Chương 6

ANH: Anh mừng vì đã đặt được phòng ở đúng khách sạn này. Đây đã từng là khách sạn của anh ở New Orleans.
Hôm qua, lúc từ sân bay về đây, bước ra khỏi taxi và sau ngần ấy năm lại được đứng cùng với cái vali của mình trước cánh cửa lùa màu trắng có tay cầm bằng đồng sáng loáng quen thuộc, anh thấy tim mình đập rộn lên. Khách sạn này, theo một nghĩa nào đấy, là biểu tượng của tất cả những gì đã làm thay đổi cuộc đời anh, thay đổi bản thân anh nhiều đến thế.
Chính tại nơi đây hơn một chục năm về trước, cái hồi làm tiến sĩ, vào ban đêm, anh thường bứt khỏi những cái máy tính, những cuốn sách, những tạp chí khoa học và những ý nghĩ, những ý tưởng, những kế hoạch luôn quay cuồng trong đầu mình. Cùng với những nhà khoa học khác trong nhóm, cũng trẻ, cũng cực kỳ gàn dở như anh, đang đêm gọi taxi đi đến khách sạn này, để uống bia hoặc rượu vang và nghe loại nhạc blues mê hồn của người da đen bên những cái bàn đá trắng ngoài sân trời, tranh luận đầy hưng phấn về tất cả những gì dính dáng đến việc sắp xếp chuỗi gien hoặc tưởng tượng ra những gì họ sẽ làm nếu chuyển được những gien này thành những protein tương ứng, và đến lượt chúng, những protein này thành cảm xúc, hành vi ứng xử hoặc ý nghĩ của con người. Họ gọi những lúc này một cách đầy tưởng tượng, phù hợp với địa điểm và tình huống, là "ADN breaks", mà một số thì giải thích như là "giờ giải lao ban đêm để uống rượu ở Dauphine", còn số khác thì là "đứt gãy ADN".
Khi ấy họ là một nhóm những thanh niên ồn ào và tin tưởng vào sự không thể nhầm lẫn của mình, vào sự khác thường và đặc biệt của cái họ đang làm, và tuyệt đối chắc chắn rằng chính họ sẽ đánh dấu những đường chân trời trong khoa học. Nhưng cái mà anh nhớ nhất trong những ngày ở New Orleans ấy là lòng hăng say đến mức tham lam. Nếu như thời gian có thể trở lại và anh lại được ở đây, thì với những gì giờ đây anh biết, anh sẽ giành nhiều thời gian nhất để học thuộc lòng như học một bài thơ, chính là lòng hăng say ấy. Khi ấy họ như những chú sư tử non. Họ tin rằng thế giới sẽ là của họ, và khi ấy sao họ ở gần các vì sao trên khoảng trời đêm trên sân thượng của khách sạn Dauphine New Orleans đến thế. Cho nên hôm qua, khi lại đứng trước khách sạn này, cho dù mới là buổi sáng và mặt trời còn đang rực rỡ, anh vẫn chói cảm thấy mình ở gần với các vì sao hơn. Có sao đâu, nếu giờ đây chúng không còn sáng lấp lánh giống như những ngày xưa nữa.
Chẳng phải những vì sao cũng cháy đấy thôi.
Anh dừng lại một lát trước khi bước qua cánh cửa quá quen thuộc đối với anh để vào quầy lễ tân. Anh nghĩ nếu phải kể cho cô anh cảm thấy gì khi vào đây - mà anh thừa biết là cô sẽ hỏi - thì anh sẽ nói rằng anh cảm thấy buồn và tự hào xen. lẫn. Tự hào vì khi anh đến thành phố này, nơi anh bắt đầu còn là một nghiên cứu sinh Ba Lan vô danh tiểu tốt, có cái họ mà ít ai đọc nổi, được mời như một gương mặt không cần bàn cãi đến một hội nghị quốc tế quan trọng nhất trong lĩnh vực này, để đọc một bản tham luận mà tất cả những nhân vật quan trọng khác trong lĩnh vực của anh đều muốn nghe. Còn buồn vì anh bỗng hiểu ràng với tất cả những gì anh đã đạt được, tất cả sự thừa nhận và ngưỡng mộ, thì anh vẫn sẽ không bao giờ còn được hưng phấn, tự hào về bản thân mình và toại nguyện như hồi đó, mười mấy năm trước đây khi đang nghiên cứu về sự sắp xếp chuỗi gien của một loại vi khuẩn gây nên bệnh sất Rickettsia, anh đã tin rằng mình đang nhìn vào những con bài của chính Tạo hóa.
Dauphin New Orleans, với sự giản dị và ấm cúng của mình, ở giữa trung tâm phố cổ của New Orleans, có một không khí mà cái khách sạn Hilton cao ngất, là khách sạn mà các nhà tổ chức hội nghị muốn đưa anh tới, chưa bao giờ và sẽ không bao giờ có được. Hôm qua, khi đến đây, nhận chìa khóa phòng từ người phụ nữ ở quay lễ tân tươi cười và đẹp không thể tả được, anh phân vân, không biết trong khách sạn này, các phòng trông như thế nào. Bởi anh chưa bao giờ nghỉ lại ở đây. Nhiều nhất cũng chỉ là những đêm trên sàn thượng. Cho nên khi mở cửa phòng số 409 trên tầng ba, anh đã sững người vì ngạc nhiên. Căn phòng rộng hơn toàn bộ căn hộ của anh ở Munich, có phòng ngủ, phòng khách và khu làm việc cùng với điện thoại, máy tính và máy fax. Trong phòng khách, trên cái giá cạnh vô tuyến là một cái kệ bạc, trong đó là một chai champagne được quấn khăn trắng, và bên cạnh có hai cái ly. Bước vào phòng ngủ, anh nhận thấy ngay là dưới cửa sổ, trên một cái bàn đá đen có một bình thủy tinh tròn với những bông lili. Anh nhớ rất rõ những bông lili này. Anh gọi điện xuống lễ tân hỏi liệu có sự nhầm lẫn nào chăng, vì ở Munich, qua Internet, anh chỉ đặt một phòng đơn bình thường thôi cơ mà. Người phụ nữ ở quầy lễ tân, người đã đưa chìa khóa cho anh chỉ cười mà nói:
- Tôi nhận ra anh ngay khi anh bước vào. Anh chính là người cách đây hơn chục năm đã đi quyên tiền cho một cô bé ở Ba Lan hay Hà Lan gì đó. Tôi không còn nhớ chính xác nữa. Nhưng anh đã cứu sống cô bé, đúng không? Con gái tôi hồi ấy cũng lên tám, đúng như cô bé kia. Hỏi ấy, khi đọc báo nói về cô bé, tôi đã sởn cả gai ốc khi nghĩ rằng mẹ của cô bé sẽ phải kính phục anh như thế nào. Tôi nghĩ là anh sẽ thích căn phòng này. Nó là phòng tốt nhất của chúng tôi đấy. Bao giờ John Lee Hooker cũng ở đúng phòng ấy mỗi khi đến đây để biểu diễn ở Preservation HAll. Anh có biết anh ấy không?
Đặt ống nghe xuống, anh phân vân, làm sao mà ai đó lại có thể còn nhớ những gì mình đã cảm thấy khi đọc một cái gì đó trên báo từ hơn một chục năm trước đây nhỉ. Có thề đến một lúc nào đó anh sẽ có con gái và anh sẽ hiểu dù sao, điều đó là có thể. Nhưng đấy là hôm qua: Hôm nay thì anh không còn nghi ngờ gì là chị lễ tân ấy không là một ngoại lệ.
Nhớ, đó là một chức năng của cảm xúc.
