Đã hết tháng tám. Cả bọn tổ chức sinh nhật cô. Asia vào bếp với cô, khi chỉ có hai đứa, nó bảo: - Ở gần Nimes ở miền nam Pháp có những cánh đồng nho rộng mênh mông. Một tên bạn cùng năm với mình mấy năm nay đều đến đó hái nho. Một vùng rất đẹp và họ trả không đến nỗi tồi. Cậu có đi với mình không? Chỉ có điều cậu phải quyết định ngay hôm nay. Nó đang chờ câu trả lời. Một tuần sau thì bọn họ đi tàu đến Berlin. Từ Berlin đi Nimes thì họ quyết định đi autostop (1). Tất nhiên là cô không cho bố mẹ biết chuyện này. Các cụ sẽ chẳng bao giờ cho phép đâu. Nhưng cô không đắn đo lấy một miligiây khi Asia nói với cô dự định ấy. Họ có hai người. Làm sao mà có thể xảy ra chuyện gì được?! Chưa bao giờ cô ân hận vì quyết định ấy. Đó là một chuyến phiêu lưu hiếm hoi. Tất cả đều diễn ra tuyệt vời cho đến tận Lyon. Ở đó may mắn đã bỏ rơi họ. Trên đường cao tốc từ Berlin về phía nam, họ đi nhờ được xe của một người làm bên đường sắt, Asia đã tán tỉnh anh này khi hỏi đường. Anh ta chỉ biết mỗi tiếng Đức, tiếng Pháp thì thậm chí không cả phân biệt được chữ viết và chỉ hiểu được một ít tiếng Anh. Mặc dầu vậy anh ta vẫn cười với Asia, kiên nhẫn giải thích cho nó đến n lần về việc đi qua cả Ber-lin từ ga ZOO ra đường cao tốc Barliner Ring như thế nào. Cứ sau mỗi lần anh ta lại nói chậm hơn một tí vì tin rằng nếu nói chậm thì bọn chúng sẽ dễ hiểu hơn. Anh ta không biết cách giấu việc anh ta thích Asia. Rồi anh ta lấy trong túi ra cái walk-talk và nói điều gì đó rất nhanh bằng tiếng Đức. Anh ta giữ tay Asia và dẫn nó đi nhanh qua đường hầm về hướng thành phố. Cô thì chạy theo họ. Một tiếng sau anh ta để hai đứa xuống ở một cây xăng bên đường cao tốc đi Frankfurt trên Men. Anh ta đợi cho tới lúc chúng tìm được cơ hội đáng tin tưởng để đi Frankfurt. Lúc tạm biệt, anh ta giúi cho Asia một tờ giấy ghi địa chỉ và số điện thoại. Họ đi với một người Mỹ đến Frankfurt, là một quân nhân trong một đơn vị đặc biệt của quân đội Mỹ đóng gần Frankfurt, người này - là chuyện lạ hiếm thấy - nói tiếng Pháp rất tốt: ông ta rất thích thú nghe Asia nói chuyện bằng tiếng Pháp, còn cô thì bằng tiếng Anh. Cô chưa bao giờ nhìn thấy một người đàn ông nào có nụ cười đẹp như vậy. Ông ta biết Nimes. Bao giờ ông cũng dừng lại ở đấy trên đường đi Côte d'Azur, nơi ông nghỉ hè cùng các con. Cô đã bị chấn động mạnh khi nghe ông nói có bốn đứa con và tự nuôi dạy chúng vì vợ ông, cũng là một quân nhân và đã bị chết trong trận khủng bố đại sứ quán Mỹ ở Tel Aviv. Lúc ấy trong xe bỗng im ắng lạ. Asia đã phá vỡ sự im lặng khi đề nghị dừng lại ở bãi đỗ xe tiếp theo. Nó xuống và ra cột điện thoại. Khi quay lại xe, nó nói bằng tiếng Ba Lan: - Nghe này, cái anh chàng đường sắt ấy đã kịp học tiếng Ba Lan rồi đấy! Khi buồn quá, mình thấy cần phải gọi cho anh ta và cám ơn một lần nữa. Anh ta đã làm cho bọn mình một việc phi thường, là chở bọn mình ra