Jacek, trung tâm máy tính, Viện Max Planck, Hamburg: Đúng là anh đã bỏ ra ngoài, khi chuông điện thoại reo. Hôm ấy là thứ bảy, ngay trước nửa đêm, trong trung tâm máy tính vắng ngắt, chỉ có thể là vợ anh gọi đến. Anh không muốn nhấc máy. Anh mệt kinh khủng, phải theo dõi cả ba máy tính nên nước mắt cứ chảy ra, anh cảm thây trong lòng hồi hộp, cảm giác bao giờ cũng xuất hiện khi anh uống trên mười ly cà phê và hút hết hai bao thuốc lá. Anh ở trong tâm trạng hoàn toàn không muốn nghe hai lần những lời ca cẩm của vợ, bây giờ qua điện thoại và sau đó là ở nhà, ngay khi anh bước vào nhà. Lại thêm một lần anh biết, nào là "anh không bao giờ ở nhà", nào là "Ania từ lâu nay đã quên không biết trông mình như thế nào", rồi " lẽ ra anh nên cưới mấy cái máy tính thổ tả ây mới phải" và "đằng nào thì bọn họ cũng chẳng đánh giá đúng mức công sức của anh". Còn anh đương nhiên là không nói với cô ấy rằng anh phải đến đây vì đang có một dự á n quan trọng, vì anh đã hứa với xếp, vì mọi người ở California đang đợi và họ cần phải biết rằng, ở đây, ở Hamburg này họ bị cắt Internet hai ngày, vì vậy mà anh bị tách biệt với thế giới như thể người Eskimo trên một tảng băng trôi và ngày hôm qua anh không thể hoàn thành việc này được. Anh bỗng thấy bực mình kinh khủng. Về nguyên tắc thì tại sao anh lại không thể, dù chỉ một lần, nói cho cô ấy biết chuyện này? – anh nghĩ. Mình ở đây làm việc chết thôi, còn cô ấy… Anh đột ngột quay lại chỗ điện thoại, anh muốn hét to lên hết cả để cô ấy nghe. Anh nhấc máy. Đó là Jakub. - Jacek, ông lấy hộ tôi một cái e-mail từ máy chủ của Poznan. Chuyện này với cô ấy rất quan trọng – hắn nói với cái giọng nhỏ nhẹ, bao giờ cũng buồn buồn và khàn khàn của mình. Nếu hắn gọi vào trước mười hai giờ đêm thứ bảy, sau năm năm và nói một kiểu câu như thế này ngay sau "chào ông", thì chắc chắn đây là việc cực kỳ quan trọng đối với hắn. Anh không hỏi gì, chỉ lấy địa chỉ máy chủ, địa chỉ người nhận e-mail và xác định anh có bao nhiêu thời gian cho "điều sai bảo" của hắn. - Đến thứ hai, sáu giờ sáng. Ông có thể gởi tin nhắn cho tôi nếu lấy được hoặc không? - Jakub, ông phải tin là sẽ được. Cho tôi số nhắn tin của ông đi. - Ania thế nào? – hắn hỏi. Chỉ cần nghe thấy là rất tốt và vẫn hỏi thăm hắn thường xuyên, là hắn cúp máy luôn. Hắn luôn luôn xuất hiện rất nhanh, khuấy động mọi thứ rồi biến mất. Phần lớn là vào mùa hè. Mọi cái lại trở về với anh như một giấc mơ giữa ban ngày, gần đây anh hay bị như thế sau mỗi lần uống rượu vang. Nhưng đây không phải là giấc mơ. Jakub là một mảng khác thường của quá khứ anh. Họ biết nhau từ hồi học trung học kỹ thuật. Ngay từ đầu anh đã thán phục hắn, vì bộ óc của hắn và sức chịu đựng của hắn. Thực ra thì đứa nào cũng thán phục hắn, nhưng đương nhiên là chưa bao giờ có ai nói với hắn điều đó. Trong ngôi trường kia, bộ óc của hắn không phải loại cơ bắp đáng để kính nể, chí ít thì cũng công khai, mà hắn thì không có loại cơ bắp khác, thêm vào đó hắn còn nhỏ con nhất trường. Bao giờ cũng đăm chiêu, buồn buồn thế nào ấy. Và liên tục nhận được thư mẹ. Hàng ngày. Chỉ riêng chuyện ấy cũng đủ để bọn chúng bày ra những trò hèn mạt đối với hắn. Thỉnh thoảng bọn chúng lại lấy cấp những bức thư kia, mở ra và đọc to. Còn có thể là gì nữa, trong những bức thư của một người mẹ đang nhớ? Những lúc ấy hắn đứng đờ người ra, khổ sở vô tận, không nói gì, chỉ nắm chặt hai tay và nhìn bọn chúng đầy căm giận với ánh mắt bất lực. Hắn không thể làm gì được bọn chúng, bởi hắn không có cơ bắp nào khác ngoài bộ óc và bọn chúng biết điều đó. Nhưng sau năm thứ ba, nghỉ hè xong, hắn đến trường hoàn toàn thay đổi. Hắn lớn lên trông thấy. Hắn đột nhiên to cao như tất cả bọn khác. Anh nhớ rất rõ sự kiện này. Một đứa nào đó trong lúc ăn trưa ở nhà ăn ký túc xá đã cá cược oang oang lên rằng có phải mẹ Jakub đã vay bưu điện số tiền mua tất cả số tem thư gửi cho hắn. Mọi người bắt đầu cười. Jakub từ tốn đứng dậy – có những tia lửa trong mắt và nụ cười quái dị - đi đến chỗ cái thằng vừa nói, xin lỗi những đứa ngồi cùng bàn và dùng hết sức đập đĩa súp vào đầu thằng kia. Cho tới tận bây giờ anh vẫn còn nhớ chỗ súp còn lại trong đĩa đã chuyển sang màu máu như thế nào. Tất cả im lặng nhìn, còn hắn kéo cái đầu đầy súp ra và để hạ nhục kẻ bất hạnh hơn nữa, lấy giấy ăn chùi khuôn mặt dính máu của nó rồi lặng lẽ đi ra. Chuyên xảy ra thật đẹp… Anh không nhớ sau đấy có còn ai dám bình luận về những bức thư kia nữa không. Sau tai hoạ trên, Jakub bỗng nhiên bắt đầu tồn tại, khi hắn nói điều gì đấy, bọn chúng nghe hắn như nghe tất cả những đứa khác, khi chúng hút thuốc, hắn cũng được mời ( điều mà cho đến lúc ấy chưa từng xảy ra), khi bọn chúng đi khiêu vũ với bọn con gái trường kỹ thuật y khoa, chúng đưa hắn theo. Hắn đi cùng bọn chúng mặc dù không bao giờ nhảy. Bao giờ hắn cũng ngồi đúng cái góc tối ấy, không nói gì, chỉ tư lự nhìn. Song có một lần, trong một buổi khiêu vũ đã xảy ra một điều rất không bình thường. Một trong số các cô dạy văn kỳ quặc của trường kỹ thuật y khoa muốn làm cho trò chơi hoá trang phong phú hơn (thực ra thì là để tách những đôi bắt đầu ôm nhau chặt hơn khi khiêu vũ), đã tổ chức festival thơ. Trên một cái bục giống như sân khấu, mọi người đọc thơ. Không khí giống như một cuộc thi, mà mục đích là chọn ra những người thuộc lòng những đoạn thơ dài nhất. Một ý tưởng rất phản động, vì với bọn con trai ở trung học kỹ thuật, thì thơ xa lạ giống như một tủ lạnh đối với người Eskimo. Thậm chí không đứa nào trong số bọn chúng bước lên sân khấu. Sau vài phút thì thấy rõ là chỉ có tụi con trai của trường phổ thông là đua tài với nhau, mà chủ yếu là để thể hiện với bọn con gái trường kỹ thuật y. Cuộc thi kết thúc, hàng tràng vỗ tay tán thưởng của quí cô dành cho người đọc thơ đang từ sân khấu đi xuống đầy kiêu hãnh sau mười bốn phút thể hiện một đoạn trong Balladyna của Slowacki, đúng lúc ấy Jakub bỗng nhiên xuất hiện. Hắn yêu cầu đưa micrô và khi tất cả im lặng, hắn tự giải thích rằng đây sẽ không liên quan gì đến các bài học ở trường và hắn sẽ chỉ chú trọng tới… tình ái. Không đợi cho tiếng xì xào vì ngạc nhiên lắng hẳn, bằng một giọng khẽ khàng hắn bắt đầu đọc. Asnyk, Pawlikowska–Jasnorzewska, Jastrun, Przerwa–Tetmajer, Osiecka, Galczynski, Illakowiczowna, Lesman, Baczinski, Norvid, Staff, Czechowicz… Không một lần dừng lại, suốt nửa tiếng trong tiếng vỗ tay, không nhìn xuống khán giả, chỉ tập trung vào