạnh! Một nhà sư mặc áo đỏ, lông mày như chổi xể, Nguyên Huân nhận ra ngay là người của Hồng giáo, còn gọi là Lạt Ma giáo, giọng y như lệnh vỡ: - Tiểu thí chủ đây là người họ Đoàn, hôm nay chúng ta xem thử Nhất Dương chỉ uy lực ra sao! Chu Ngoạn Thanh lên tiếng: - Vị này là Thiên Quang Thượng nhân, với Chu Sa chưởng uy mãn kinh người đấy! Thôi được, chốc nữa đây ta sẽ giới thiệu với Đoàn hiền đệ một lượt, để còn có rượu chúc mừng cuộc gặp mặt này nữa chứ! Tên hầu cận đã quay trở lại, vòng tay thưa: - Bẩm Vương tử, đại tiệc đã dọn xong. Gần hai chục người ngồi quanh một dãy bàn dài, Nguyên Huân được xếp ngồi đối diện với Chu Ngoạn Thanh, bên cạnh y là nhà sư áo đỏ Thiên Quang Thượng nhân, bên trái, một đại hán chỉ còn một mắt, ánh mắt chớp nhay nháy như ánh chớp, một vết sẹo đỏ thẩm chạy dài trên gò má, lông mày một bên cao một bên thấp. Chu Ngoạn Thanh ngửa bàn tay hướng về phía tên này: - Vị này là Độc Long thần Phùng Diệm Sơn, một nhân vật tung hoành trên khắp giải Hoàng Hà mà không có đối thủ! Nguyên Huân nghiêng đầu chào, y chỉ khẽ hừ một tiếng, tỏ vẻ khinh thị. Chu Ngoạn Thanh tuy biết nhưng giả bộ làm ngơ. Sau lưng Chu Ngoạn Thanh là hai người con gái đứng hầu quạt, cả hai cùng một nhan sắc sàn sàn như nhau, đôi mắt long lanh tình tứ, trang phục trên người là một loại vải mỏng như cánh chuồn, thân thể ẩn hiện dưới lớp áo như sương khói, làm tăng thêm vẽ kiều mỹ đầy sức khêu gợi. Nguyên Huân thản nhiên trước đôi mắt đưa tình gợn sóng của hai ả. Chàng luôn luôn tự nhắc mình phải sắm cho trọn vai trò mình đang đóng, chàng không được tự ái; hôm nay phải chiếm bằng được tình cảm của bọn thuộc hạ Ngoạn Thanh, đồng thời chàng phải biểu lộ thần uy để khuất phục bọn chúng. Chàng tự tin ở khả năng của mình với công lực hiện có mà chàng đã được hấp thụ toàn bộ tinh anh của những bậc thuộc hàng cao thủ tuyệt đại của võ lâm. Ngay từ lúc nhỏ, tuy Lục thúc của chàng bệnh hoạn nhưng vẫn truyền đạt cho chàng khẩu quyết Tiên Thiên công và Nhất Dương chỉ của dòng họ ông. Hai môn công phu tối thượng của Đoàn Nam Đế Đoàn Chính Tâm chưa luyện thành đến nơi đến chốn thì xảy ra đại nạn. Suốt trong hai mươi năm, ông đã tận tình chỉ bảo cho chàng. Chàng còn được Tiêu Đại Hùng truyền cho Hỏa Vân công, được Dư lão Chưởng môn Võ Đang truyền thụ Cửu Dương công, được Thiên Hư đạo trưởng đã hết lòng dốc tâm truyền dạy Nhật Nguyệt Tam Hóa Thần Công; tất cả đều là công phu tuyệt học thuần dương, cực kỳ cương mãnh. Thiên Hư và Điền Hoành Thứ Lang dốc túi chân truyền cho hậu duệ còn sót lại cuối cùng của Bát Đại danh gia tất cả công phu về quyền, chưởng, trào, chỉ, thân pháp, kiếm thuật... Tất cả, tất cả đã đặt hết kỳ vọng vào chàng, chàng đã miệt mài khổ luyện và đã không phụ lòng. Thành quả công phu đã đạt được gấp ba, bốn lần của người khác trong cùng một thời gian. Dư Liên Châu, Thiên Hư đạo trưởng và Điền Hoành Thứ Lang còn liên thủ nội lực xung phá Sinh Tử Huyền Quan cho chàng, giống như khơi rộng dòng chảy của con sông lớn khiến nội khí luân chuyển trong kinh mạch cực kỳ thuận lợi, do đó, nội lực chàng tăng tiến rất mau. Kẻ thù chàng là nhân vật số một trong thiên hạ, võ công y không biết đâu mà lường. Từ ý chí mãnh liệt, từ một quyết tâm vô hạn, công thêm với căn cốt tuyệt vời, trong một thời gian ngắn, Nguyên Huân đã quán triệt được những ảo diệu trong từng công phu tôi luyện, tuy chưa đến mức nhập thần nhưng đó đã là một kỳ tích hiếm có. Hôm nay chàng sẽ hiễn lộng công phu để đo lường kết quả. Nên khi Độc