đường cao tốc. Cậu có tưởng tượng được không, anh ta gần như là lặng đi khi nghe thấy tiếng mình. Còn cuối cùng thì nói buồn cười quá, như là một đứa trẻ: "Cám ơn chị". Đến Frankfurt, vị quân nhân cho hai đứa xuống cạnh một văn phòng sinh viên, nơi phối hợp những chuyến đi giá rẻ bằng xe tư nhân đến các thành phố lớn của châu Âu. Chỉ cần trả một khoản tiền nhỏ, đã có thể là hành khách của một xe con đi đến ví dụ như Lyon. Ông người Mỹ chuyển ba lô của họ sang chiếc BMW đỗ trước văn phòng và nói gì đó với người lái xe bằng tiếng Đức và bảo chúng chuyển sang chiếc BMW. Cả hai thậm chí không kịp tạm biệt ông vì người lái xe nổ máy quá đột ngột. Cô nhìn người lính Mỹ và nghĩ tới vợ ông ta, người đã chết ở Tel Aviv. Họ đến Lyon vào sáng sớm, nhưng đường tắc kinh khủng, cho đến tận chiều mới thoát ra được. Nóng tới 35 độ. Người lái xe luôn miệng chửi thề. Bọn chúng chửi theo. Sau đó, chán quá, chúng dạy anh ta chửi bằng tiếng Ba Lan. Khi xuống xe ở một trạm thu phí giao thông, bọn chúng rất hãnh diện về mình. Lái xe, một thanh niên Đức tóc nâu trong bộ comple lịch sự được may bởi bàn tay của những người thợ may giỏi nhất, chửi thề trong sự tập trung cao độ trong chiếc BMW có điều hòa và nội thất tồi tàn hệt như một thằng du côn chính hiệu nhất bên những bom bia ở Wola. Ngoài ra, trong những quãng nghỉ, khi hầu như không thể nhúc nhích gì trên đường cao tốc, anh ta ghi vào sổ phiên âm tất cả những gì chúng dạy. Thật là một con người chăm chỉ! Hay cũng có thể người Đức vốn dĩ vẫn thế, cái gì cũng ghi vào sổ. Trời tối đần. Sáng hôm sau họ phải có mặt ở nông trang gần Nimes để nhận việc. Qua Lyon, vào chiều muộn, một xe tải Tây Ban Nha chở chúng đi tiếp. Người lái xe dừng lại ở Nimes! Khi nhìn thấy biển chỉ đường chỉ về Avignon, Asia hỏi lái xe đấy có phải là "Avignon với cây cầu" không. Khi người này bảo rằng thậm chí anh ta không thống nhất việc này với Asia, nó bèn đề nghị anh ta rời đường cao tốc để đi về thành phố này và thả chúng ở đó. - Mình không thể tha thứ cho bản thân nếu đi qua ngay cạnh mà không được nhìn thấy cây cầu này. Cậu cũng chưa được nhìn thấy phải không? - nó nói. - Tụi mình chỉ nhìn cây cầu, ăn một chút gì đó rồi đi tiếp bằng tàu. Cậu đồng ý đi - nó nói theo cái cách không chấp nhận phản đối của mình. Tất nhiên là cô muốn được nhìn cây câu này. Hơn nữa chưa bao giờ cô thấy đói như lúc ấy. Kể từ lúc rời Frankfurt, họ chưa ăn gì. Cây cầu rất bình thường. Hoàn toàn không xứng với tiếng tăm của nó. Bi Kịch của nó chỉ là nó dừng lại bất ngờ và không tới được bờ sông bên kia. Điều này có thể kích thích trí tưởng tượng. Nhưng chỉ của những ai chưa biết câu chuyện thực về sự hủy hoại của nó. Asia biết đến từng chi tiết và đã không còn chỗ cho trí tưởng tượng. Họ ra tận đoạn cuối cùng, xa nhất có thể và nhập vào đoàn khách du lịch đã ở sẵn đó. Hai đứa ngồi lên balô, cởi áo và bắt