Vừa từ nhà người em chồng bước ra, bà Quang kêu mệt. Không biết họ chưa từng được ăn hay sao mà cứ và cứ gắp, y như đã bị bỏ đói lâu ngày. Thằng cháu Việt kiều thì cứ mải lo huyên thuyên khoe khoang cái chỗ nó vừa từ đó trở về. Nó khoe từ cái ăn, cái mặc, cái làm, cái chơi..., cái nào cũng hơn hẳn xứ sở nghèo nàn đã sinh ra nó. Bà Năm Thịnh đã mấy lần kéo tay, ý muốn nó ngưng nói để hỏi thăm bà bác dâu từ Sài Gòn về mà nó cứ vờ không biết. Khách thì cứ ăn. Chủ thì cứ nói. Đồ ăn bao nhiêu cũng hết. Nhà sau lại nghe tiếng heo kêu la inh ỏi, chắc họ sắp làm thêm một con nữa. Bà Quang ngồi nói chuyện với bà Năm Thịnh một lúc thấy bực bội. “Mình cất công từ Sài Gòn về đây thăm nó là nghĩ tình họ hàng chẳng còn ai. Mà nó cứ như người dưng nước lã thì ngồi lâu làm gì”. Nghĩ như vậy, bà nói lời từ giã với người em dâu. Bà dùng những lời ngọt ngào, thận trọng chứ thật tình trong bụng chẳng chút vấn vương. Một người đàn ông trạc hơn ba mươi nãy giờ đứng xớ rớ, khách chẳng ra khách, mà chủ cũng không ra chủ, đến bên bà: - Mẹ định về sao mẹ? - Ừ! Xuống nhà dưới kêu vú con sửa soạn về! Gã chen trong đám người đang miệt mài ăn uống, xuống nhà ngang. Lát sau, một người đàn bà ăn mặc xuề xòa theo gã lên nhà trước. - Vú mày đã ăn chưa? Bà Quang hỏi. - Dạ! Em ăn rồi. Chị tính về bây giờ sao? - Về! Để cháu nó còn tiếp khách. Mình ở đây chỉ làm chật nhà. Bà Năm Thịnh biết bà chị dâu giận nhưng cũng không biết làm sao. Hai ông chồng đã chết, chỉ còn hai chị em bạn dâu mà kẻ quê người chợ. Mấy năm nay ai cũng bận bịu chẳng được viếng thăm nhau. Kỳ này, thằng Thuận con bà về nước, tưởng bác cháu gặp nhau vui vẻ, ai ngờ thằng con bà quá quắt, luôn khoe mình giàu. Bà Quang lại quen thói kẻ cả. Thôi thì, chị ấy về cũng tốt. Bà Năm Thịnh đưa ba người tới bến đò rồi quay lại sau khi nói vài câu xin lỗi. - Thân à! Bây giờ về Sài Gòn cũng trễ, hay là mình bao đò đi chơi một buổi. Tối về thị trấn thuê phòng ngủ rồi mai về sớm- Bà Quang gợi ý với con trai. - Dạ! Mẹ tính như vậy cũng tiện. Con thấy chú Thuận cũng quá đáng thiệt. Dầu gì cũng là cháu mà không kể gì tới mẹ hết. - Mặc kệ nó! Tao về cũng không vì nó. Nghĩ mồ mả ông bà với ba mày còn nằm đó mới về. Chứ cái thứ rác rưởi đó, ai thèm nói tới. Hai người bàn bạc xong, kêu người lái đò xách giùm đồ đạc xuống. Người đàn bà được Thân gọi bằng vú vẫn lặng im. Thân lấy từ trong túi xách ra chai nước khoáng, gã mở nắp rồi đưa bà Quang: - Mẹ uống đi! Hồi nãy chắc mẹ chưa ăn gì hả? Mẹ có ăn bánh ngọt không, con lấy cho! Gã vừa nói vừa soạn kiếm bọc bánh trong túi xách. Họ đã xuống đò. Giờ này nước đang lớn. Người chèo đò cặn dặn: - Ra tới đầu doi hơi có sóng, hai bà với cậu ngồi kỹ chút nghe! Thân cười, trán gã lấm tấm mồ hôi. Bà vú móc từ túi áo bà ba của mình cái khăn tay đã ố vàng, vói tay lau mồ hôi cho gã. Thân gạt ra. Gã móc khăn giấy từ trong xách đưa bà Quang một bịch. Rồi chừng như nhớ ra, gã hỏi: - Hồi nãy vú có ăn cơm chưa? Cứ ở đó lo làm! - Rồi! Vú ăn rồi