một điểm trên sàn, hắn đọc tên các nhà thơ, tên các tập thơ và đọc thơ. Thỉnh thoảng hắn dùng tay nhẹ nhàng minh hoạ, thỉnh thoảng hắn trầm ngâm trong vài giây như muốn dành cho người nghe một khoảng thời gian cho thư giãn, cho thay đổi tâm trạng hoặc đơn giản là tìm bài thơ lại trong trí nhớ. Tại một thời điểm, giữa bài thơ của Pawlikowska – Jasnorzewska, hắn từ sân khấu đi xuống và ngồi vào góc của mình. Im lặng kéo dài khoảng hơn chục giây, bọn con gái bên trường phổ thông nhìn hắn với ánh mắt đầy ngưỡng mộ, còn đám con trai bọn chúng, đám con trai của trường kỹ thuật thì nở nang vì kiêu hãnh. Jakub nhỏ con của chúng….. Ngoài ra Jakub còn hoàn toàn bình thường. Hắn uống rượu với bọn chúng, cũng chửi thề như chúng và là một người trong số chúng. Ngoài việc hắn có bộ óc ấy, những bức thư mà mẹ hắn hàng ngày gửi đến và hắn thuộc ngần ấy bài thơ, hắn là "từ cùng một cuốn sách". Tất cả đều biết rằng hắn sẽ học đại học. Các giáo viên hơi sợ hắn kể từ cái lần trước cả lớp mà lại đang trong buổi dự giờ, hắn đã cho thầy dạy lý một bài giảng về đề tài sự giãn nở của vũ trụ, còn khi thầy này được hắn tha, đã thú nhận rằng mình không biết Hubble là ai, hắn đã gọi ông ta là "kẻ dốt nát tỉnh lẻ" và là "đại diện được đào tạo của cơ quan thanh tra giáo dục". Hình như những vị dự giờ có tuổi của cả tỉnh cho tới tận bây giờ vẫn còn kể về chuyện này. Hắn bị tước quyền học sinh một tuần, khi ông bố hắn đến theo giấy mời của ban giám hiệu, thậm chí không cần hỏi đầu đuôi câu chuyện thế nào, đã làm một trận lôi đình trong phòng hiệu trưởng, đến nỗi mọi người buộc phải gọi công an đến. Bố của Jakub không có một căn cứ nào khác, chỉ duy nhất một cái đó. Jakub của ông. Ông tự hào về hắn đến mức gần như bay khỏi mặt đất. Cho đến bây giờ vẫn không ai biết mọi chuyện đã diễn ra như thế nào, nhưng ngày hôm sau hiệu trưởng đã chính thức xin lỗi Jakub vào giờ điểm danh, còn thầy dạy lý thì chuyển trường hai tuần sau đó. Những con đường của họ tách ra sau ngày ra trường, anh ở lại Gdansk, còn Jakub tết nghiệp đại học toán và đồng thời triết học ở Wroclaw. Thỉnh thoảng anh lại nghe được những thông tin ít ỏi về hắn: rằng hắn giành huy chương Olimpic tiếng Anh toàn Ba Lan, rằng hắn học cùng lúc hai khoa, rằng hắn làm tiến sĩ ở Mỹ. Một ai đó đã có lần nói với anh là hắn bị gạch tên ở trường đại học. Nhưng anh không tin. Sau đấy thì con gái của vợ chồng anh bị ốm và thế giới như sụp đổ. Nó tên là Ania, mới lên tám, là tình yêu lớn nhất và duy nhất của anh, nó bị bệnh máu trắng và chỉ sau vài tháng nó sẽ chết. Anh bắt đầu uống, để có thể chịu đựng. Anh khóc và uống, càng uống nhiều, càng khóc nhiều. Nhưng không hao giờ anh khóc trước mặt Ania. Anh không còn tin vào Chúa nữa. Không thể có Chúa. Bởi nếu có, thì có nghĩa là Người hoặc rất xấu, hoặc bất lực, hoặc đồng thời cả xấu cả bất lực. Thậm chí ngay lúc này anh cũng không thể tin vào điều này, vậy thì anh loại trừ khả năng tồn tại của Người. Họ đưa con bé đi tất cả các bệnh viện ở Ba Lan. Ania bị mắc bệnh ngừng phát triển, tủy sống mất đần. Cứu cánh duy nhất là ghép tủy, nhưng thời đó ở Ba Lan chưa có ai làm việc này. Một lần, do tình cờ, khi đặc biệt tỉnh táo, anh được biết rằng ở Mỹ người ta làm được việc đó. Anh biết rằng việc phẫu thuật sẽ tốn kém không thể tưởng tượng nổi, mặc dầu vậy anh vẫn bắt đầu tìm kiếm. Anh được biết là Jakub đang làm tiến sĩ ở New Orleans và thông qua trường của hắn ở Wroclaw anh đã có được số điện thoại của hắn. Hai tuần liền anh đắn đo, gọi hay không gọi. Một lần, say và can đảm, anh đăng ký cuộc gọi. Mãi ngày hôm sau mới được kết nối, khi anh đã tỉnh táo và nói chung là không nhớ đêm qua mình lại can đảm đến thế. Tuy nhiên anh nhớ lại là mình muốn nói với Jakub về Ania. Jakub nghe rất nghiêm túc. Hắn đột ngột yêu cầu tất cả các thông số của Ania, các thông tin về tuỷ sống, về quá trình hóa trị liệu, về tình trạng của mạch bạch huyết. Có vẻ như hắn biết hết về bệnh máu trắng và ghép tủy. Điều này làm anh ngạc nhiên. Nhưng chỉ thoáng qua. Anh nhớ lại là bao giờ Jakub cũng biết hầu như tất cả. Hắn hỏi không chút cảm xúc. Thậm chí không cả nói mình rất buồn về bệnh tình của Ania. Hắn xin số điện thoại của anh và bảo sẽ gợi điện sau hai tuần, và cúp máy không một lời tạm biệt. Anh thậm chí không chờ đợi cú điện thoại này. Trong vô vàn những lời hứa suông mà họ đã vấp phải, và những hy vọng hão mà mọi người đã tạo nên cho họ, thì thêm một hy vọng này nữa đâu có nghĩa lý gì. Đơn giản vì khi đó Jakub là địa chỉ duy nhất ở Mỹ mà anh biết và anh nghĩ rằng riêng việc đã nhờ hắn giúp đỡ cũng đủ để anh thấy lương tâm thanh thản. Khi hắn gọi điện là gần trưa chủ nhật. Jakub. Không bao giờ anh quên được cuộc nói chuyện ấy: - Ông đã uống rồi cơ à? - hắn hỏi. - Chưa... vì hôm nay tôi phải vào bệnh viện với Ania – anh trả lời. - Thế thì tốt rồi. Bây giờ thì ông nghe thật kỹ nhé. Ông lên ôtô và đến sân bay Warszawa. 20 giờ 30 máy bay của LOT từ New York sẽ hạ cánh, trong đó có một người, người này sẽ đưa cho ông một thư bảo lãnh viết tay, nhận Ania vào Đại học Tổng hợp Tulane ở New Orleans để làm phẫu thuật ghép tủy, một giấy hẹn cấp viza cho Ania ở đại sứ quán Mỹ tại Warszawa và số đặt chỗ chuyến bay cho Ania đến New York vào thứ sáu. Tôi đã đặt cho con bé hai chỗ hạng business. Ông sẽ nhận tất cả những thứ này từ người kia và vé tại LOT ở Warszawa vào sáng thứ hai. Thứ ba, ông phải bán ôtô, đưa một ít hối lộ cho phòng hộ chiếu để giải quyết sao cho con bé có được hộ chiếu vào thứ tư. Thứ năm ông đến sứ quán lấy viza, còn thứ sáu thì đưa Ania lên máy bay. Tôi sẽ đón nó ở New York và đưa về chỗ tôi ở New Orleans. Đã có người cho tuỷ. Tôi đã giải quyết xong mọi chi phí cho cuộc mổ này, vậy ông đừng có làm hỏng việc đấy. Tối thứ ba tôi sẽ gọi cho ông - hắn nói và cúp máy. Còn anh thì đứng như trời trồng và cứ giữ cái ống nghe ấy rất lâu và kiểm tra lại xem mình có nhớ hết không, nước mắt chảy xuống má cho dù anh hoàn toàn chưa say... Tất cả đã diễn ra đúng như Jakub nói. Duy có hộ chiếu là do vợ anh khóc lóc mà có được chứ không cần phải hối lộ gì hết. Tuy nhiên đằng nào họ vẫn phải bán ôtô. Để trả một khoản tiêu cực khác: giải quyết việc chở Ania bằng máy bay lên thẳng từ bệnh viện ra sân bay Warszawa. Sáng thứ sáu, họ đứng trên sân thượng của Okecie, nắm tay nhau và nhìn cái máy bay ấy cất cánh. Jakub gọi điện từ New York thông báo rằng Ania đã đến nơi may mắn