đầu phơi nắng. Sau một khoảng thời gian nào đấy, lúc quay ra ga họ mới biết rằng không còn bất cứ một chuyến nào đi Nimes cách đó 100 km nữa. Họ quay ra chân cầu, hạ lều mà Asia để "cho chắc" đã cõng theo. Mặc dù điều này là không hợp pháp nhưng hai đứa đã qua đêm dưới chân cầu ở Avignon - với cả lều họ đã giấu mình sau một chiếc xe tải đỗ ở bãi đỗ xe. Họ đến nông trang chậm mất nửa ngày. Công việc hái nho đã được phân cho người khác. Một người Angiêri trẻ giữ vai trò nhân sự chỉ giang tay và giả vờ lấy làm tiếc. Cô nhớ là cô đã khóc đã nguyền rủa Avignon, Asia, cô gái Đan Mạch đã hát về cây cầu điên rồ kia, và cái thằng cha người Angiêri đã chẳng giải quyết được gì. Thế rồi có một người đàn ông không lồ đi vào phòng thử nho, cũng là nơi làm việc của thằng cha người Angiêri. Anh ta mặc một cái áo may-ô trắng dính máu và cái tạp-dề treo trên cổ bằng những sợi dây sờn và quấn quanh hông một cái thắt lưng to. Mặc dù trời nóng anh ta vẫn đi giầy cao su. Hai chân cũng đỏ những máu. Trông anh ta thật khủng khiếp. Tay người Angiêri chào anh ta như một người quen, không mảy may để ý đến bộ dạng của anh ta. Khi người khổng lồ đi đến chỗ máy lạnh và quay lưng lại phía chúng để kéo thùng nước khoáng, chúng mới nhìn thấy trên lưng áo may-ô có dòng chữ đã mờ Đại học Tổng hợp Warszawa. Tay người Angiêri bắt đầu chỉ vào họ và kể gì đó với anh này. Một lát sau người khổng lồ đi đến chỗ chúng nó, mặt đỏ lên như một cậu trai và nói bằng tiếng Ba Lan: - Cạnh đây có một nông trang nữa. Ở đó họ trong súp-lơ. Đúng lúc đang cần người làm. Họ không trả nhiều như bên hái nho, nhưng có thể làm ở bên ấy lâu hơn hai tuần. Nếu các bạn muốn, anh ta sẽ gọi điện hỏi xem họ có nhận không. Chúng muốn. Thậm chí rất muốn. Từ ngày hôm sau, chúng dậy từ năm giờ sáng và đi cùng với gia đình chủ nông trang ra đồng. Công việc là che nắng cho súp-lơ Chúng phải đeo vài trăm cái dây chun mỏng đủ màu sắc bên tay trái suất từ cổ tay cho đến cánh tay và đến chỗ những cây súp-lơ đang lớn - nó không thể tưởng tượng nổi chúng lại có thể to đến thế - túm lá lại để bọc lấy hoa của chúng, sau cùng là dùng dây chun để quấn lại để che nắng cho súp-lơ, nhờ đó mà hoa lơ không bị thâm và bán được giá hơn. Vào năm giờ sáng, những cây súp-lơ vẫn còn ướt đẫm sương lạnh buốt. Cánh đồng nơi chúng làm việc có chiều dài 6 km. Vậy là phải đi 6 km, cúi xuống từng cây súp-lơ trên đường đi, ôm nó như ôm đứa trẻ con và quấn dây chun. Ôm được vài cây là người đã ướt sạch và rét run. Mà buổi trưa nóng vẫn cứ ướt. Nhưng là do mồ hôi; không có chỗ nào để tránh cái nóng, bởi trên đồng súp-lơ không có cây to. Khi đi đến cuối cánh đồng lại phải quay lại. Cũng 6 km. Cô biết điều này rõ nhất khi ôm cây súp-lơ đầu tiên của kilômét đầu tiên. Sau ngày đầu tiên thì cô căm thù mọi cây súp-lơ trong vũ trụ này và cái người đã tha chúng về châu Âu. Sau ngày thứ hai