Những cảm xúc, mà lại là đặc biệt khác thường, đã bắt đầu từ sáng sớm. Anh xuống sân trời cạnh bể bơi, mà sáng nào cũng được trang hoàng như một phòng của nhà hàng để ăn sáng. Ngồi uống thứ cà phê Mỹ chẳng ngon lành gì trong tiếng nhạc Mozart được phát ra từ những chiếc loa, anh vừa chờ xuất bánh dù của mình vừa kiểm tra hộp thư điện thử trên server tại Munich. Ông chủ sáng suốt của khách sạn, nắm bắt được tinh thần của thời đại đã cho lắp trên mỗi bàn trong phòng ăn sáng một ổ điện thoại đôi. Hai người có thể đồng thời kết nối latop của mình với Internet. Một sáng kiến đơn giản và hoàn hảo trong bản chất của nó. Liệu còn có gì dễ thương hơn một bức e-mail buổi sáng bên cạnh một tờ báo mới? Tờ báo giấy nằm bên li cà phê, và tờ điện tử yêu thích từ đâu đó: Nhật Bản, Australia, Đức hay Ba Lan.
Anh mở e-mail của cô và bỗng hét toáng lên vì vui sướng. Tất cả mọi người đang ăn sáng ở những bàn bên đều nhìn anh ngạc nhiên, nhưng chỉ một lát sau họ lại quay về với những tờ báo hay hộp thư điện tử của mình.
Anh đọc đoạn này thêm một lần nữa, cho chắc chắn.
Khi đi qua phía ấy, anh hãy đi chậm lại một chút! Em sẽ đứng chờ anh ở đó.
(°)  Hãng Hàng không Ba Lan (ND)
Tin này làm anh choáng váng. Đẹp quá. Không thể tin được. Đầy hưng phấn. Cô ấy sẽ đến Paris! Sẽ chờ anh ở sân bay! Anh phải liên hệ ngay với TWA để hoãn chuyến bay từ Paris đi Munich. Bánh mì đã được đưa đến. Anh phết mứt phúc bồn tử lên bánh mì và gọi chương trình tìm kiếm. Anh vào trang web của hãng hàng không TWA. Anh gõ mật khẩu của mình và số đăng ký chuyến bay từ New York đi Munich qua Paris. Và anh hoãn chuyến bay đi Munich từ Pans một ngày chẳng khó khăn gì. Anh sẽ đến Paris vào khoảng tám giờ sáng ngày 18 tháng bảy, vào thứ năm và sẽ bay đi Munich vào tối thứ sáu. Họ sẽ có cả một ngày giành cho nhau. Và cả một đêm. Đằng nào thì cô cũng quay về Warszawa bằng xe khách vào tối thứ sáu, nên việc kéo dài thời gian ở Paris thêm mấy ngày nữa là vô nghĩa. Anh đã có một kế hoạch đầy đủ và chi tiết cho weekend đầu tiên sau khi trở về từ New Orleans.
Anh viết e-mail cho cô và gửi ngay trước khi ăn xong. Anh viết rằng mình hạnh phúc không thể tả được, rằng anh không dám tin là cô chờ và rằng anh không biết làm thế nào để trải qua sự sốt ruột của mình ở New York. Rồi anh còn tạm biệt cô đầy tình cảm trước chuyến đi Paris này. Đây là lần đầu tiên cô đi xa kể từ khi họ quen biết nhau. Trước đây anh chưa bao giờ có dịp để tạm biệt cô.
Anh tạm biệt cô như thể họ thực sự phải xa nhau. Lại thêm một lần nữa anh phân vân, không biết họ sẽ đi xa tới đâu trong cái thế giới ảo này và không biết họ đã biết đi xa như thế nào để sống trong thế giới ấy giống như trong thế giới thực. Con người ta đôi khi ước ao được xa cách nhau để có thể nhớ nhung, chờ đợi và vui mừng trong ngày gặp lại. Mối quan hệ của họ, chưa được định nghĩa, thậm chí còn chưa được gọi tên, cũng không có gì khác. Họ cũng muốn những điều tương tự. Họ không để ý hoặc vờ như không để ý thấy rằng họ luôn sống trong sự xa cách như vậy và điều này có rất ít cái chung với sự xa cách vật lý được đó bằng khoảng cách. Họ ở cách xa nhau 1.000 hay 10.000 cây số, thì trong trường hợp của họ tuyệt đối không có ý nghĩa gì. Họ  không xa nhau theo cái nghĩa thông thường. Nhiều nhất họ cũng chỉ thay đổi vị trí địa lý của cái máy tính kết nối hai người, hoặc thay đổi chương trình gửi những bức e-mail của họ, nhưng họ không ở xa nhau theo nghĩa, những người chia tay nhau sẽ ở cách xa nhau như thế nào. Sự xa cách của họ chỉ có hai trạng thái, thì cũng giống như mọi thứ trong cái thế giới tin học này mà thôi. Hoặc là họ ở bên nhau trong tầm tay, hoặc là ở trên mạng. Họ mới chỉ được ở trong "tầm tay" đúng một lần trong đời: lần ấy, trên chuyến tàu từ Berlin đi Poznan, khi mà họ thậm chí còn chưa biết cả tên nhau, không trao đổi với nhau một câu nào và chỉ có đồng tử của họ đôi lúc gặp nhau trong những cặp mắt tò mò. Còn trên mạng thì sao? Trên mạng tất cả đều xa như nhau hoặc gần như nhau, bởi suy cho cùng thì có gì khác nhau đâu.
Mà họ thì cũng cần phải xa nhau như tất cả mọi người, nhưng khác với tất cả, họ hoàn toàn không vui mừng khi gặp lại. Họ chia tay nhau để cuối cùng lại được gặp lại. Vào thứ sáu, 18 tháng bảy, sáng. Tại sân bay ở Paris. Như cô đã viết, anh thuộc lòng bức e-mail này:
Cạnh quầy cà phê nhỏ liền với kiốt bán báo.
 
Ngày ở New Orleans bỗng trở nên dài kinh khủng. Vào ngày mà cô đi ôtô khách đến Paris, anh phải trình bày báo cáo tại hội nghị ở đây, ở New Orleans. Bản báo cáo của anh là bản đầu tiên trong buổi sáng. Anh đến trước nửa tiếng, để lắp đặt laptop và nối nó với đèn chiếu từ máy tính lên một màn hình khổng lồ trên bức tường giữa. Trước khi anh lắp đặt xong, phòng hội nghị gần như đã kín người. Khi kéo lon coca Mỹ mang theo lại gần mình, anh chợt phát hiện trên mặt bàn được phủ khăn nhung màu xanh lá cây sát với bục của người thuyết trình có một ổ cắm điện thoại được đánh dấu bằng chữ phát quang trên tấm nhãn plastic như là "kết nối" với Internet. Chỉ còn chưa đầy năm phút nữa là đến giờ thuyết trình của mình, thế mà anh cảm thấy mình chẳng còn nghĩ ngợi gì về cái bài báo cáo ấy nữa. Vì hôm nay là cô phải có mặt ở Paris rồi đây. Nếu tính cả sự chênh lệch thời gian giữa Paris với New Orleans, thì chắc chắn giờ này cô đã viết cho anh. Anh muốn biết chắc điều này. Ngay bây giờ! Chỉ cần biết, cô có viết hay không. Còn viết gì thì anh sẽ đọc sau. Không nhìn những người đang chăm chú theo dõi mình, anh vội cắm các modem của laptop vào cái ổ trên bàn và đã bắt đầu khởi động chương trình thư, nhưng vị giáo sư của Berkeley, người điều khiển chương trình buổi sáng đột ngột đi đến chỗ anh.