và con bé rất dũng cảm. Sau đấy thì hắn gọi hàng ngày. Vợ anh gần như phát điên lên. Cô ấy xin nghỉ phép để lúc nào cũng ở gần điện thoại. Cô ấy cấm mọi người gọi đến vì sẽ "chiếm đường dây". Còn khi điện thoại yên lặng quá lâu thì cứ chốc chốc cô ấy lại nhấc máy lên để xem nó có bị hỏng không. Hầu như cô ấy không ra khỏi nhà, không ngủ vì sợ rằng mình sẽ không nghe thấy tiếng chuông điện thoại. Anh uống liên tục. Sau năm tuần thì họ đi Warszawa để đón Ania. Họ đã biết là Ania sẽ sống. Tối hôm ấy họ về nhà mệt mỏi sau chuyến đi, và Ania lại ngủ trong căn phòng của nó, hai vợ chồng vào phòng con bé, quỳ xuống bên giường, ôm nhau nhìn con và khóc. Anh biết rất rõ rằng trong giây phút ấy, cả hai đều cảm thấy cùng một điều: lòng biết ơn trọn vẹn và lớn lao vô hạn. Lòng biết ơn giành cho một người khác. Anh chợt nghĩ rằng, dù sao Chúa vẫn tồn tại. Người chỉ đi vắng trong một khoảng thời gian nào đó mà thôi. Anh không thể hình dung được, lòng biết ơn không bày tỏ được có thể trở thành một gánh nặng như thế nào. Tối hôm ấy họ chờ điện thoại của hắn, họ muốn nói với hắn một điều gì đất. Cái gì cũng được, miễn là chứa trong nó lời cám ơn. Nhưng hắn không gọi. Cả tối hôm ấy, cả suốt hai năm sau đó hắn không gọi. Hắn vốn vậy. Và khi đó tối hôm ấy, anh thử gọi cho hắn. Anh đăng ký cuộc gọi và nói rằng anh muốn được kết nối ngay lập tức, phải trả bao nhiêu cũng được. Họ nói rằng đây là ở Mỹ, rằng anh cần phải hiểu, rằng họ sẽ kết nối cho anh, nhưng nhanh nhất cũng phải sau mười tám tiếng. Tối hôm ấy họ đã quyết định phải đi khỏi đất nước này. Và giờ đây khi mọi người hỏi tại sao họ lại rời Ba Lan thì anh nói rằng anh đi vì anh đã không thế bày tỏ được lòng biết ơn, còn mọi người thì cười và không tin anh. Nhưng đấy là sự thật, toàn bộ sự thật. Chuông điện thoại bứt anh ra khỏi dòng suy nghĩ. Lần này thì là bà xã. - Anh có biết rằng, đồ quỉ quái, ở Hamburg bây giờ đã là chủ nhật?- cô ấy bắt đầu. Anh không để cho cô ta nói hết. - Jakub vừa gọi, hắn cần anh giúp - anh nói. - Jakub...? Im lặng mấy giây, cô ấy hỏi: - Em có phải đến để giúp anh không? Anh cười, chợt ngạc nhiên vì câu hỏi ấy. Không, em không thể giúp được anh đâu. Đừng khóa cửa nhé để lúc về anh không làm Ania thức giấc. - Tất nhiên rồi. Với lại đằng nào thì cho đến lúc anh về em cũng không ngủ được. Jacek, anh phải cố giúp anh ấy đấy nhé. Đương nhiên là anh sẽ giúp! Anh sẽ giải quyết cái máy chủ này sao cho không phải đứng dậy! Kể cả lúc này anh phải đi Poznan và lấy búa đập tan nó ra hoặc là phải lấy dao cạo mà nạo cái e-mal ấy ra khỏi mấy cái ổ cứng. Anh biết là mình sẽ không phải đi đâu hết. Anh chợt cảm nhận được thách thức này. Giống như cái lần vừa mới đến Đức vẫn còn đang là sinh viên ở Frankfurt trên Men, cùng với các hacker giống như anh họ đã giải quyết những cái máy tính của IBM ở Heiderberg hoặc là họ đã thử đột nhập vào trung tâm Commerzbank. Sáng hôm sau anh cười khúc khích đầy tự hào khi đọc báo về "một cuộc thử đột nhập không thành vào trung tâm máy tính ở..." và ở chỗ này họ đưa ra tên một viện quan trọng nào đấy: Anh biết là đến tối anh sẽ phải giải thích cho người yêu rằng cuộc thử không thành công có nghĩa là máy tính vẫn còn đó, còn cuộc thử thành công thì sẽ có nghĩa là nó đã cháy trụi. Đó là cool và nó tác động giống như heroin. Chỉ còn lại rất ít từ cái thời xa xưa ấy: một vài tình bạn được sống lại bằng những tấm bưu thiếp nhân dịp lễ tết, một vài mẩu báo đã ố vàng, những kỷ niệm. Nhưng cũng có cả những cuốn sổ ghi mật khẩu, những mật khẩu giúp anh có thể thâm nhập vào hầu như tất cả các máy tính ở Đức. Anh pha một cốc cà phê nữa rồi bật máy tính. Đầu tiên, anh làm quen với máy chủ ở Poznan. Ngay lập tức anh nhận ra rằng nó được bảo vệ trước những cuộc tấn công từ bên ngoài bằng firewall, một chương trình bảo vệ chọn lọc, có vai trò như một người lính canh điện tử đặc biệt, và... anh phấn khởi. Anh sẽ không cảm nhận được thành công, nếu mọi việc quá dễ dàng. Sau đấy anh tìm trong sổ những mật khẩu mà bạn bè đã cho để vào được cray của các trường Đại học Tổng hợp ở Munich, Berlin và Stuttgat. Không có loại máy tính nào nhanh hơn cray. Cái đất nước giầu có này chỉ có bốn cái như thế kể cả cái ở đây ở Hamburg mà anh vẫn làm việc với nó. Anh đồng thời nhập hệ trên ba cái trong số đó. Anh khởi động viên ngọc của mình cùng lúc trên tất cả các máy. Đây là chương trình do anh tự viết và nó đã làm một việc tuyệt hảo: anh viết ẩn danh. Đơn giản là anh thay đổi địa chỉ phiên của mình ở Berlin, Munich và ở Hamburg này thành không hiện hành. Kể cả nếu cái firewall thông minh của họ ở Poznan có nhận ra cuộc tấn công khởi nguồn từ đâu thì đằng nào họ cũng chỉ nhận được một cái địa chỉ có phố không tồn tại trong một thành phố không tồn tại ở một nước không tồn tại. Nửa tiếng đồng hồ trôi qua, và anh đã sẵn sàng. Anh châm thuốc, ra bếp lấy bia trong tủ lạnh, nhìn đồng hồ và phải nói rằng đã muốn làm "nổ tung" luôn cả ba chương trình: ở Hamburg này, ở Berlin và Munich. Anh biết rằng ngay cả máy chủ ở Pentagon cũng không thể chịu nổi một vụ tân công như thế này. Kế hoạch rất đơn giản. Anh tấn công từ đây, từ Hamburg, hoàn tất trên cái cray ở Munich, còn sửa từ Berlin. Bởi nó gần Poznan nhất - anh cười thầm. Trong khoảnh khắc ấy, anh hiểu rằng mình thanh toán cả cái máy tính chỉ cất để hủy một cái mail duy nhất. Bỗng nhiên anh nảy ra một ý muốn không thể cưỡng nổi là thử xem trong đó là cái gì. Đây hẳn phải là một cái gì đó rất khác thường. Anh quyết định, với lương tâm của mình, rằng vì điều tốt cho vấn đề, vì điều tốt cho khoa học, anh có quyền xem bức mail đó trước khi hủy. Anh dừng việc tấn công, khởi động chương trình bẻ khóa hộp thư, và mail là của hắn. Anh uống một ngụm bia rồi bắt đầu đọc. Anh đọc và cảm thấy cả người mình run lên. Anh đã không linh cảm được rằng lại có một khi nào đó anh được đọc một bức thư đẹp đến vậy về tình yêu, nỗi nhớ, sự thất lạc, lòng ghen, sự không chung thủy và sự trừng phạt vì tội … Cô ấy phải là một hiện tượng khác thường, không lặp lại như thế nào đấy một khi Jakub đã viết một bức thư như thế. Anh ghen với hắn. Anh lại nhớ về trường. Sự kiện từ cái thuở Jakub vẫn còn là một "thằng nhỏ". Bọn chúng phải viết một bài về đế tài Tạm biệt Maria của Borowski. Còn mười lăm phút nữa thì hết tiết học, bỗng nhiên cô giáo nhớ ra là mình vẫn chưa kiểm tra các bài làm đó. Cô gọi Jakub. Tất cả thở phào nhẹ nhõm, còn