cả cánh tay trái của cô toàn một màu xanh tím vì những lằn chun trong suốt mười giờ đồng hồ. Sau ngày thứ ba họ được nhận tiền công của ba ngày đầu tiên và nỗi hận đối với bọn súp-lơ cũng giảm đi rõ rệt, và cả cánh tay cũng không đến nỗi thâm tím quá như vậy nữa. Ngày hôm ấy chúng quyết định đến thăm người khổng lồ mặc chiếc áo có dòng chữ Đại học Tổng hợp Warszawa. Mặc dù chỉ biết mỗi anh ta tên là Andrzeí, nhưng chúng vẫn tin là sẽ tìm thấy. Bởi chúng cho rằng có lẽ rất ít những người to lớn như Andrzej của chúng làm việc trên các cánh đồng nho ở Pháp và người Ba Lan thì lại càng hiếm hơn. Chúng lấy tiền làm thêm được mua mấy lon bia và đi tắt qua cánh đồng súp-lơ đến phòng thử nho mà chúng đã biết. Hai đứa đang trong tâm trạng vui vẻ tuyệt vời. Đến nửa đường chúng mở bia uống, nói chuyện tếu và cười hết cỡ. Đã hết cánh đồng súp-lơ và từ con đường ngang bỗng có một ai đó phóng xe đạp ra. Chúng hỏi về Andrzej. Có vẻ như là ở đây ai cũng biết anh ta. Chúng được biết rằng anh ta làm việc trong một khu trại cách phòng thử vài trăm mét. Khi đến gần, chúng nghe thấy những tiếng rống to của lũ bò sữa. Chúng phải mất một lúc nhịn thở vì mùi hôi kinh khủng để đi hết khu chuồng bò dài trát vữa trắng. Qua được chuồng bò, với những lon bia trong tay, tươi cười và hớn hở chúng đến một chỗ giống như bãi chăn gia súc. Những gì mà chúng nhìn thấy, cho đến hết đời cũng không thể quên được. Từ các cửa chuồng bò đi về hướng cánh đồng, là một kiểu hành lang hẹp được định giới bằng cọc sắt đã lên màu nâu vì han rỉ. Nhiều chỗ, những mối hàn đã bong ra làm cho các cọc nghiêng vào phía trong hành lang. Ngay cạnh các cửa, một người đàn ông trẻ đứng trên một cái bục được dựng từ những khúc gỗ, một tay cầm một chai bia, còn tay kia cầm một điện cực dài giống như của những người thợ hàn vẫn dùng. Anh ta đẩy điện cực qua khe cọc rào và gí vào cổ những con bò bị một người trong trại lùa ra. Hoảng sợ và đau bởi dòng điện, những con bò chạy lồng lên và bị những cái cọc nhô ra đâm vào người. Ở đoạn cuối, hành lang đột ngột đổi hướng, thêm vào đó còn hẹp lại. Để lách qua được chỗ hẹp đó những con bò buộc phải chậm lại. Qua chỗ hẹp này, chúng đi ra một cái bãi bê-tông tròn nhỏ. Andrzej đứng ở giữa cái bãi ấy, mặc cái tạp dề da mà chúng đã nhìn thấy. Anh ta đi đôi găng tay đen dài đến khuỷu. Tay phải cầm một cái búa to, loại mà người ta vẫn dùng để đóng cọc hoặc để đập gạch. Khi con bò ra đến bãi bê-tông sau đoạn hành lang hẹp, Andrzej dùng búa nện một nhát vào giữa hai mắt nó. Con bò rống lên và ngã lăn ra nền bê-tông. Máu từ tai, đôi khi máu trộn lẫn với dịch và giêlatin từ những con ngươi bị đập nát từ những hốc mắt rỗng tứa ra. Một cái xe chạy bằng ắc qui, giống như loại xe chở rơm đi đến, thò cái chĩa khổng lỗ bằng kim loại vẫn còn dính đầy lông bê bết máu ra nâng con bò vẫn còn co giật lên và chở đến dãy nhà