Vây là anh không kịp…
Giáo sư đề nghị phiên âm thật chính xác họ tên anh. Ông đọc đi đọc lại trước sự có mặt của anh. Nghe như tiếng bị méo của thư ký người máy, nhưng anh vẫn có thể nhận ra là đang nói về mình. Mấy phút sau, khi giáo sư giới thiệu anh là người thuyết trình đầu tiên với phòng hội nghị đã kín người, và vẫn cứ nhầm tên thành họ của anh, thì tiếng cười vang lên. Điều này như một lời chào, lời chúc mừng. Họ phân biệt được họ và tên anh! Đó là chuyện hiếm hoi trên mảnh đất đầy kiêu căng là cái thế giới khoa học này.
Bản thuyết trình của anh phải kéo dài thêm mười lăm phút. Sự ưu ái này chỉ giành cho một số rất ít người. Trong những trường hợp thông thường thì chủ tọa sẽ cắt ngang câu người thuyết trình không chút ngần ngại sau khi thời gian qui định đã hết và gọi người tiếp theo: Ngày xưa thì cái cách ứng xử ấy khiến anh hết sức ngạc nhiên, nhưng hồi ở Munich, khi bản thân anh phải tổ chức hội nghị và có tới hai ngàn người đọc báo cáo, thì anh hiểu rằng đấy là biện pháp duy nhất.
Về nguyên tắc thì anh kết thúc phần trình bày đúng thời gian. Không thể khác được. Anh đã tập nhiều lần với đồng hồ đếm thời gian ở khách sạn: Chính xác bốn mươi phút, kể cả một vài giai thoại mà bao giờ anh cũng xen vào các bài báo cáo của mình. Anh nhận thấy trong số tất cả các bài báo cáo anh nhớ nhất những bài trội hơn nhờ có những giai thoại hay. Và anh tin rằng những người khác cũng phản xạ như vậy. Phần thời gian còn lại, chính xác là năm phút, anh giành cho các câu hỏi. Bây giờ anh không còn nhớ chính xác là làm thế nào lại dẫn đến lời qua tiếng lại gay gắt giữa anh với một tay ngạo mạn đến từ Đại học Tổng hợp Tybinda một cách rất vô nghĩa. Hội nghị quan sát vấn đề với sự căng thẳng ngày một tăng. Đến một thời điểm, để chứng minh cho lý lẽ của mình, anh cần đến một bảng dữ liệu thống kê. Anh cứ chắc rằng mình đã có nó trong ổ cứng của laptop và bằng bảng này anh sẽ kết thúc cuộc tranh cãi vô bổ kia.
Không có bảng dữ liệu!
Chắc là anh đã quên copy nó từ máy tính trong văn phòng ở Munich ra laptop mà anh mang đến New Orieans. Gã người Đức ngay lập tức nhận thấy điều này và rõ ràng là gã đang hoan hỉ.
Và khi đó trong đầu anh loé lên một sáng kiến bất thường. Chẳng phải máy tính của anh ở Munich lúc nào cũng bật sao. Nếu nó bật, thì nó cũng online trên mạng luôn. Nếu nó ở trên mạng, thì chương trình ICQ của anh ở Munich cũng hoạt động. Còn ở cái laptop trước mặt anh đây cũng có ICQ và nó cũng có thể hoạt động, bởi máy đã được kết nối với Internet. Anh đã kết nối nhờ việc anh gần như nghiện cola light, nhờ cái ổ cắm trên bàn này và nhờ nỗi nhớ cô trong anh.
Cả hội nghị sôi động hẳn lên khi anh nói rằng do "sơ suất" anh đã để bảng dữ liệu trong văn phòng mình ở Đức, nhưng ngay bây giờ anh sẽ lấy nó từ ổ cứng của mình trong máy tính tại văn phòng ở Munich. Trước mắt tất cả những người có mặt - họ có thể quan sát anh đang làm gì trên một màn hình lớn phía sau lưng anh - anh bắt đầu ICQ và khởi động tùy chọn cho phép, sau khi đưa mật khẩu vào, thâm nhập vào các phần của ổ cứng trong máy tính ở văn phòng anh. Bảng dữ liệu phải có ở đó, vì một tuần trước khi lên đường đến hội nghị ở New Orleans, anh đã giúp một anh bạn ở tổng hợp Warszawa sử dụng nó bằng cách này. Mấy phút sau, bảng dữ liệu đã được "lấy" về laptop của anh và có thể chiếu nó lên màn hình ở đây, trong phòng hội nghị tại trung tâm hội nghị ở New Orleans.
Trong một khoảnh khắc nào đấy, anh có cảm giác rằng đối với phần lớn những người trong hội nghị, cái bảng dữ liệu bất hạnh kia, ngành gien học và toàn bộ cuộc tranh luận khoa học ấy giờ đây tuyệt nhiên không có gì quan trọng. Quan trọng là ở chỗ, họ có thể là nhân chứng cho một cái gì đó tuyệt đối khác thường, một cái gì đó có thể gọi là "sự co lại" đột ngột của thế giới. Khoảng cách địa lý bỗng nhiên không còn ý nghĩa gì nữa.
The small planet, hành tinh nhỏ bé...
Đối với phần lớn mọi người trong hội nghị, khẩu hiệu quảng cáo này, một cách hoàn toàn không tính trước, mang một ý nghĩa khác, thực tế.
Với anh thì thế giới đã co lại từ lâu rồi, do đó mà chuyện này không gây cho anh ấn tượng gì đặc biệt. Cái duy nhất trong tất cả những chuyện này đang kích thích anh, nhưng lại là cái mà chắc chắn không một ai trong phòng hội nghị mông mênh chật kín người này nhận thấy, đó là một hình vuông vàng nhỏ xíu đang nhấp nháy phía dưới cửa sổ của chương trình ICQ mà anh bắt buộc phải khởi động để lấy cái bảng dữ liệu bất hạnh kia về. Cái tem nhấp nháy ấy chỉ có thể có nghĩa là: cô đã đến Paris và đương cố liên hệ với anh bằng cách gửi tin! Không có "sự co lại" của thế giới này, hẳn anh không bao giờ biết được điều đó. Anh cười, và tất cả mọi người đang theo dõi anh đều nhầm rằng anh đang cười tham trong cảm nhận "chiến thắng khoa học". Anh cười với "gã kiêu ngạo của Tybinga". Anh biết ơn hắn.
Ngay sau khi thuyết trình, anh từ chối mọi lời mời đi ăn trưa, trốn trong trung tâm hội nghị của khách sạn Hilton rồi đi taxi đến Layota Street. Đi trên St. Charles Avenue, anh phân vân làm thế nào để mô tả trạng thái "trở về quá khứ" này. Liệu những người khác cũng cảm nhận như thế? Một kiểu nuối tiếc rằng đã lâu quá rồi, rằng sẽ không bao giờ còn lặp lại nữa, nhưng cũng có cả sự tò mò rất lạ. Như thể trở về với cuốn sách mà đã có thời ta đọc nó với bao hồi hộp và xúc động.
Ở số 18 chỉ có một bức tường, tựa vào phần còn lại của những cái cọc đã có thời giữ cho toàn bộ kết cấu của ngôi nhà này. Phần còn lại nằm trên một đống gạch vụn đen được bao bằng dây thép gai, ẩn trong đám tầm ma khổng lồ đang nở hoa, chúng che kín nơi mà trước đây có thể là vườn. Một khoảng vuông được đánh dấu bằng dây đóng vào những cọc rào mốc, không tìm thấy lối vào. Mãi ở đoạn cuối của phía nam anh mới nhìn thấy một tấm bảng bị tẩm ma che mất một nửa, thông báo "Bán bất động sản". Ngày viết trên bảng là vào tháng giêng. Bây giờ đã là tháng bảy.