hắn bắt đầu đọc. Hắn viết về cái chết, về nỗi đau khổ, về sự tồn tại, về sự qua đi về phẩm giá con người hay và xúc động đến nỗi cô giáo đã phải khóc. Không tự chủ nổi, cô phải bỏ ra ngoài khi hắn chưa kết thúc, còn hắn, không để ý đến điều đó, vẫn đọc tiếp. Tất cả đờ người ra nghe trong một sự im lặng như thể cô giáo chưa từng bao giờ có mặt trong lớp. Và cả sau đấy nữa, không bao giờ. Chuông hết giờ đột ngột vang lên, nhưng không ai đứng dậy. Jakub đọc xong và lặng lẽ ngồi xuống, trong khi tất cả những đứa khác ra khỏi lớp trong khoảng thời gian giải lao còn lại và không đứa nào dám nhìn vào mắt hắn, vì đứa nào cũng xấu hổ với sự mềm yếu mà mình vừa tỏ ra. Bởi hắn lúc nào cũng vẫn là cái thằng Jakub nhỏ nhất hướng ấy. Chỉ có anh, Jacek là ngồi xuống cạnh hắn một lúc, vỗ vai hắn và nói: - Iakub, đừng ngại. Không chỉ có cô giáo đâu. Cả tớ cũng khóc đấy Đã đến lúc. Đầu tiên anh khởi động chương trình ở chỗ mình, sau đó ở Munich và cuối cùng là ở Berlin. Anh chờ mất mấy phút và thử kết nối với máy chủ ở Poznan. Anh cười mãn nguyện. Máy chủ ở Poznan đã không còn. Có nghĩa là vẫn còn, nhưng chỉ là một đống silic vụn. Anh chọn số nhắn tin của Jakub trên trang web cho phép gìn thẳng tin nhắn từ Internet, và viết: Poznan không còn nữa. Chắc chắn cô ấy sẽ không bao giờ đọc được cái mail ấy. Jacek. Anh gửi tin nhắn và nghĩ rằng tuy nhiên Jakub không phải từ cùng một cuốn sách ấy. Anh tắt máy tính, uống nốt chỗ bia và chậm rãi ra thang máy. ANH: Từ hơn chục giờ đồng hồ nay anh ngồi trong phòng làm việc ở Munich. Chi có tiếng gõ bàn phím máy anh làm xáo động sự yên tĩnh. Đã bước sang ngày chủ nhật. Anh đợi. Cố tập trung vào bài mà anh vừa tìm được trên mạng. Anh cho rằng điều đó sẽ xua đi nỗi lo âu trong mình. Song nỗi lo âu không mất đi. Nó chuyển thành nỗi sợ hãi. Anh sợ rằng sẽ mất cô vĩnh viễn khi cô đọc cái e-mail mà anh gửi cho cô. Anh viết nó ở tâm điểm bùng nổ của ghen tuông, thất vọng và nhớ. Cho tới lúc ấy anh vờ như không ghen hoặc giấu đi sự có mặt của nó. Anh học điều này rất lâu, và việc họ không gặp nhau đã giúp anh. Những cái kiểu như nét mặt, ánh mắt nhìn, tâm trạng, giọng nói, vê bối rối hoặc sất ruột không bị cô thu nhận. Cảm xúc chỉ được biểu lộ duy nhất qua những dòng chữ, mà trong trường hợp của họ thì như vậy dễ kiểm soát hơn. Đôi khi anh phân vân, phải chăng chính khả năng chỉ sử dụng duy nhất chữ viết này là điều lâm người ta hài lòng, trong những mối quan hệ trên mạng như thế này. Một số người nghĩ ra những điều dối trá đầy tính thuyết phục, nhưng họ biết rằng họ không bao giờ nói ra những điều ấy, bới chỉ cần giọng nói run run hay khuôn mặt ửng đỏ cũng khiến chúng trở thành không thể tin được. Cả các tác giả ẩn danh cũng biết rất rõ về điều này. Cô có thể thu nhận được tất cả những gì anh viết, và nhiều nhất thì cũng chỉ có thể khuyếch đại chúng bằng trí tưởng tượng của mình. Thậm chí cả khi cô cảm nhận được nhiều hơn là anh mong muốn, thì cũng không thể nhận ra sự ghen tuông trong những con chữ của anh. Cô không thể, đó chính là thành công của anh và anh đã phải trả giá khá nhiều. Bởi chỉ thực tế là cô không chỉ thuộc về riêng anh, gần đây đã làm anh như mất trí. Vậy mà mới chỉ cách đây không lâu anh còn cho rằng ý nghĩ tối tối cô lên giường với một người đàn ông khác không làm anh đau đớn. Anh cho rằng cái gã có cô như của riêng chỉ khi nào hắn muốn, giống như là một đoạn tiểu sử đã xảy đến với cô, khi mà anh, Jakub chưa có mặt trong cuộc đời cô. Đơn giản là người đàn ông ấy đã đến với cô trước một thiên thạch lớn là anh, Jakub, đương nhiên. Anh tin là người đàn ông đó sẽ nhanh chóng biến mất. Như loài khủng long. Khủng long cũng chỉ bị tuyệt chủng sau vụ va chạm với thiên thạch hay sao chổi một thời gian nào đó chứ đâu phải ngay tức thì. Chủ yếu do bóng tối bao trùm lên trái đất. Vụ va chạm khiến cho trái đất bị phủ một đám mây bụi không cho ánh sáng mặt trời xuyên qua. Bụi làm cho thảm thực vật không sinh trưởng được, và điều này dẫn đến sự tuyệt chủng của loài khủng long ăn thực vật. Sau chúng là tất cả các loài khủng long ăn khủng long khác. Anh đã tự giải thích cho mình như vậy sau khi uống hết chai chianti thứ hai, rằng gã khủng long-chồng cô sẽ hệt giống, thậm chí kể cả gã có ăn uống lành mạnh và chỉ ăn toàn rau đi chăng nữa. Ngoài chuyện đơn giản là sẽ không có gã, điều này còn góp phần vào sự tiến bộ chung. Khủng long cũng chỉ là một thứ hành lý quá tải vô bổ của nền văn minh. Chương trình gien của chúng - gần như chắc chắn rằng những biến đổi gien ở loài khủng long sẽ không bao giờ xuất hiện nữa - đã hoàn tất, điều này cảnh báo rằng trên hành tinh này sẽ không bao giờ có người nữa. Và cả Internet cũng không có nữa. Nhưng may mắn thay, đã không xảy ra như vậy. Thiên thạch va vào và khủng long chết, nhường chỗ cho loài chuột. Những tạo vật siêu thông minh sống trong hang và quen với cái bóng tối đã hủy diệt loài khủng long hiệu quả ấy đã ra ngoài và bắt đầu tiến hóa. Liệu anh cũng là một con chuột như vậy? Không. Anh chắc chắn là không! Với lại giả thuyết với thiên thạch chỉ là một trong rất nhiều giả thuyết khác. Đã có những lúc anh không nhất trí với nó. Tất cả tùy thuộc vào việc anh uống bao nhiêu vang. Ngoài ra anh muốn được ưu tiên hưởng độc quyền quan trọng hơn nhiều. Độc quyền đối với ý nghĩ của cô. Anh muốn cô chỉ nghĩ đến anh khi trải qua niềm vui, khi đưa ra những quyết định, khi xúc động hay mơ mộng. Chỉ nghĩ đến anh khi nghe những bản nhạc yêu thích, những khi cười đến chảy nước mắt vì tếu hay khóc vì câm động trong rạp chiếu phim. Anh muốn cô nghĩ đến anh khi chọn đồ lót son tô môi, nước hoa hay màu nhuộm tóc. Để cô chỉ nghĩ đến anh trên đường phố khi ngượng ngùng quay mặt trước cảnh một đôi đang hôn nhau. Anh muốn là ý nghĩ duy nhất của cô mỗi sáng khi thức dậy, và mỗi tối khi chân vào giấc ngủ. Mặc dù không đủ can đảm để hỏi, nhưng anh chắc là cô thủ dâm. Cô quá hiểu biết để không làm việc đó. Chỉ có những người đàn bà thủ dâm mới biết rõ cái gì kích thích họ và biết nói lên nhu cầu ấy. Hơn nữa, hành vi thủ dâm là phần thêm vào duy nhất cho hành vi thực thụ có vị trí trong não. Bụng dưới chỉ là một sân khấu để người ta biểu diễn cái đó. Anh dám chắc rằng cô thủ dâm khi nghĩ đến anh. Vâng, đây chính là sự độc quyền ấy: hiện hữu trong não cô và trong các ngón tay cô - vào thời điểm như vậy. Nói chung, liệu có thể gần người đàn bà hơn khi người ấy giải tỏa