bên cạnh. Một con bò tiếp theo vào bãi. Cô nhớ là mình đã đột ngột quay đầu chạy, sững sờ vì sự man rợ của hành động tàn bạo kia. Asia đã không còn ở cạnh cô nữa; vừa chạy cô vừa liếc thấy nó đang quỳ trên một bãi cỏ mọc cao và nôn. Lúc ấy thì cô dửng dưng với chuyện đó. Cô chỉ muốn làm sao nhanh chóng rời càng xa cái chỗ kia càng tốt. Ra đến tận cánh đồng súp-lơ cô mới dừng lại. Cô ngồi trên rãnh giữa hai luống súp-lơ và căm phẫn nghĩ về sự tàn bạo không giới hạn của con người. Mãi đến khi nghe thấy tiếng kêu của Asia cô mới bừng tỉnh. Nó quay về, và giật mình khi nhìn thấy cô ngồi giữa đám súp-lơ. Nó đến bên cô và ngồi xuống. Cả hai im lặng một lúc lâu. Mãi cô mới đứng lên, phủi cát ở quần và nói đầy căm thù: - Nếu quả thật có sự đầu thai lại, thì mình cầu cho cái thằng chó đẻ mang búa kia ở kiếp sau sẽ đầu thai thành bò. Và nó sẽ chào đời ở gần Nimes. Sau một tuần thì bọn chúng đã quen với đám súp-lơ. Chúng ở ngoài đồng súp-lơ hầu như cả ngày. Sau đó chúng quay về ngôi nhà nhỏ mà ngườí chủ nông trang đã ngăn ra thành nhiều phòng cho những người làm công. Và chúng lại cùng nhau. Chuẩn bị bữa tối và nói chuyện tiếp. Chúng giống như là một đôi vợ chồng làm cùng một chỗ. Không đề tài nào mà chúng không nói đến. Cả hai đều cảm thấy cứ mỗi ngày qua đi, tình bạn của chúng lại thắm thiết hơn. Cho dù có nhiều điểm bất đồng, nhưng chúng tôn trọng sự khác biệt của nhau và lắng nghe nhau. Thời gian trôi mau. Chúng đi trên đồng suốt tám tiếng, nhiều khi lâu hơn và ôm những cây súp-lơ vào lòng. Những khi ấy chúng kể biết bao chuyện lạ, chúng hát và nhẩm tính số tiền kiếm được. Chuyện này xảy ra đúng một tuần trước ngày dự định về Ba Lan. Đó là một ngày thứ bảy nóng chưa từng thấy và hôm ấy cả gia đình ông cho nông trang đều ra đồng. Khi tất cả người lớn làm việc, thì cậu con trai bốn tuổi Francois, một cậu bé tóc vàng vui vẻ có khuôn mặt con gái và anh trai tám tuổi Theodore - cậu con cưng của ông bố - chơi trong bóng râm của một cái cây ven đường. Trông nom hai đứa trẻ là Golden retrtever Brownie, một con chó lông vàng. Nó không rời hai cậu bé một bước. Asia nhìn nó như bị bỏ bùa mê. Asia, người yêu tất cả động vật, từ nhện đến ngựa, cho rằng chó là người bạn duy nhất mà nó có thể mua cho mình. Còn Brownie thì là con chó mà nó có thể mua bằng "tất cả số tiền mà nó đang có và cả số tiền mà nó sẽ có". Đã gần hết ngày làm việc. Họ để những thùng súp-lơ lên rơ-moóc của cái xe tải cũ chevrolet và chuẩn bị về nhà. Bé Theodore xin bố mẹ cho nó đi phía trước họ bằng cái xe đạp trẻ con. Mặt đất khô nứt nẻ và bị phủ một lớp bụi nâu sáng. Khi xe chạy, bụi bốc lên quanh bánh xe và không thề nhìn thấy gì cách xa hơn một mét. Rồi con Brownie xuất hiện. Dáng vẻ rất lạ lùng. Nó sủa to dữ dội và cố cắn vào lốp trước của chiếc chevrolet. Nó đột ngột lao vào dưới bánh phải xe ôtô. Chevrolet lăn qua nó rồi dừng