Hơn một chục năm trước đầy, chủ ngôi nhà này là một nữ tiếp viên của PanAm. Chị này chuyển đến đây từ Boston sau vụ ông chồng tự cắt động mạch khi biết rằng bố thực sự của thằng con mười một tuổi duy nhất của mình là anh rể của ông. Bằng khoản bảo hiểm của chồng, chị tiếp viên đã mua ngôi nhà này và trong vòng một đêm đã chuyển đến đây cùng với con trai và không để lại địa chỉ cho bất cứ ai. Sau khi không được bay nữa vì bị đuổi khỏi PanAm vì tội ăn cắp rượu từ các khu vực miễn thuế cho hành khách, chị ta bắt đầu cho thuê phòng. Chị ta chỉ cho đàn ông thuê. Và chỉ là những người da trắng.
Anh tìm được địa chỉ của chị ta ở Student Union ngay sau khi từ Ba Lan đến Đại học Tổng hợp Tuiane thực tập. Bởi đây là địa chỉ duy nhất có thể đến được mà chỉ mất không đầy sáu đôla, và anh cũng chỉ còn có ngần ấy, anh bắt đầu đi tìm từ đây. Mở cổng cho anh là một phụ nữ gầy như kiểu suy dinh dưỡng có khuôn mặt chằng chịt nếp nhăn và mái tóc thưa, muối tiêu, dài ngang vai. Trên cổ là một cái băng chỉnh hình vàng bẩn dính máu. Chị ta mặc một cái áo khoác sờn màu tím, được thắt bằng một sợi dây bện mà người ta vẫn dùng để kéo những tấm rèm cửa sổ nặng. Cái áo có hai túi to bằng vải dầu được khâu thêm vào. Một chai johny waller thò ra từ một bên túi.
Chị ta tên là Robin. Nói năng khẽ khàng và điềm đạm. Chị ta cho anh thuê phòng vì anh là người da trắng, và anh hứa sẽ dạy lý cho con trai chị ta và thỉnh thoảng cuốc vườn hộ chị, mang những thùng rác đi đổ trước bảy giờ sáng thứ hai và vì khi được hỏi có hút thuốc không thì anh đã không nói dối mà trả lời là có. Chị ta hút liên tục, và tất cả đàn ông trong nhà chị cũng hút. Sau này anh để ý thấy khi nào không có thuốc lá trên môi là chị ta nói to một mình, cốt là để chọc tức chính mình.
Phòng của anh ở ngay cạnh phòng của Jim.
Hôm nay anh đến đây là để tìm lại gã.
Anh mất liên lạc với gã khoảng ba năm sau khi về Ba Lan. Đơn giản là những bức thư gửi cho gã bắt đầu bị trả lại.
Đúng lúc anh đang nghiêng người để cạo chỗ rêu xanh phủ lên số điện thoại của công ty bất động sản trên bảng thông báo nằm trong đám tầm ma thì nghe thấy một giọng phụ nữ the thé từ phía sau lưng:
- Đến chuột cũng chẳng muốn sống trong ngôi nhà này. Ông đừng có mà mua. Với lại số điện thoại ấy cũng không còn nữa đâu. Cái công ty ấy chuyển đến Dallas rồi. Cách đây đã hai năm.
Anh quay lại và nhìn thấy một bà có tuổi ăn vận lịch sự, che một cái ô màu vàng. Một con chó xù màu trắng với chiếc nơ đỏ trên đầu, đeo một cái vòng cổ da rộng viền vàng nóng nảy chạy quanh bà ta. Con chó sủa liên tục nhưng sợ lại gần.
- Làm sao mà bác biết? - anh hỏi.
- Tôi sống cách đây không xa, Ở Garden District, và ngày nào tôi cũng đến đây với con Maggie của tôi - bà chỉ vào con chó xù trắng - để đi dạo. Với lại cô Robin, người chủ cuối cùng của ngôi nhà này là bạn của tôi. Chính tôi tìm cho cô ấy cái nhà này ở đây đấy chứ.
- Vậy có thể bác biết Jim McManus? Người cao, rất gầy, có một vết sẹo to trên má. Hơn chục năm trước đây anh ta có thuê phòng của Robin.
- Anh ta chẳng hề tên là McManus. Ít nhất thì cũng không phải lúc nào cũng có tên như vậy. Trên mộ anh ta là họ mẹ. Alvarez-Vargas - bà nhìn thẳng vào mắt anh nói.
Không cố giấu giọng nói run run, anh hỏi:
- Trên mộ anh ấy? Bác có chắc không? Có nghĩa là... anh ấy… Anh ấy mất từ bao giờ?
- Đúng đấy, tôi chắc chứ. Tôi đưa tang anh ấy cùng với Robin mà. Mộ của anh ấy đẹp lắm. Ngay cạnh lối vào Thành phố của Những người đã khuất ở nghĩa trang St. Louis. Ở bên phải, sau nhà nguyện. Ít người có được như thế. Và bao giờ cũng có hoa tươi. Hàng ngày. Nhưng hôm đưa tang thì chẳng có ai. Mỗi Robin, người phụ huyệt và tôi. Anh không biết à?! Anh là bạn thân nhất của anh ta kia mà - bà nói.
- Không, cháu không biết. Bác biết cháu â?
- Tất nhiên rồi. Thì chính anh dạy lý cho thằng con của Robin chứ gì. Đấy là con đỡ đầu của tôi đấy.
- Tại sao... Tức là Jim mất như thế nào hả bác? 
- Người ta tìm thấy anh ta ở bãi rác trên Khu Pháp. Anh ta bị ba mươi ba vết dao đâm. Đúng bằng tuổi của anh ta. Và mất bàn tay trái. Ai đó đã cắt mất. Ngay dưới khớp cổ tay. Nhưng nó lại không lấy đồng hồ của anh ta.
Bà nói bằng một giọng đều đều, bình thản, luôn miệng cười với anh và chốc chốc lại dừng lại để vuồt ve con chó đang núp sau chân bà và vẫn sủa liên tục.
- Nhưng bây giờ tôi phải đi đây. Maggie nó sợ anh. Tạm biệt.
Bà đột ngột quay lại nói thêm:
- P.J. rất rất thích anh. Hiện giờ cậu ấy đang sống ở Boston với ông bác... tức là với ông bố. Nó chuyển đến đấy cách đây năm năm, hồi Robin bị đưa vào bệnh viện. Thỉnh thoảng nó có đến đây thăm Robin. Tôi sẽ nói với nó là anh đến đây. Chắc là nó mừng lắm.
Anh đứng đấy câm như hến và nhìn người đàn bà bị chú chó trắng đang mừng rỡ sủa kẻo đi xa dần.
Có thể kể được bao nhiêu nỗi buồn và nỗi đau trong vòng chưa đầy hai phút? - anh nghĩ.
Anh bỗng cảm thấy mệt mỏi vô cùng. Anh để mấy cuốn sổ ghi chép mà anh sử dụng trong buổi báo cáo lên bãi cỏ và ngồi lên, tựa lưng vào cái cột nghiêng được buộc đây để bao quanh khu đất.
Jim không còn sống nữa.
Gã đã chết một cách không bình thường như gã đã sinh ra. Chỉ có điều gã đã sống còn bất bình thường hơn nữa.