những bức xúc của trí tưởng tượng của mình và biết rằng mình không phải, tuyệt đối không phải giả vờ bất cứ cái gì và trước bất cứ ai? Thậm chí nếu không phải là anh hôn lên phần bụng ấy, thì đó vẫn cứ là sân khấu của anh. Mặc dầu vậy càng ngày anh càng hay cảm thấy rằng như vậy với anh chưa đủ. Gần đây, trong những lần nói chuyện với cô trên ICQ, cả trên e-mail nữa, anh nhận thấy là cô đã tìm thấy modus vivendi [1] của mình và học cách sống, theo anh, thân thiết và thuận tiện giữa hai người đàn ông: chồng cô và anh. Mỗi người trong số họ cho cô một kiểu cảm giác khác, nhưng kết quả là, vì đã quá quen với thực tế là anh vượt qua được sự ghen tuông hoặc là không để cô nhận thấy, cô đã không còn giấu giếm rằng tình huống ấy không làm cô phiền lòng, lo lắng, bực mình hay thất vọng nữa. Anh có thể hỏi cô, thực tế có đúng như vậy không. Song anh đã không làm điều đó vì sợ rằng cô sẽ trả lời thẳng. Anh sẽ rơi vào bẫy của chính mình: niềm kiêu hãnh đàn ông cộng với sự nhạy cảm rồi sẽ như một vết thương trong lòng bàn chân, nó bỏng rát vì đi lại. Mà anh thì phải đi lại. Thế mà, thứ sáu, cô gửi cho anh tấm ảnh ở bữa tiệc cuối cùng do công ty ông chồng tổ chức và khi anh nhìn thấy cô trong vòng tay ông ta thì toàn bộ cái mô hình độc quyến đã đổ sụp như một ngôi nhà giấy. Anh bỗng hiểu ra rằng chính người đàn ông trong tấm ảnh mới hiện hữu trong cô, bằng những ngón tay, bằng lưỡi và bằng "cái ấy", và rằng cô, ở bên cái gã trong ảnh đó sẽ thì thầm, sẽ ướt và thậm chí có thể rên lên vì sung sướng nữa. Anh đập cái ý nghĩ ấy vào giữa vết thương và anh đã viết và gìn thư cho cô trong nỗi đau sau cú đập ấy. Khi nỗi đau qua đi, anh sôi lên vì xấu hổ. Cái mà anh làm thật mâu thuẫn với toàn bộ triết học của anh, thứ triết học mà anh đã hăm hở giảng cho cô đến thế và cô cũng hăm hở tranh luận với anh đến thế để thất bại đến thế. Bởi chẳng có ai khác ngoài anh lúc nào cũng thuyết phục cô, rằng ví dạ sự liên tưởng thông thường tình yêu với hành vi về thực chất là rất tầm thường và hài hước rằng việc ai đó cho một cái gì đó vào một chỗ nào đó của ai đó, chỉ khiến anh buồn cười rằng khi cân nhắc kỹ lưỡng hơn trước vấn đề này, thì khó mà không nhận thấy rằng sự tầm thường của hành vi này vẫn cứ áp đảo. Bởi làm gì có ai khác ngoài anh lúc nào cũng thuyết phục cô rằng anh sẽ tìm lại được nhiều tình yêu hơn nhiều trong dòng năng lượng bất chợt giữa các đồng tử. Và sau tất cả những điều đó, cô sẽ phải đọc cái mail đầy nước mắt về một con đực nữa, một con đực bị đau thần kinh tim và tiền liệt tuyến vì ghen?! Anh bỗng cảm thấy có tiếng rung. Đó là máy nhắn tin trong túi anh. Anh lấy máy ra và đọc tin nhắn từ Hamburg. Thành công rồi! Cô sẽ không đọc được cái thư ấy. Việc Jacek biết về cô không khiến anh đặc biệt e ngại. Thứ nhất anh tin vào sự thận trọng tuyệt đối của Jacek, thứ hai, anh đã biết rõ rằng Jacek sẽ nhìn thấy thứ này ở Poznan. Và sẽ đọc trước khi hủy. [1] Modus vivendi: từ La tinh, chỉ trạng thái tức thời. Bao giờ Jacek cũng có ý thức đặc trưng và kiên định về tính chân thật và lòng trung thành. Bời cậu ta có thể không cần phải nói là mình biết nội dung bức thư ấy. Với Jacek, đọc một bức thư lạ là okay, nhưng không nói ra điều đó lại là lừa dối và ăn cắp. Vậy nên cậu ta đã nói. Jacek... Cuộc đời của họ được đan bện vĩnh viễn và không thể tách rời bới một bi kịch rất khác thường. Gần đây anh hay nghĩ về những sự kiện xưa kia. Một vài nỗi xúc động mà gần đây cô đã gây nên trong anh, chúng như những defa vu [1] và của cái mà anh đã trải qua mấy năm trước đây ở New Orleans. Anh còn nhớ cú điện thoại vào cái đêm hôm ấy như thể chỉ vừa mới hôm qua, mà chuyện thì đã qua đi hơn chục năm rồi. Đã là cuối tháng thứ tám của đợt thực tập khoa học của anh tại Đại học Tổng hợp Tulane ở New Orleans. Từ mấy tuần trước, anh luôn ở trong trạng thái ngây ngất về cảm xúc cũng như trí óc. Công trình mà anh đang tiến hành và cũng là tư liệu cho luận văn tiến sĩ của anh đã bước vào giai đoạn quyết định. Hai mươi người của một số trường đại học trên toàn nước Mỹ độc lập viết các modun cho một chương trình độc nhất về sắp xếp chuỗi ADN nhằm xây dựng bản đồ gien cá biệt của vi khuẩn gây bệnh sất Richettsia. Công trình là rất táo bạo và thu hút nhiều người nước ngoài. Những người này làm thành một nhóm các chuyên gia máy tính bị thôi thúc bởi tính tò mò, nhiệt tình và khát khao được trải nghiệm những phiêu lưu khoa học cực kỳ hiếm khì xảy ra. Dự án, nếu thành công, sẽ mở ra con đường để bắt đầu những công trình xây đựng bản đồ gien người. Cái mô hình cá biệt ấy của con người được ghi trên một thang xoắn thành chuỗi xoắn kép ADN mà ai ai cũng biết. Anh là một trong số những người muốn thử tạo nên mô hình ấy. Một nghiên cứu sinh nhỏ thó từ Ba Lan, với mặc cảm tự ti trước thế giới được hình thành từ hiện thực xã hội chủ nghĩa và được che đậy một cách bài bản và toàn diện của một nhà khoa học hạng hai, bỗng nhiên được có mặt trong nhóm để chơi trận chung kết tuyệt đối cúp siêu hạng thế giới. Huấn luyện viên là một người của Harvard đoạt giải Nobel, tiền nhiều như tuyết của dân Eskimo và tất cả đều muốn chơi trận đấu để đời của mình. Hồi đầu, mọi người trong nhóm chỉ biết là anh đến từ một nước có rượu vodka khá ngon và có cái họ rất khó đọc cửa một anh thợ điện hoạt khẩu. Họ cho anh, điều này thì họ không hề nói, ba tháng để thể hiện những gì anh biết. Họ quan sát anh. Sau ba tháng, một hôm chuông điện thoại trong phòng làm việc của anh reo và Janet, cô thư ký, bằng giọng nói rất sexy của mình mà anh còn nhớ cho đến tận bây giờ, thông báo anh có điện thoại của giáo sư phụ trách nhóm từ Harvard. Anh vội đứng dậy khỏi ghế khi họ bắt đầu nói chuyện. Giáo sư cứ hỏi đi hỏi lại anh rằng liệu anh "có thời gian" và liệu vấn đề có phù hợp với mối quan tâm của anh. Anh chỉ nhớ là bị chấn động bởi niềm vui, anh cứ áp sát ống nghe vào miệng khi họ kết thúc cuộc đàm thoại, và anh được biết rằng "sau mười lăm phút nữa họ sẽ gửi qua Internet cho anh mật khẩu để mở khóa vào chương trình sắp xếp dãy AND" và rằng "ngày kia, anh phải có mặt ở New York trong cuộc họp của cả nhóm chúng ta". Giờ đây thì anh biết rằng cuộc nói chuyện trong vòng mấy phút ấy đã thay đổi cuộc đời anh. Sau cuộc nói chuyện ấy, anh cũng nhận thấy ở tỉnh, lần đầu tiên, một nguyên tắc bất thường nào đó. Niềm vui và sự phấn khởi về mình khi vượt quá một giá trị ngưỡng nào đấy - sau cuộc nói