lại. Bụi rơi xuống. Cách ôtô chưa đầy hai mét về phía trước, Theodore nằm dưới một cái ổ gà sâu, bị chiếc xe đạp đè lên và đang khóc một cách tuyệt vọng: Chỉ cần hai giây nữa là chiếc Chevrolet sẽ đè lên nó. Asia ngồi ở đằng trước giữa các thùng súp-lơ nên nhìn rõ tất cả. Nó nhảy xuống, bò vào gầm chiếc chevrolet và kéo Brownie ra. Brownie đã chết. Theodore đứng dậy và đạp xe tiếp như không hề có chuyện gì xảy ra. Asia quỳ bên Brownie, vuốt ve mõm nó. Run lên với ý nghĩ điều gì sẽ xảy ra nếu không phải là Brownie. Trong sự im lặng bao trùm, ai cũng phải nghĩ về điều đó. Cả bố của Theodore cũng thế. Chính ông đã lái chiếc chevrolet. Nếu không có con chó, thì ông đã đè nát chính đứa con của mình. Cô nhìn ông ta. Mặt tái nhợt như bức tường, những ngón tay run lẩy bẩy đang cố rút điếu thuốc từ trong bao ra. Vợ ông, ngồi ở ghế bên cạnh, lúc nào cũng để tay lên mặt và lẩm bẩm điều gì không rõ. Rồi bố của Theodore xuống xe. Đi đến chỗ Brownie, nâng nó lên khỏi mặt đất, hôn lên gáy nó, bế nó sát vào người và đi qua cánh đồng về nhà. Không ai giữ ông lại. Thậm chí lúc này, trong xe khách đi Paris sau ngần ấy năm, khi nhớ lại sự kiện ấy cô vẫn băn khoăn, không biết lúc đó Asia có cảm nhận một nỗi xấu hổ. Xấu hổ phải làm người. Cô đã có cảm nhận như vậy. Sự anh hùng của loài vật và sự tàn bạo của con người đã gặp nhau trên cánh đồng ở Nimes gần như là trực diện. Từ chỗ mà Brownie lao vào dưới bánh xe chevrolet, có thể nhìn thấy rất rõ những dãy nhà nuôi bò sữa. Có lần cô nói với Jakub về đề tài này trên ICQ. Thoạt đầu, tất nhiên là mọi cái anh đều đưa về gien học như thường lệ. Bản đồ gien của chó khác bản đồ gien người ở mức độ rất nhỏ các nhà thống kê học có thể nói là rất cẩu thả. Đơn giản là có một nhóm động vật có vú hai chân được gọi là người trong quá trình tiến hóa đã may mắn gặp được nhiều đột biến đến hơn một chút. Ở Darwin cũng vậy, trên cái cây nổi tiếng của ông, thì nhánh cây mà loài chó ngồi trên đó thấp hơn rất nhiều so với cái nhánh mà con người đã hạ trại với sự ngạo mạn đến thế. Từ cái nhánh cao nhất của mình, họ nhìn xuống với sự khinh rẻ tất cả mọi thứ ở dưới kia. Họ quá đỗi-tự hào về bản thân. Bởi, chính họ chứ không phải là một loài cao cấp nào khác đã tiến hóa xa một cách kỳ lạ như vậy, rằng họ là loại duy nhất biết nói. Khi đó ở Nimes - và giờ đây cũng vậy - cô chỉ dám chắc duy nhất một điều: nếu như hành tinh chọn một kịch bản tiến hóa khác, ví dụ như cho tất cả các loài cùng một số lượng đột biến gien và nếu như loài chó cũng biết nói, thì chúng sẽ không bao giờ thèm hạ mình đến mức đi chuyện trò với con người. Trong câu chuyện về người và chó ấy, tất nhiên là cô đã kể cho Jakub nghe chuyện về Brownie. Cô đã cảm thấy thất vọng đến đau đớn khi anh không hề chia sẻ với cô cả sự ngạc nhiên, cả nỗi xúc động đã tích tụ trong cô từ bấy đến nay. Anh cho rằng cái điều mà