Bà già chẳng có lý do gì để nói không đúng về gã. Hơn nữa quả thật là Jim đã có tới hai họ. Và cái họ thứ hai quả thật là Alvares-Vargas. Anh biết chắc điều này vì có lần chính Jim đã nói với anh như vậy. Vào cái tối đáng nhớ ấy. Trên con tàu hơi nước chạy trên sông Mississipi…
Họ vẫn tiếp tục đi quyên góp tiền cho cuộc phẫu thuật của Ania. Vào sáng chủ nhật, anh như thường lệ ở Jackson Square trước nhà thờ, còn Jim trên bờ Missisipi, từ đây những toán đông khách du lịch sẽ xuống tàu đi dọc sông hoặc xa hơn, đến vùng đầm lầy cạnh Vịnh đề xem cá sấu. Anh còn nhớ chính anh đã ngạc nhiên như thế nào khi Kim nói với anh rằng không ở đâu trên thế giới này lại có nhiều cá sấu tụ tập vào một chỗ như ở đầm lầy vùng cửa sông Missisipi đổ ra Vịnh Mexico. Chủ nhật ấy Kim mời anh và Jim đi một chuyến ngắn ra đầm lầy bằng tàu vào buổi chiều. Sau khi về vào buổi tối muộn, họ sẽ cùng đến một nhà hàng mới do cô phát hiện ra ở Khu Pháp. Hứa hẹn sẽ có một tối vui vẻ.
Khi lên tàu, Jim đã ngà ngà say. Anh nhận ra ngay qua tình cảm của Jim khi chào Kim, qua giọng nói oang oang và hai con ngươi mắt chạy ra xa nhau của gã Vừa lên đến boong, gã đã lôi ngay họ lên đuôi tàu, sau mấy cái xuồng cứu sinh,   được ngăn với phần còn lại đĩa boong bằng một sợi dây xích. Khi họ ngồi xuống những tấm tim loại còn nóng của boong tàu được tấm vải dầu bẩn thỉu màu xanh lá cây dùng để che xuồng cứu sinh che kín, Jim liền móc từ túi áo ra ba "cữ" cần sa Thậm chí không cần hỏi xem họ có muốn không, hắn nhét luôn tất cả vào miệng và châm lửa.
- Hôm nay mình thu được một khoản lớn cho con bé ở bờ sông. Mình muốn ăn mừng, nên đã "cắt một ít cỏ" cho hội mình - gã bắt đầu và đưa cho anh một điếu, rồi tiếp tục: - Jakub, ông nhớ là phải hít chứ không được hút như là hút marlboro dưới vòi hoa sen đâu nhé. Ông phải giữ khói ở phổi và dạ dầy lâu nhất mà ông có thể. Nó sẽ thấm vào tận xương ông đấy.
Cần sa đã tác động lên anh một cách khác thường. Chỉ vài phút sau anh đã rơi vào trạng thái phấn chấn và đê mê rất dễ chịu. Anh có một khoảng cách đối với tất cả. Cảm thấy mình hoàn toàn được thư giãn, giống như sau một buổi tập dưỡng sinh thành công, và anh có thể cười vì bất cứ chuyện gì. Vì con chim đang bay, vì tiếng chuông cửa hay vì tiếng còi của ấm nước đang sôi trong bếp. Đã có lần, hút ở phòng làm việc, đặc biệt trong sự cô đơn tuyệt đối - cần sa giống như rượu con người thích bị nó đầu độc trong bầu không khí bạn hữu - ích đã trải qua trạng thái mà anh nghĩ rằng mình không cần phải thở. Thật khó đề mô tả, cảm giác không bình thường! Một dạng của nhẹ nhõm phởn phơ. Như thể có ai đó bỗng cất cho anh cái ba lô nặng trĩu những chì mà anh phải mang từ Krakow đến Gdansk, mà anh thì đã ở gần Torun. Sau sự kiện ấy anh bắt đầu nghi rằng rau xanh có thể nguy hiểm. Hơn thế nữa, lần đầu tiên trong đời anh hiểu, sự thở bình thường nhất có thể là một nỗ lực như thế nào. Lần thứ hai anh ngộ ra điều này, là khi mẹ anh mất.
Anh và Jim ngồi tựa lưng vào xuồng cứu sinh, còn Kim nằm gối đầu lên đùi Jừn. Cô cởi cúc áo và phơi ngực dưới nắng. Cái nịt vú màu vàng viển đăng ten, giống hệt màu của những bông hướng dương khổng lồ trên chiếc váy nâu dài chấm đất, xẻ bên trái. Cô xoay cái váy quanh hông để chỗ xẻ ra phía trước, rồi cô kéo nó lên cao. Jim nhắm mắt, chậm rãi mút cái mẩu của mình được dính vào môi dưới. Bàn tay phải vuốt ve miệng và những sợi tóc để xõa của Kim, trong khi tay trái luồn vào giữa hai đùi để hở và không khép lại của cô những ngón tay nhẹ nhàng lần từ trên xuống dưới dọc theo chiếc quần lót xa tanh cùng màu với váy. Thỉnh thoảng, khi ngón út của gã chạm vào môi Kim, cô hé miệng và khẽ mút nó.
Nghe tiếng rung phát ra từ bánh lái khổng lồ của con tàu, lặng lẽ nhìn bờ sông um tùm của Missisipi từ từ lùi lại phía sau, anh nghĩ đến sex cùng với Kim. Vào lúc ấy Jim ghé sát mặt vào anh và cho anh một "cữ" mới, lần này thì nó chuyền từ miệng sang miệng. Anh nhìn vào mắt gã và chợt nói:
- Cậu biết không Jim, nếu mẹ tớ còn sống, thì hôm nay là sinh nhật của bà đấy. Bao giờ thì sinh nhật mẹ cậu?
- Tôi không biết chính xác - gã trả lời trong sự ngạc nhiên, quay ngoắt đầu lại.
- Sao lại không biết? Cậu không biết mẹ cậu sinh bao giờ à?
- Chính bà cũng không biết' chính xác nữa là - gã trả lời có vẻ bực bội và hơi lên giọng.
Kim mở mắt thật to. Cô cảm bàn tay trái của Jim đang ở trên bụng mình, đưa lên miệng hôn đầy tình cảm và thầm thì:
- Anh hãy kể cho anh ấy nghe về mẹ anh đi.
Jim giật mạnh tay ra. Lấy thuốc lá, châm và hít một hơi sâu. Gã đứng phắt dậy, bỏ đi không nói năng gì.
- Anh không muốn làm cậu ấy bị tổn thương. - Anh nói với Kim.
- Anh không làm tổn thương anh ấy đâu. Đơn giản là anh chỉ hỏi về một điều mà anh ấy muốn quên đi thôi. Anh ấy cũng giả vờ với em như vậy. Và trước anh ấy, em cũng vờ như mình cũng quên rồi. Nhưng anh là người mới và anh chưa biết nguyên tắc của trò chơi này. Anh đừng buồn, anh ấy quay lại ngay bây giờ ấy mà. Chắc chắn là bây giờ anh ấy đang hút cocain trong toilet trên mũi tàu.
Họ ngồi lặng im mấy phút, nhìn dòng nước xanh đục của Missisipi. Bỗng nghe thấy tiếng Jim. Gã đứng phía trên hai dựa vào lan can. Tay phải cầm một chai vang đỏ chỉ còn một nửa.
- Mình định mua whisky, những tay phục vụ trên cái thuyền này chỉ có giấy phép bán bia và rượu vang - gã bắt đầu. - Jakub này, tôi quay lại để kể cho ông nghe lịch sử ngắn ngủi và thầm kín của Hợp chủng quốc. Ông phải nghe cho thật kỹ nhé, vì điều này không có trong bất cứ một cuốn sách nào ở cái đất nước bị lừa dối này đâu.