chuyện kia thì đúng là như vậy - tạo nên trong anh sự hưng phấn tình dục cực mạnh. Khi kết thúc cuộc nói chuyện với vị giáo sư kia, anh không đủ cực kỳ hạnh phúc và cực kỳ tự hào về mình, mà còn bị cực kỳ cương cứng. Đây hoàn toàn không liên quan gì đến việc đã mấy tháng anh không hề đụng tới một người phụ nữ nào. Thực ra thì anh nhớ là sau mấy tháng độc thân tuyệt đối ấy, ra đường anh ngoái cổ trông theo tất cả những gì đi lại và có ngực, nhưng trong trường hợp này phải loại trừ nguyên nhân đó. Anh biết chắc thế, trời sau này hiện tượng này vẫn xảy ra thậm chí cả khi niềm vui và niềm tự hào về mình vượt quá giá trị ngưỡng đến với anh chỉ vài giờ sau khi anh "làm việc" đầy thỏa mãn nhưng mệt lử. Anh đã đọc tất cả về cơ cấu cương cứng ở đàn ông, anh biết rằng khởi đầu của hiện tượng này là sự gia tăng nồng độ ôxit nitơ trong máu, anh đọc về các chất ức chế enzym PDE5, về việc làm đầy và xả trống các thể hang, về các xi lanh cGMP, và về các chứng minh khoa học tương tự vô cùng nghiêm túc và thông minh. Anh có thể hiểu rất rõ rằng, anh có thể bị cương cứng vào ban ngày, khi đi hơi lâu theo những bậc thang dốc, phía trước là Janet, để đến nhà ăn của Viện ở Bruff Commons ăn trưa, quan sát cặp mông của cô không bao giờ bị vướng víu bới bất cứ thứ đồ lót nào trong chiếc quần da bó sát đến cực điểm. Song điều đó lại không thể giúp anh hiểu được, vì sao anh lại "bị" cả khi đọc các bài báo của những vị rất quan trọng được viết trên cơ sở những bài công bố của anh - mặc dù ngoài mấy cuốn tạp chí Playboy được giấu sâu trong ngăn kéo, phía dưới đám giấy má, tuyệt đối không có cái gì mang tính kích thích tình dục dù một chút trong cái phòng làm việc trống trải và ngột ngạt của anh. Rõ ràng là sự khát khao được thán phục và sự khát khao đàn bà gây nên trong anh những phản ứng y như nhau. Khi phân vân trước điều này, anh ít ngạc nhiên hơn. Lịch sử của những thảm kịch do những người đàn ông chiếm đoạt được những người đàn bà mà họ khao khát gây ra cũng dài và tàn nhẫn như danh sách những bất hạnh do những người chiếm đoạt sự thán phục bằng mọi giá gây ra. Anh cũng nhận thấy là sự cương cứng do ngắm nhìn cặp mông của Janet và sự cương cứng do kiêu căng hầu như là giống nhau về độ mãnh liệt cũng như sức mạnh của bức xúc nội tâm gây nên cương cứng. Sự khác biệt duy nhất ở đây là, Janet có thể làm cho nó mạnh hơn lên khi nói bất cứ điều gì trong lúc ăn. Vì Janet có giọng nói có thể làm tăng nồng độ ôxit nitơ trong máu lên đến mức các mạch máu phải sủi bọt. Hầu như chẳng bao giờ cô nàng nói những điều thông minh hay thú vị. Mà điều đó đâu có quan trọng. Đơn giản là Janet biết đưa dây thanh quản của mình vào chế độ rung và khuyếch đại nó bằng vận động của lưỡi và môi, nhưng tuyệt nhất là khi môi cô nàng bị cắn trong những sự kiện của đêm hôm trước hoặc là tô son đỏ nổi bật; Janet luôn cố giữ sao cho bao giờ cũng có một trong hai điều kiện trên được thỏa mãn. Những rung động không nhất thiết phải được sắp xếp thành những từ hay câu có nghĩa nào. Và mặc dù Janet thuộc nhóm những phụ nữ chuyên trị nhầm ôtô có động cơ phóng với ôtô có động cơ nạp, thì anh vẫn cứ thích nghe cô nói. Nhất là khi cô nàng nói về sự phóng bằng cái giọng ướt át của mình. Anh nhớ rằng khi ấy, sau khi nói chuyện với giáo sư, sự cương cứng của anh mãnh liệt đến mức anh cảm thấy đau một cách vật lý và thực thụ. Anh cũng nhớ là mình đã khóa trái cửa, gọi điện cho Janet với bất kể lý do gì, chỉ cất để được nghe giọng nói của cô nàng và thủ dâm: Janet kể một câu chuyện ngớ ngẩn nào đó qua điện thoại, anh tay trái bịt ống nghe để cô nàng không nghe thấy những gì đang diễn ra ở chỗ anh, còn tay phải thì làm việc đó. Khi anh kết thúc, Janet vẫn tiếp tục nói, còn anh sợ hãi nhận ra rằng mình đã xuất tinh trong lúc hình dung ra bản đồ gien của một loại vi khuẩn nào đấy gây ra bệnh Richettsia. Đôi khi anh phân vân, không biết sự hư đốn kia có phải là kết quả của một sự sắp xếp gien nào đó của chuỗi xoắn kép không. Nếu đúng, thì sự sắp xếp của anh không đến nỗi tồi tệ lắm. Anh biết nhiều trò hư đốn thuộc đề tài này còn tồi tệ hơn nhiều. Một lần, say mê câu chuyện của Proust, anh quyết định phải biết thêm nữa trong bản thân con người này. Những gì anh đọc được đã gây sốc. Cậu con trai nhà quí tộc còi cọc, ẻo lả lúc nào cũng ốm đau, ho hen, bị hưng phấn mạnh, nhạy cảm một cách bệnh hoạn và luôn đòi hỏi sự chăm sóc của phụ nữ ấy cho dù chẳng gây được ấn tượng gì mạnh đối với phụ nữ, những tự thú nhận là đã thủ dâm tương đối đều đặn. Chủ yếu là nhìn trộm những thằng con trai mới lớn đang cởi quần áo trước khi đi ngủ. Thỉnh thoảng kể cả việc đó cũng không đủ làm hắn thỏa mãn, hắn lệnh cho người hầu mang vào phòng ngủ cái lồng có hai con chuột được che bằng khăn lụa đen. Một con to đại bị bỏ đói, con thứ hai bé và lười biếng vì ăn quá no. Proust bỏ khăn che lồng ra và khi con chuột to nhai con bé thì... hắn thủ dâm. Phản xạ đầu tiên của anh là ghê sợ. Sau đó, khi đã cân nhắc kỹ lưỡng, anh quyết định đọc lại hết những cái Proust viết. Mối ác cảm biến mất. Một kiểu sắp xếp khác hẳn phải thuộc về John Fitzgerald Kennedy, tổng thống Mỹ, đẹp trai, rất được phụ nữ yêu, với cái chết ngoạn mục ở Dallas đã trở thành bất tử. Từ những hối ức về ông người ta đã đưa ra hình ảnh về một người nghiện tình dục với những sở thích tình dục hết sức tinh vi. Kennedy đặc biệt thích những màn yêu đương trong bồn tắm, chủ yếu do ông bị chứng đau cột sống kinh niên. Những phụ nữ làm tình với ông, thường đứng ngoài bổn, nghiêng người để hôn và vuốt ve cơ thể ông. Khi thời điểm quyết định đến gần - đối với Kennedy, đương nhiên - người bảo vệ lao vào phòng tắm, túm gáy người đàn bà dìm xuống bồn. Đến khi người này giãy giụa trong sự gắng sức cuối cùng để thoát ra, thì Kennedy hầu như sung sướng phóng ra. Anh thấy sự sắp xếp chuỗi gien dấu trách nhiệm về sự hư đốn này dứt khoát tệ hơn sự sấp xếp gien ở Proust. Tuy nhiên dạo đó anh chẳng quan tâm đến Proust cũng như Kennedy, dạo đó anh chỉ nghĩ đến những gì đã xảy ra và những gì sẽ đến tiếp theo. Anh đột nhiên trở thành một phần của nhóm "chúng ta" và từ buổi đó việc sắp xếp chuỗi gien của một loại vi khuẩn nhất định đã trở thành công việc quan trong nhất của cuộc đời anh. Có được tấm bản đồ như vậy, có thể "dịch" nó sang các protein điều khiển các quá trình sống, biết tính chất hóa sinh của các protein này thì có thể biết, ví dụ như, gien nào