Long thần Phùng Diệm Sơn có thái độ coi thường, khinh thị, chàng vẫn làm ngơ như không hề nhận thấy. Chàng biết rằng ngay hôm nay, Chu Ngoạn Thanh sẽ thử thách chàng, Nguyên Huân sẵn sàng đón nhận điều này không mảy may lo ngại. Chàng không thể nhớ hết được tên từng người trong bàn tiệc sau khi Ngoạn Thanh giới thiệu, đây chỉ là cơ hội để hiểu biết thêm về các nhân vật trong võ lâm Trung thổ, bởi thế, những cái tên, những biệt danh không gợi cho chàng một ý niệm gì. Phía áp chót đầu bàn, một đại hán có đôi mắt loang loáng như sao mà lúc nãy chàng thấy Chu Ngoạn Thanh giới thiệu y một cách có vẻ đặc biệt: Thiết Đạn Tử Hạ Hầu Thành, y đang đứng lên và nhìn về phía Nguyên Huân: - Tại hạ, Hạ Hầu Thành, hôm ở khách điếm đã được chứng kiến công phu võ học của Đoàn Thiếu hiệp, nay lại được Vương tử chủ nhân giới thiệu là dòng dõi của Đoàn Hoàng gia của nước Đại Lý, trong lòng ngưỡng mộ, nay dâng chén rượu nhạt này, mong Thiếu hiệp chiếu cố cho! Nói xong, y rót đầy ly rượu, và bằng một thủ pháp cực kỳ nhanh nhẹn, ly rượu như được một sức mạnh vô hình đẩy bay về phía Nguyên Huân, lực như tên bắn, nhắm vào mặt chàng. Nguyên Huân biết y nổi danh trong thiên hạ với mỹ hiệu Thiết Đạn Tử không phải là tình cờ, chàng vẫn ngồi im, nét mặt hòa nhã, nghiêng mình nói: - Xin đa tạ! Lời chưa dứt, ly rượu đã bay đến, Nguyên Huân vận kình khí Tam Hóa Nhật Nguyệt, bàn tay đưa ra, lạ lùng thay, ly rượu như chạm phải bức tường âm nhu vô hình bỗng dừng lại trên bàn tay chàng, ly rượu tiếp tục xoay nhẹ vài vòng trước khi ngừng lại, không một giọt rượu đổ ra. Chàng nâng lên uống cạn, để ly rượu mong manh xuống bàn: - Tại hạ xin cảm ơn Hạ Hầu đại hiệp đã yêu mến mà ban rượu cho! Nói xong, chàng đặt tay lên miệng bình rượu, vận Tiên Thiên công, một dòng rượu mỏng manh vọt ra khỏi miệng vòi chảy vào chiếc ly trống để cách xa khoảng hai gang tay. Rượu đã ngang miệng ly, chàng nhấc tay, tươi cười nói: - Mời Hạ Hầu đại hiệp vui lòng nhận cho! Nói xong, Nguyên Huân dùng tay nâng ly để vào lòng bàn tay phải, ly rượu từ từ bốc lên khỏi tay và từ từ di chuyển về phía Hạ Hầu Thành. Ly rượu đến ngang tầm mắt Hạ Hầu, y đưa tay ra đỡ, nhưng bỗng dưng hắn không giữ được vì như có một sức nặng vô hình ném xuống đã đẩy ly rượu chạm hẳn mặt bàn, đáy ly từ từ lún vào mặt gỗ, đến quá nửa ly thì dừng lại. Trong bàn tiệc, không khí ngưng đọng, mọi người nín thở nhìn chiếc ly sứ Giang Tây mỏng manh đã nằm lún vào mặt bàn được làm bằng một loại danh mộc, rượu vẫn không sánh ra ngoài. Việc Hạ Hầu Thành đẩy ly rượu về phía Nguyên Huân, kình lực thật là mãnh liệt, nếu chàng đỡ ly rượu bằng tay, giữ lại, rượu sẽ từ trong ly hắt tung vào mặt mũi, quần áo; gây nên một trò cười vì bản lãnh non yếu, còn nếu không giữ được, ly rượu sẽ đánh trúng mặt, hậu quả tuy không chết, nhưng thương tích sẽ làm hư hỏng khuôn mặt.. Ngoài ra, trong số bọn hảo thủ, chưa chắc có ai tự tin là khi bắt được ly rượu sẽ không làm đổ rượu.. Nguyên Huân miệng vẫn tươi cười, bàn tay đưa ra một cách hết sức bình thường, chàng đã dùng nội gia chân khí hóa giải toàn bộ kình lực của Hạ Hầu Thành, làm cho ly rượu xoay tròn để giữ cho rượu không văng tạt ra ngoài, đồng thời, lúc mời lại, từ cách rót rượu đến cách đưa ly đến trước mặt Hạ Hầu Thành, đã như có một bàn tay vô hình từ từ mang đến. Chính cái từ từ, mới nhìn tưởng là tầm thường, thực sự mới là điều khó khăn vô cùng. Ly rượu đi từ từ mà không bị trọng lượng và sức hút làm rơi xuống; cho đến khi cn tận sát bọn cuồng dâm.">