Tháng sáu năm một ngàn chín trăm ba mươi tư, ông chủ nhà in lớn nhất ở khu riêng biệt của Georgetown ở Washington mới hỏi người con trai duy nhất, lúc đó đã bốn mươi nhăm tuổi, là tại sao lại chưa có con. Ông chủ có cả một đế chế thực thụ nên rất buồn phiền về những người thừa kế mình, nhất là vì ông coi người con trai như một thất bại lớn nhất trong cuộc đời. Mà cũng đúng vậy. Ông con trai này không học xong bất cứ một trường nào. Mà ông ta đã học chính xác tới mười bốn trường khác nhau, không kể quãng thời gian ngắn ở ký túc xá tại Thụy Sĩ, mà chỉ sau ba tuần ông đã rời bỏ nó.
Từ hơn chục năm ông ta chẳng làm gì có thể gợi là có ích và đam mê duy nhất của ông là chơi golf và đàn bà. Theo đúng thứ tự này. Suy cho cùng thì ông cũng xuất phát từ lập luận rằng golf và tình dục có rất nhiều điểm chung. Trong những lĩnh vực này không cần phải giỏi giang lắm mà vẫn có thể thu hoạch được sự dễ chịu, thoải mái.
Năm ba mươi chín tuổi ông cưới con gái một viên chức cao cấp ở Bộ Ngoại giao, làm việc ngay cạnh Nhà Trắng, hoàn toàn do phục tùng ý nguyện của cha. Vị viên chức này không được yên tâm lắm về chàng hôn phu già của cô con gái một của mình, bèn bảo đảm bằng "danh dự" và một hợp đồng thích hợp, để cho chắc, rằng trong trường hợp tiến tới hôn nhân, tất cả những gì có thể in trong Nhà Trắng, sẽ được in trong nhà in của con rể tương lai của ông ta.
Đương nhiên là ông biết, có bao nhiêu giấy tờ cần phải in trong Nhà Trắng và việc này có thể nói lên một khoản tiền như thế nào, đúng không Jakub? Nhất là trong thời gian ấy, tổng thống là một ông Franklin Delano Rooseyelt nào đấy. Một tổng thống Mỹ đích thực: gắn bó với những nhà chính trị đi nghỉ hè với gia đình ở Sycylia, xin tư vấn của các nhà chiêm tinh học trước mỗi một quyết định quan trọng, là người đàn ông quan trọng nhất của ít nhất là ba phụ nữ - hai người tình song song và một bà vợ nghiêm chỉnh. Lúc nào cũng ngà ngà bởi tám chín ly martini uống suốt ngày. Mặc dù hút hết điếu thuốc này đến điếu thuốc khác, song Roosevelt vẫn nổi tiếng vì có giọng nói rất chi là gợi tình, nó giúp ông thu phục được thậm chí cả những cô phục vụ Mexico không hề biết tiếng Anh ở các bang miền Nam. Ngoài ra, ông còn là một tổng thống muốn tất cả phải nằm trong tầm kiểm soát của mình, đó chính là điều dẫn tới nạn quan liêu chưa từng thấy cho đến thời bấy giờ.
Đương nhiên là ông biết, Jakub ơi, rằng với một ông chủ nhà in thì chẳng có gì tuyệt vời hơn một bộ máy quan liêu đang hăng hái hoạt động.
Con gái của vị công chức lo xa và dễ bí mua chuộc của Bộ Ngoại giao là một phụ nữ đặc biệt biết nghe lời cha, thông minh, tình cảm, tinh tế và hiểu biết. Nàng có thể ngâm thuộc lòng những bài thơ của Edgar Poe, có thể đọc những bản luận văn của các nhà triết học Pháp và Đức, biết chơi piano. Nhưng nàng lại có một sắc đẹp rất trung bình.
Đã thế nàng lại bị tật. Bẩm sinh.
Con trai của ông chủ nhà in không bao giờ đòi hỏi nàng và chỉ ngủ với nàng đúng một lần.
Điều đó xảy ra sau ngày cưới ba năm. Khi đó ông ta đang mụ mẫm hoàn toàn vì rượu sau bữa tiệc sinh nhật của ông bố vợ. Với cô nàng, đây hoàn toàn là lần đầu tiên. Cô ta còn nhớ mãi cảm giác đau kinh khủng ở chỗ gần "cửa sau" bị rách, cú va đầu vào chân cái giường kim loại mà cô ta đã có một cuộc đi trốn không thành ở dưới đó, rồi cái mùi nước tiểu ghê tởm của ông ta, nó lại còn dây cả vào cái đoạn chân giả bằng da của cô ta nữa và nhiều tháng sau nó còn nhắc với cô ta về cái đau không thể diễn tả nổi và cảm giác nhục nhã mà cô ta phải chịu đựng vào buổi tối hôm ấy.
Ngoài ra, cô ta vẫn còn trinh, ít nhất thì cũng về mặt sinh học, chính lần ấy ông ta đã đổ bệnh giang mai cho cô ta.
Kể từ hôm đó, không bao giờ họ cùng đi dự tiệc, và cũng từ dạo ấy, có thể thấy rõ là họ sẽ không thể có con. Còn ông thì phải biết rằng mãi đến năm một ngàn chín trăm bốn mươi ba thì Florey và Chain mới cứu những người bị bệnh hoa liễu bằng penicilin. Ông biết điều đó, phải không Jakub? - gã hỏi, nhìn vào mắt anh và không đợi trả lời, nói tiếp luôn:
- Sự khát khao có một đứa cháu nội của người ông cũng lớn như nỗi sợ bị mất quyền thừa kế và rơi vào nỗi nhục nhã của người con trai. Vậy nên anh ta đã hứa với bố là sẽ làm tất cả để có người nối dõi. Thế là anh ta hủy bỏ tất cả các cuộc thi golf mùa hè và cùng cô vợ tật nguyền của mình đến Grenada trên một con tàu thủy sang trọng. Anh ta chọn Grenada không phải vì nó có gì đặc biệt so với những hòn đảo Caribbean khác mà anh ta thường đến chơi golf, mà là vì người quản lý khu vực quanh Grenviiie - một trong hai thành phố lớn nhất trên đảo này - là con trai của một nhà cung cấp giấy người Anh cho nhà in của họ. Grenville, ngoài những bãi tắm đẹp không nơi nào có được, ngoài rượu rum rất rẻ và sự nghèo đói hiếm thấy, còn nổi tiếng vì quyền tự do cực kỳ trong vấn đề nhận con nuôi. Tại các làng quanh Grenville có thể nhận con nuôi mà không cần những thủ tục cần thiết. Chỉ cần nói tiếng Anh, là người da trắng và trả từ ba trăm đến tám trăm đôla, tùy thuộc vào việc người cho con nuôi nghèo ở mức độ nào và đứa trẻ trắng đen ra sao. Càng trắng càng đắt, đương nhiên.
Trẻ em gái bao giờ cũng rẻ, không phụ thuộc vào màu da, và đều có giá là ba trăm đôla.
Khó khăn duy nhất là quyền chính thức đưa đứa trẻ ra khỏi đảo. Và tay con trai người cung cấp giấy giải quyết chính là vấn đề này tiện thể với việc nhận lệnh giải quyết giấy cho ông bố trong vòng ít nhất là năm năm.
Kim, em yêu, em có thể lên quán bar trên mũi tàu được không? Chẳng phải là em đã được biết chuyện này rồi sao? Em có thấy là vang hết rồi không - gã quay lại Kim, chỉ vào cái chai rỗng. - Trước khi em quay lại đây, anh sẽ ở phần kết rồi.