mà! Bà vú nói thì nói vậy, chớ đã ăn uống gì đâu. Mới tờ mờ sáng, bà đã xuống bếp phụ làm. Bà Quang ở nhà trên chắc còn ngủ được. Còn bà nằm chèo queo ở bộ vạt nhà dưới nghe đám thanh niên đánh bài, đánh lô tô cười nói sáng đêm nên đâu chợp mắt được. Bà lại sợ thằng Thân bị người ta ép uống rượu nên cứ giở mùng dòm ra hoài. Rốt cuộc thì trời sáng. Thằng Thân tuy do bà mang nặng đẻ đau, nuôi nó tới ngày khôn lớn nó vẫn chưa bao giờ kêu bà một tiếng má ngọt ngào. Âu cũng là kiếp số. Còn người đàn bà không chung cùng một giọt máu, không cực khổ một ngày vì nó, lại được nó luôn miệng kêu tiếng “mẹ” thương yêu. Thằng Thân bao nhiêu tuổi thì nỗi đắng cay đau đớn trong lòng bà cũng bao nhiêu năm. Mười tám tuổi, bà vào nấu ăn cho nhà ông Quang, con trai một địa chủ có tiếng trong vùng. Ông Quang mở rộng làm ăn, có nhiều nhà máy ở khắp huyện. Bà Quang lại là người đàn bà đầy tham vọng. Bà quán xuyến công việc hơn cả chồng. Trong tay vợ chồng bà có cả trăm người phụ việc. Chính vì ham mê công việc, nên bà thường xuyên vắng nhà. Bà vú thuở ấy lại là người con gái dễ coi. Cái ngày phát hiện người làm có thai với chồng mình, bà Quang đã ngồi lì trong phòng một buổi. Cuối cùng, bà nói với chồng: “Em biết em có lỗi đã để mình phải chăn đơn gối chiếc. Nhưng dù sao, cô ấy cũng là người làm, để bên ngoài biết, thiên hạ sẽ cười chê. Bây giờ, tạm đưa cô ấy về quê em, chờ sinh nở xong rồi tính”. Không một ai biết chuyện ngoài vợ chồng bà, bà vú và lão quản gia. Hai đứa con bà Quang đứa mười, đứa sáu tuổi đã reo mừng khi thấy mẹ chúng đem về một đứa em trai. Thằng Quân hỏi: - Ủa! Mẹ đẻ em hồi nào hả mẹ? Còn thằng Quỳnh ngọng nghịu: - Em... em “ngỏ khíu” hà! Bà Quang cười với con: - Đây là em của hai đứa con, vú sẽ nuôi em thay cho mẹ. Mai mốt, tụi con có ba đứa, mặc sức mà chơi mà giỡn. Vậy là bà vú lại được nuôi con mình và gần người chồng hờ của bà. Ông Quang từ đó thêm nể vì người vợ biết cư xử và cũng không mặn mòi với bà vú nữa. Thằng Thân không được đặt cho những cái tên rất kêu của dòng họ chỉ đơn giản là Văn Thân, theo họ bà vú, cha vô danh. Đó là ý của bà Quang và ông Quang không một lời phản đối. Thằng Thân vẫn kêu cha gọi mẹ và vẫn mang cái lý lịch “tréo cẳng ngỗng” đó đến ngày ông Quang mất. Bà vú không đòi hỏi gì hơn là được gần con và thấy con mỗi ngày khôn lớn, lại được ăn học đàng hoàng. Với thiên hạ ở bên ngoài thì Thân là đứa con nuôi. Với ông bà Quang, gã là đứa con ngoài ý muốn. Nhưng với bà vú, đó là niềm hạnh phúc lớn lao nhất đời bà. Mãi đến năm lên tám, Thân mới biết bà vú là mẹ ruột, là người đã sinh ra gã. Lẽ ra, càng lớn, gã càng phải biết thương yêu người đàn bà khốn khổ đã rứt ruột đẻ ra mình, đã chịu bao nhiêu đắng cay trong đời tôi tớ chỉ để được gần con. Quân và Quỳnh trực tiếp quản lý công việc làm ăn với mẹ. Thân chỉ làm những việc vòng ngoài. Gã biết cái thân chẳng đáng giá của mình từ sau khi cha chết và gã đã làm đủ mọi cách để có tên trong giấy tờ chia gia tài của bà Quang.