chịu trách nhiệm về việc tạo ra dopamin của cơ thể người, mà sự thiếu hụt chất này sẽ gây ra bệnh Parkison, còn sự vượt quá giới hạn của nó đã được ghi nhận (thường chỉ trong một khoảng thời gian rất ngắn) trong trường hợp của trạng thái đã được mô tả rộng rãi trong văn học như là trạng thái si mê. Với sự hiểu biết ấy, không chỉ có thể chữa khỏi cho hàng ngàn người mắc bệnh hoặc bị nhục nhã bồi căn bệnh này, mà con người còn có thể yêu nhau về mặt gien học. Thỉnh thoảng, thường là sau nửa đêm, họ gọi taxi, để "bệnh Richettsia" của họ lại chừng một tiếng và sang sân trời có quán bar của khách sạn Dauphine New Orleans ở Khu Pháp, nơi vừa uống bia, vừa nghe blues [2] họ vừa dệt những kịch bản dị thường và tin rằng họ chính là những người bắt đầu sắp xếp lại những vấn đề to lớn vô cùng nan giãi về gien. Thêm vào đó, họ còn tự tin một cách trắng trợn rằng họ sẽ sắp xếp chúng thành một thể thống nhất. Càng có nhiều bia trong máu và càng có nhiều blues trong không khí, niềm tin của họ càng sâu sắc hơn. Từ viễn cảnh hiện tại của mình, ở thời mà người ta nói chuyện về gien học hầu như bên mỗi bàn nhậu kể từ khi ngành gien học đã tặng cho thế giới một chiến công ngoạn mục là nhân giống cừu, sau ngần ấy năm đã qua đi kể từ những ngày ấy, anh nhìn lại dự án ấy và nhưng nghiên cứu ấy với đôi chút cười nhạo và bề trên, nhưng cũng với cả niềm tự hào và khâm phục đối với sự nhiệt tình của mình thời đó. Những gì mà họ đã làm ở New Orleans mười mấy năm trước đây là rất quan trọng, nhưng so với những cái đang diễn ra bây giờ thì thật ấu trĩ. Nhưng có lẽ trật tự các vấn đề trong khoa học vốn vẫn thế. Bởi giờ đây anh biết rằng đó hoàn toàn không phải là một sự xếp đặt. Một ai đó đã đổ ra bàn nhiều hơn một trăm ngàn vấn đề nan giải. Giống như hồi ấy, cả bây giờ nhiều khi anh vẫn phân vân, đó có phải là Chúa. Hồi ấy đúng là có một phần hiểu biết đã ngăn cách anh với Chúa. Song anh nhận thấy, giờ đây, khi biết và hiểu nhiều hơn rất nhiều, thì mình lại bé nhỏ hơn rất nhiều và càng có xu thế tin rằng tuy nhiên, Chúa chính là nhà Lập trình vĩ đại đó. Chỉ có dạng của Keunedy và Proust là anh vẫn chưa nắm bắt được. Giờ đây anh cũng biết rất rõ ràng mấy chuyên gia tin học, gien học và sinh học phân tử hung hăng đang mơ được nổi tiếng ấy sẽ không thề sắp đặt các vấn đề nan giải thành một tổng thể được. Thậm chí kể cả họ có quyết định ngừng thở và tan vào công việc để tiết kiệm thời gian đi nữa. Nhưng hồi ấy, ở New Orleans anh chưa biết đến điều này. Không một ai biết đến điều này. Hồi ấy anh đã làm việc như trong cơn điên, đến kiệt sức... theo đúng nghĩa đen. Có lần anh đã ngủ gật và ngã lăn xuống sàn nhà ngổn ngang những sách. Vì rèm cửa sổ phòng anh lúc nào cũng buông nên anh đã không ý thức được thời gian trong ngày. Ở chỗ anh, phòng số 4018 trên tầng ba tòa nhà Percival Stem, nơi có phòng thí nghiệm của họ, những cái đèn neon được gắn trên trần lúc nào cũng kêu o o và chiếu sáng trưng. Một lần vào chủ nhật, khi trong tủ lạnh chỉ còn lại đúng mấy thanh khử mùi không hơn, anh bèn hẹn với Jim làm một buổi đi mua đồ nghiêm chỉnh ở siêu thị cuối phố. Anh hẹn vào mười sáu giờ và... ngủ quên. Mà anh đi ngủ từ trước nửa đêm thứ bảy. Thậm chí anh không hề cân nhắc xem liệu có thể khác đi được không? Một cách tiềm thức, anh cảm thấy là không. Dự án này là cuộc sống của anh. Anh buộc phải sắp đặt tất cả theo nó. "Chỉ khi nào thực sự ốm anh mới được không đến phòng thí nghiệm. Mà anh chỉ thực sự ốm khi nào ho ra máu lâu trên mười tiếng". Một lập trình viên người Ấn Độ, ngrười tham gia vào nhóm gần như cùng thời gian với anh đã định nghĩa như vậy. Anh phân vân, liệu có phải chỉ mình anh làm việc như vậy. Đôi khi anh hỏi bạn bè cùng nhóm vế điếu này. Anh nhớ một trong số họ, Janusz, người Ba Lan thứ hai trong nhóm, được cấp học bổng của Quĩ Nhà thờ, một chuyên gia tin học ở Đại học Tổng hợp Torun đang làm việc cho Queens College ở New York bảo anh: "Ông anh à, mãi hôm nay em mới nhớ ra là con bé Ioasia nhà em đã học lớp ba. Mà ngày mai là con bé nhận chứng chỉ và bắt đầu nghỉ hè rồi". Từ mấy tuần nay bốn rưỡi sáng anh đã dậy, hút thuốc, thu dọn quần áo vứt bừa bãi khắp phòng, đặt cà phê, tắm nước lạnh như băng trong nhà tắm dưới tầng trệt cho tỉnh người. Rất nhiều lần lúc đứng dưới vòi tắm rồi anh mới nhận ra là mình vào đó với cả thuốc lá. Anh mặc vội quán áo, uống cà phê, nhét vào túi những tờ giấy với những ghi chép mà anh làm đêm qua rồi chạy ra ôtô của Jim đã chờ từ mấy phút trước. Jim, kể từ dạo bắt đầu công trình xây dựng ở gần trường anh, thì chở anh đến Tulane luôn. Ngây nào Jim cũng chờ anh, luôn luôn cười, tươi tắn như một bãi cỏ mùa xuân. Bằng trạng thái ấy, bằng tâm trạng ấy Jim đã gây nên trong anh một kiểu bực tức và miễn cưỡng. Làm sao có thể hân hoan đến thế vào lúc năm giờ sáng, sau một đêm ngắn đến thế và ngồi trong một cái ôtô như thế? Jim có một chiếc buick từ những năm sáu mươi, điều mà ở New Orleans được coi là bằng chứng hoặc của một sự nghèo khổ cùng cực hoặc thuộc về một giáo phái khổ dâm đặc biệt nào đó. Đã thế, cửa sau của xe bên phía hành khách thì hoặc là phải buộc bàng một sợi dây to vào chỗ tựa đầu của lái xe, hoặc người ngồi phải giữ suốt đường đi. Anh nhắm mắt chui vào xe của Jim, lấy điếu thuốc đã được châm sẵn đang nằm chờ anh trong gạt tàn, họ lăn bánh. Phải sau mấy dặm đầu, khi Jakub tỉnh ngủ họ mới bắt đầu nói chuyện. Jim biết nghi thức này và ứng xử như một người lái xe riêng trung thành và tận tụy của một gia đình quí tộc Anh. Chẳng mấy chốc anh đã bắt đầu ngủ ở nhà ngày càng ít, anh ở lại phòng làm việc và làm việc suốt đêm với những quãng nghỉ ngắn. Vào cái đêm ấy, khi Jacek gọi điện, anh cũng đang làm việc như vậy. Đã là bốn giờ sáng chủ nhật. Đúng lúc Jim đang ở chỗ làm việc của anh. Gã ta lặng lẽ nghiêng người bên cái cân điện tử đặt cạnh máy tính. Trong sự tập trung cao độ, Jim cân các suất cocain rỏi gói lại trong những cái túi đã được chuẩn bị từ trước. Trên bàn, cạnh máy tính là hàng dãy các gói nilon đựng bột trắng. Mỗi túi có bốn "gạch". Khi Jim kết thúc, thì trên bàn là một lượng cocain trị giá năm mươi ngàn đôla. Jim vòng quanh, lặng lẽ thu các gói vào cái vàn đã sứt gãy. Xong xuôi, Jim khóa mã van lại, kẻo một bên vòng của cái còng tay của cảnh sát qua bàn tay trái của anh rồi khóac bằng một cái khóa đặc biệt ở chỗ khớp tay. Cái vòng kia thì đã được gắn vào vali. Jim đi đến chỗ Jakub, không nói không rằng để chìa khóa còng tay lên bàn phím máy tính. Lúc đi ra gã nhìn vào mắt anh nói: - Dứt khoát đây làm lần cuối cùng. Đừng khinh bỉ tôi thế. Xin lỗi Jakub rất bực và cảm thấy đau lòng. Anh bực bản thân mình, sao lại đồng ý với việc này. Thậm chí không phải vì anh nghĩ đến chuyện mình có thể đánh mất tất cả những gì đã đạt được trong cuộc đời, rằng lần thứ hai anh trở thành một cách có ý thức - bởi anh đâu có bắt buộc phải đồng ý - trợ lý của một gã tiếp tế cho con nghiện; anh đau nhất khi thấy Jim đã làm anh thất vọng đến vậy. Rằng gã đã lợi dụng tình bạn của họ một cách rất không trung thực. Anh cảm thấy mình bị phản bội. Mà gã đã hứa với anh rằng lần trước, cái lần cách đây ba tháng "dứt khoát là lần đầu tiên và cuối cùng", "rằng bây giờ chỉ còn trả hết nợ và sẽ ra khỏi kênh này" và rằng "chỉ có thể làm việc này ở đây, bởi không ai ngờ rằng ở Tulane, trong phòng thí nghiệm gien người ta lại cắt bụi", như gã vẫn gọi cái việc chia suất của gã như vậy. Hôm nay, khi cách đấy một tiếng Jim gõ cửa phông làm việc của anh, anh không hề nghĩ rằng gã lại có "hàng". Gã đứng với cái vali được gắn vào cổ tay trái và rất khó khăn mới cất được giọng run run: Nếu đêm nay tôi không cắt được cái này ở chỗ ông thì sẽ không bao giờ tôi còn có thể chở ống đến trường được nữa. Cho phép tôi đi... xin ông đấy. Anh đã cho phép. Trong suốt thời gian đó anh đứng quay lưng lại gã, sôi lên vì tức và im lặng. Anh không muốn nhìn. Một niềm tin ngây thơ của đứa trẻ, rằng khi nào nhắm mắt thì hoàn toàn không phải là tối. Cho đến khi Jim sập cửa lại, anh mới quay vào phòng. Trên bàn phím máy tính là chìa khóa còng tay mà để cho chắc chắn, Jim đã gắn vào vali, cùng với than và hai gói nilon bột trắng. Cho anh. Lần cuối cùng Jim gói hàng ở đây, Anh cũng đã thử cocain. Có một lúc, khi nửa phòng anh đầy những gói nilon, Jim từ chỗ cái cân đi ra, dỡ bức ảnh cũ có khung gỗ trên tường xuống, thổi bụi trên mặt kính và sấy nó bằng ngọn lửa của cái bật lửa. Gã đổ một gói bột trắng lên mặt kính đã được sấy chia làm ba vạch bằng nhau dài chừng tám centimét. Tiếp theo gã châm thuốc lá, lấy từ ví ra một nửa con dao cạo râu viền gỗ rồi bắt đầu lần lượt gạt bột thành từng vạch. Tất cả hết độ năm phút. Sau đó gã lấy từ túi áo ra một tờ tiền xanh nhàu nát, cuộn lại thành cái ống rồi đẩy một đầu ống vào mũi. Gã nghiêng đầu xuống một vạch bột và hít hết. Còn sót lại một tí, gã đùng ngón tay thấm nước dãi chấm lấy rồi quệt lên lợi. Sau đó gã quay sang phía Jakub, vừa đưa cho anh tờ một đô la cuộn lại vừa cười Với anh, nói: - Ông thử đi. Ông sẽ thấy dễ chịu ngay. Tôi chiêu đãi đấy. Mặc dù đã quan sát toàn bộ cái nghi lễ ấy của Iim với sự ngạc nhiên không giấu giếm, nhưng anh không hề do dự lấy một giây. Anh đến bên bàn, nhét một đầu ống vào mũi và bằng một hơi, hít hết một gạch. Ngay lập tức anh thấy hơi lạnh và cảm giác tê cóng rất rõ nơi mũi. Anh quay về ghế của mình bên máy tính, ngồi thoải mái và chờ. Tò mò xen lẫn với lo ngại. Sau mấy phút, anh cảm thấy rất rõ, sự mệt mỏi sau mười sáu tiếng làm việc cật lực tan biến. Anh cảm thấy mình tươi tỉnh, khỏe mạnh và năng động. Và lại có thể bắt đầu mười sáu tiếng làm việc tiếp theo. Thế mà mới chỉ vừa đấy, trước khi Jim đến, anh còn ngã lăn ra vì mệt và phải dùng cà phê đen và thuốc lá để tỉnh táo. Anh bỗng hoạt bát như vừa tắm nước lạnh sau một đêm dài ngủ ngon lành. Đó là một cái gì đó. Anh đã lừa dối cơ thể và não mình bằng một chút xíu bột chứa hai mươi lăm nguyên tử kết hợp với nhau. Anh bỗng cảm thấy mình mạnh mẽ, nhanh nhẹn và đặc biệt khôn ngoan thế không biết. Anh cho rằng nếu lúc này bắt đầu lập trình, thì anh sẽ viết ra một chương trình tốt nhất trong đời. Và anh hoàn toàn không có cảm giác rằng mình không phải là mình. Hơn lúc nào hết, anh câm thấy đây chính là anh, là đúng cái thằng Jakub ấy, chỉ có điều hắn có ý nghĩa cực kỳ đặc biệt. Anh không còn cảm thấy lo ngại hay sợ hãi, không còn do dự phân vân. Thay vì những điều đó, anh luôn có lý. Anh tận hưởng cảm giác này một lúc. Và bắt đầu hiểu rằng người ta có thể muốn đầu tư trạng thái này cho mình thường xuyên hơn. Đặc biệt là những người yếu đuối hoặc những kẻ bắt buộc phải cảm thấy mình mạnh mẽ hoặc chí ít cũng sắm vai kẻ mạnh. Chỉ cần vài giam hợp chất hóa học, màng nhầy còn tốt và thế là anh thành người rất quan trọng, thông minh, mạnh mẽ, hóm hỉnh, đẹp mê hồn, hùng biện, hấp dẫn, ý thức được sức mạnh của mình, người mà ai ai cũng muốn luôn luôn được như thế. Việc này thường diễn ra nhiều nhất là hơn chục phút, tốn vài chục đôla, không hợp pháp, gây nghiện, làm tổn hại cho tim và não. Ngoài ra sau đấy còn có dư vị khó chịu khủng khiếp mà ngay cả sau khi uống hàng thừng nước ủ rượu người ta cũng không đến nỗi bị như vậy. Cocain không gây nên bất kỳ một ảo giác, hay những giấc mơ rực rỡ, hay cảm giác được bay trên bãi cỏ mùa hè còn đẫm sương và đầy bướm lượn và những nữ thần khỏa thân nào. Với cocain, người ta được trải qua những giấc mộng về sức mạnh. Sau khi dùng cocain, người ta có bộ gien tốt hơn. Và là đứa con của một đức Chúa tốt hơn. Điều này thì không một thứ bia nào, không một loại nhạc nào hay đàn bà nào có thể làm được cho con người. Ngoài ra, không gì có thể biến thứ tình dục bình thường, êm ả thành một "vụ nổ nguyên tử" như Jim nói. Điều này là nguy hiểm nhất. Tình dục bình thường so với tình dục sau cocain thì giống như là "làm tình với manơcanh trong bách hóa tổng hợp ở Moscow hay ở Đông Berlin". Sau một cái gì kiểu như thế, sẽ còn lại những kỷ niệm quá đẹp và một thực tại quá xám xịt. Theo Jim thì chỉ sau LSD (°) mới có thể tốt hơn được. "Bới khi đó - hắn nói – anh làm tình bằng tất cả các tế bào, còn chỉ riêng tế bào thần kinh anh đã có hàng tỷ". Từ tất cả những mối nguy hiểm đó, anh đã ý thức được tối hôm ấy, khi Jim thú nhận danh dục không có các hợp chất khiến gã hoang mang sợ hãi". Nó không còn là sự hiện thực hóa khát khao của anh nữa, mà trở thành phép thử, xem nói chung anh còn có khả năng nữa không". "Bởi anh thấy đấy, không có hợp chất thì có khác gì nhét một con ốc vào khe của cái máy điện thoại tự động đã ở ngoài băng giá cả chục tiếng" - gã nói. Anh nhớ rằng khi vẫn còn ở trong trạng thái đó, Jim, người đã quan sát anh rất kỹ từ đầu, bằng cái giọng của một người hiểu biết tuyệt đối đã nói: "Tôi đã chẳng nói với anh rồi sao, anh sẽ thấy dễ chịu mà". Đã rất dễ chịu.Họ bắt đầu nói chuyện.