Kim đứng lên, rầu rầu nhìn gã, sửa lại mái tóc rối và đi ra, không nói. Jim kể tiếp:
- Có hai đứa trẻ sinh đôi được giới thiệu để cho làm con nuôi, Juan và Juanita Alvarez-Vargas. Là con thứ sáu và thứ bảy của chị giúp việc cho người quản lý khu vực Grenville. Nhận con nuôi là một cơ hội đặc biệt, bởi mặc dù không có ai nói một cách chính thức, nhưng tất cả đều biết rằng cha của hai đứa trẻ sinh đôi hoàn toàn không phải là cha của sáu đứa còn lại. Ông ta không thể làm bố được vì đang ngồi tù ở St. George's, thủ phủ của đảo này từ hai năm nay. Ông bố là một người Scotland da trắng nào đấy, đã có một kỳ nghỉ hè ngắn ở Grenville theo lời mời của người quản lý. Một người Scotland với bộ dạng đế quốc - Grenada là thuộc địa của Anh cho tới một ngàn chín trăm bảy mươi tư - ông ta cho rằng mình không chỉ uống rum trong hầm rượu của gia chủ, mà còn được sử dụng thoải mái đám người phục vụ của ông ta nữa. Và cơ hội đặc biệt là từ đó. Tụi trẻ đặc biệt trắng và chỉ mang trong lĩnh duy nhất bộ gien đế quốc.
Cho dù giá là quá bèo bọt và bà mẹ của hai đứa trẻ sinh đôi hết lời van xin, cũng như bỏ mặc lời đề nghị của cô vợ tật nguyền, đương nhiên là họ chỉ nhận mỗi đứa bé trai. Trong hồ sơ nhận con nuôi, ngoài họ tên thật ra, thằng bé còn có cả họ của họ và tên đổi thành William. Ông của nó cũng có tên đúng như vậy. Cuối cùng thì họ làm thế cũng là vì nó. Điều duy nhất thiếu trong hồ sơ là ngày sinh. Vị công chức quẫn trí của chính quyền tự trị ở Grenville đơn giản là đã quên điền vào mục này.
Mãi trên đường về trên con tàu chở họ đến Filadelfia họ mới phát hiện ra điều này. Để tránh rắc rối ở cơ quan nhập cư, bố của William, không cho ai biết, đã tự mình viết ngày sinh vào hồ sơ. Ông ta chọn ngày và tháng sinh của bố mình.
Còn gì có thể cảm động hơn đối với một người ông khi thằng cháu mang tên lính, sẽ tổ chức sinh nhật cùng ngày với mình?
Vị viên chức quên ngày sinh, nhưng lại. không quên đính kèm một hóa đơn về việc nhận con nuôi với giá bốn trăm tám mươi đôla.
Để thanh toán thuế.
Gần như đúng mười tám năm sau, Wiuiam tìm giấy khai sinh của mình trong đống giấy tờ cũ của gia đình, để kẹp vào đơn xin vào học khoa sư phạm của Đại học Tổng hợp Columbia ở New Jork. Không tìm thấy giấy khai sinh, nhưng cậu ta lại trên thấy giấy nhận con nuôi đã ố vàng cùng với tờ hóa đơn đính kèm có đóng dấu "Đã thanh toán" của Phòng Tài chính huyện Columbia.
William là một cậu bé kín đáo, lặng lẽ và mơ ước sẽ trở thành thầy giáo. Ngoài ra từ năm mười sáu tuổi, cậu tập đá bóng và - giấu bố - tập đấm bốc. Khát vọng lớn nhất của cậu là trở thành một người mạnh mẽ để có thể chống lại ông bố những khi trong cơn thịnh nộ ông ta tấn công mẹ một cách rất vũ phu. Cậu căm thù bố mãnh liệt bao nhiêu thì lại tôn thờ mẹ mãnh liệt và vô hạn bấy nhiêu.
Buổi tối hôm cậu tìm thấy giấy tờ, mẹ đã nói cho cậu biết tất cả.
Cậu quỳ trước mặt mẹ vừa nghe vừa khóc, nhưng cuối cùng thì cậu cười và nói rằng: "Mẹ không thể tưởng tượng được con cảm thấy nhẹ nhõm như thế nào khi biết được cái đồ cặn bã hôi thối ấy, cái gã đã mua con với giá bốn trăm tám mươi đôla ấy không phải là bố đẻ của con. Cho dù hắn có là ai đi nữa thì cũng không thể xấu xa hơn được".
Ông nghĩ sao, hả Jakub, làm thế nào mà tôi lại biết được tất cả những chi tiết ấy?
Với lại Kim có thể mang rượu vang quay lại ngay bây giờ, bởi tôi thấy tỉnh táo và buồn kinh khủng. Mà rồi đây mới thật là buồn cơ.
Thế đấy, tôi biết được mọi chuyện chính xác như vậy từ mẹ tôi, Juanita Alvares-vargas, người không được họ chấp nhận, bởi bà vẫn là thiếu nữ.
Sáu tháng sau William đón cô em gái từ một tàu khách lớn chạy từ Grenada đến New York. Mặc dù trước đó chưa bao giờ nhìn thấy con bé, nhưng cậu không hề nghi ngờ rằng con bé, khi cậu nhìn thấy, một đứa con gái bé tí tẹo đang hoảng hốt, con ngươi mắt màu xanh đen giống hệt như của cậu rụt rè bước xuống cầu tầu. Bởi nó chính là đứa em gái sinh đôi của cậu. Nhỏ hơn mười phút. Chắc chắn cả hai đều biết điều này. Nhưng ngày sinh của chúng chính thức lại cách nhau hàng tháng. Do đó không đứa nào biết chắc được mình sinh ra lúc nào.
Người ông, nhân viên của Bộ Ngoại giao đã nghỉ hưu, đã dùng tất cả số tiền tiết kiệm được để mua vé cho con bé, và xin cậu giải quyết cho nó một chân tạp vụ trong công ty của mình trước đây. Ở đấy họ sẵn sàng nhận bất cứ ai vào làm tạp vụ miễn là rẻ và không biết tiếng Anh, để không nghe lỏm được bất cứ chuyện quan trọng nào, ngoài ra còn được "đảm bảo". Trong thời kỳ chiến tranh lạnh của Truman và săn lùng những mụ thầy bói đỏ do McCarthy chỉ đạo, thì điều này là đặc biệt quan trọng. Tiết kiệm khoản "chụp X-quang" đắt tiền và kéo dài. Được "ông bạn" có công lao xứng đáng giới thiệu, đương nhiên là họ không kiểm tra Joanita và bàng cách đó, mặc dù không có giấy chấp nhận cho làm việc và không có viza trong hộ chiếu, tháng hai năm năm mươi hai, cô em bắt đầu làm tạp vụ ở phòng thư ký của phó phát ngôn viên của Bộ Ngoại giao. Một trong những Ban được bảo vệ cẩn mật nhất ở Mỹ.
Gã dừng lại, vì đúng lúc đó Kim xuất hiện. Cô mang về một cái túi vải và rút ra một chai whisky, đưa cho Jim, không nói gì. Thoạt tiên, không bình luận gì, gã vội mở cái nắp chai kim loại rồi tu lấy tu để.
- Bé cưng, chốc nữa phải kể xem em đã làm thế nào mà cái gã bán bar ấy lại dám liều tính đến vậy để bán cho em  cái này? - gã bỏ chai ra khỏi miệng và hỏi.
- Anh ta không bán, mà chỉ cho thôi. Và em sẽ không kể. Em sẽ phải kể rất xấu về mẹ em. Anh kể xấu về mẹ anh là quá đủ rồi.
- Anh chưa kể điều gì xấu cả! Hơn nữa anh cảm thấy cái gã bán bar ấy giống với tay matxa của mẹ em - gã cười cáu kỉnh.
Gã đặt cái chai xuống và quay lại câu chuyện.
- Phó phát ngôn viên là một công chức cần mẫn đã lên men, là người leo lên được vị trí của mình chủ yếu là do hắn không bao giờ phản đối, bao giờ cũng có thời gian để ở lại sau giờ làm việc, hắn sẵn sàng làm mọi việc hèn hạ chỉ cất để không bị coi là kẻ không trung thành.
Hắn cũng đòi hỏi các thuộc hạ của mình lòng trung thành ấy. Do đó mà điều đầu tiên hắn kiểm tra, đó là lòng trung thành của Juanita Alvares-vargas, cô tạp vụ trê mới. Ở Grenada, đối với người Mỹ không có quá khứ cơ bản, vậy nên điều duy nhất mà hắn phát hiện ra là Juanita chưa đầy mười tám tuổi và rằng cô bé làm việc không hợp pháp.
Trong âm mưu tội lỗi của hắn, cô bé sẽ phải dùng giẻ chùi tấm ván toilet bị dây đầy nước tiểu của cái nhà vệ sinh cá nhân tao nhã của hắn và với ý đồ, mặc dù đây là điều không được phép, cô bé sẽ phải quỳ và kiên nhẫn cạo tất cả những vết mù tạt dính mỡ mà ngày nào cũng rơi xuống thảm từ cái món hot dog khoái khẩu của hắn.
Trong cử chỉ của lòng tốt vĩ đại, hắn quyết định cho cô bé cơ hội cuối cùng để "chuộc mình".
Điều này đã nảy ra trong đầu hắn vào một tối thứ tư nào đấy.
Đã thành lệ từ ba năm nay cứ tối thử tư là hắn dùng bữa với ông sếp của hắn và vợ của ông ta. Vì nhà hàng Washington Old Ebbitt Grill có tiếng dành riêng cho người giàu ở gần công ty của hắn, nên hắn không đi taxi ngay về nhà, mà quay lại văn phòng để uống martini với ôliu. Hắn bắt đầu làm vậy từ buổi thứ ba, khi nhận thấy rằng hễ cứ nghĩ đến làn môi của cô vợ thứ ba trẻ trung của sếp là hắn lại toát mồ hôi và hưng phấn.
Một lần, trong chính trạng thái hưng phấn ấy hắn quay về phòng làm việc vắng vẻ chuẩn bị cho mình một ly martini extra dry với ôliu ưa thích, đặt nó lên bàn để thư cạnh cửa sổ nhìn ra phố, mở bản concerto số ba C-dur của Haydn mà hắn yêu thích, mở cái cửa sổ lớn, tụt quần dài và cái quần sịp ố vàng vì nước tiểu rồi đứng trong niềm hân hoan của một kẻ thích khoe "của quí" với niềm tín rằng thế giới đang ngắm nhìn cái biểu tượng bé cỡ phân tử đang nửa cương cứng của hắn đầy ngạc nhiên và ngưỡng mộ. Khi cái sự bán cương cứng ấy, trái với ý muốn của hắn, biến mất, thì hắn gọi nó lại bằng cách nghĩ rằng hắn căm thù lão sếp kia thật lòng và sâu sắc biết bao, cái thằng có tất cả những gì hắn không có được: phòng làm việc rộng hơn, được tổng thống bắt tay và đã có đến đời vợ thứ ba. Càng vợ sau lại càng trẻ hơn.
Hắn, một kẻ tội nghiệp, chỉ có độc một mụ vợ già hơn sáu tuổi và kể từ khi hắn không ngủ với mụ ta nữa thì mụ phát phì ra đến nỗi hắn không dám đi đâu với mụ - vì xấu hổ - thậm chí chỉ là đến chỗ ông thợ làm bánh mì ở góc phố. Trong mối căm hờn của hắn đối với lão sếp, hắn trả thù lão bằng cách tưởng tượng ra rằng cô vợ trẻ trung của lão, trong niềm hoan hỉ với hình ảnh đầy tính đàn ông của hắn và âm nhạc của Haydn, sẽ quỳ xuống trước hắn và đưa vào miệng cái mà hắn khoe với thế giới qua cửa sổ nhìn ra phố một cách kiêu hãnh đến thế.
Mụ vợ hắn thì chẳng bao giờ chịu đưa vào miệng. Đã có lần hắn phát tín hiệu để mụ hiểu rằng hắn muốn điều đó. Mụ ta liền phản ứng bằng một sự kinh sợ như thể phải nuốt một con gián.
Một lần vào thứ tư, hắn quay về phòng làm việc trong trạng thái hưng phấn như thường lệ, bắt gặp cô tạp vụ "không trung thành" vẫn còn ở đó, đang quỳ và kiên nhẫn cạo những vết mù tạt mà hắn để dây ra thảm.
Jim ngừng kể. Nóng nảy quay người lại. Tìm thấy chai whisky gã hèn tu ừng ực. Gã châm thuốc và hơi lùi lại. Lúc này không thể nhìn thấy mặt gã đã bị bóng của cái máy nâng xuống che khuất Giọng gã, khi trở lại câu chuyện, đã khác đi.
- Và khi đó hắn nảy ra ý nghĩ là hắn có thể làm một điều gì để để cứu rỗi phẩm giá cho Juamta Aivares-vargas.
Hắn chuẩn bị martini. Mở Haydn. Mở cửa sổ nhìn ra phố. Hắn quay lại chỗ cái máy chữ, kéo tờ giấy ở đó ra và viết bằng chữ in: "VISA → GRENADA". Hắn đến chỗ cô tạp vụ đang quỳ, đặt tờ giấy xuống trước mặt cô ta, không nói năng gì, đi ra chỗ cửa sổ.
Một phút sau, bằng cái công-tắc trên bàn thư, hắn tắt hết điện trong phòng làm việc. Hắn tụt quần và đợi, cảm giác rằng hôm nay cái sự bán cương cứng của hắn sẽ tốt hơn.
Hắn quay lưng ra cửa sổ. Hôm nay, cái thế giới phải sững ra vì ngưỡng mộ sẽ nằm trọn trong phòng của hắn.
Cô bé thừa hiểu hắn muốn gì. Nó biết rằng rồi sẽ đến lúc việc này lộ diện. Nó hoàn toàn không nghi ngờ gì việc nó không được phép quay lại Grenada. Đã một lần nó thất bại, vì nó là đàn bà. Giờ đây có thể nó thắng được một cái gì đó, bởi nó là đàn bà. Với lại, có gì khác nhau đâu nhỉ. Đằng nào thì cũng sẽ đến lúc nó phải làm vậy với một du khách nào đấy.
Không nhấc gối, nó nhúng tay sâu vào xô nước pha nước giặt thảm. Nó   thích cái mùi này. Nó lau mũi và miệng bằng nước đó và vẫn không nhấc gối, nó lết đến chỗ hắn. Nó tập trung vào âm nhạc. Không nghĩ đến việc mình đang làm.
Nó nghĩ về một tuần trước đây, William dẫn nó đi ăn sushi trong một nhà hàng Nhật Bản. Thật ghê tởm. Cái món sushi ấy. Lúc này cảm giác của nó cũng y như vậy: giống như thể liếm chỗ cặn sushi ở cái lỗ thoát nước bẩn thỉu bị tắc vì tóc trong bên nhà tắm của ai đó nặng mùi nước tiểu.
Sau chưa đầy một phút, mọi chuyện đã kết thúc. Nó đứng dậy và chạy thẳng đến toilet của hắn. Đầu tiên nó khạc, sau đấy thì nôn; lúc ấy nó nghĩ rằng đấy không phải lại là cái giá quá cao cho tương lai của nó. Trên tàu đi từ Grenada, nó nôn liên tục. Và toilet ở đấy làm sao mà đẹp được bằng ở đây.