Brownie đã làm, không phải vì tình yêu hay sự gắn bó với cậu bé Theodore, mà là vì "cảm giác về nhiệm vụ", thêm vào đó không hề có chút gì liên quan tới cảm giác về trách nhiệm có khả năng biết trước tương lai của con người. "Cảm giác về nhiệm vụ của Brownie" là có điều kiện, cũng giống như "cảm giác về nhiệm vụ có điều kiện của những nhân viên quá sợ hãi sếp, sẵn sàng làm tất cả chỉ cốt sao để không bị sa thải. Browrnie, do kết quả của huấn luyện, nó sợ bị phạt vì không trông coi Theodore, còn là một con chó không có kinh nghiệm phán đoán, nó không thể biết điều gì sẽ xảy ra khi chiếc xe tải đè qua nó. Do đó mà khi tất cả những cái khác không được như ý, đơn giản là nó lao vào gầm xe. Cô nhớ là khi đọc cách giải thích rất logic được lôi ra từ cảm xúc ấy của anh, cô đã cảm thấy như thể sự kiện với con Brownie trong mắt cô được lấy từ những câu chuyện cổ tích. Cô nghĩ rằng cứ cho là anh có lý, thì anh vẫn không nên đưa ra những lý lẽ đó. Đúng là một nhà khoa học! Anh có thể biết gì về Brownie ngoài việc nó có bộ gien giống như tất cả những con chó khác? Cái ánh mắt của Brownie khi nhìn Theodore thì không một chương trình sắp xếp chuỗi gien nào có thể đưa ra được. Không bao giờ. Mấy tuần sau, hoàn toàn tình cờ họ quay lại sự kiện ở Nimes. Jakub có khả năng dẫn dắt câu chuyện của họ trên ICQ đến nỗi đề tài Chúa rất hay xuất hiện trong những câu chuyện đó. Cô không tin vào Chúa; mối liên hệ của cô với Nhà thờ chấm dứt ngay sau lễ đặt tên mà bố mẹ cô bày ra chỉ cốt để được yên với hàng xóm. Ở giai đoạn đầu của mối quen biết của họ, thì việc Jakub với cách tiếp cận thế giới hết sức khoa học và tuyệt đối lý trí, rất hay viện dẫn Chúa, đã phần nào khiến cô bị tổn thương. Trong trường hợp một người, giống như Jakub, nghi ngờ hầu như tất cả các tiên đề và những sự thật đã được biết đến rộng rãi, thì sự hấp dẫn về một cái gì đó được dựa vững chắc vào đức tin và vào bản ngã của mình trên chủ nghĩa lý tưởng phi lý, sẽ giống như một nghịch lý. Sau đó, chăm chú đọc những gì anh viết về tôn giáo, về thần học và về đức tin của mình, cô bắt đầu giảm thiểu cái nghịch lý kia. Và nó hoàn toàn biến mất vào một ngày nào đó, khi cô đọc bức email anh gửi: Cho dù anh có biết đại loại điều gì đã xảy ra trong vòng vài chục giây sau sự Khởi Đầu Vĩ Đại và biết rằng cái vũ trụ chết này được khởi thủy từ plasma của các hạt quác và gluon như thế nào, thì anh vẫn cứ không thể tin vào ấn tượng rằng toàn bộ cải dự án này có thể được hình thành trong trí tuệ vô biên của một Nhà Xây Dựng nào đó. Anh cũng chưa bao giờ được nghe về bất kỳ một cuộc hội thảo nào mà tại đó người ta thuyết trình về sự tồn tại hoặc không tồn tại của Chúa. Những cuộc hội thảo như vậy thì ngay cả Stalin cũng không tổ chức, mà ông ta thì không ngần ngại gì mà không sửa đổi cả cái ngành di truyền học - chắc hẳn em đã nghe về nhà di truyền học dòng dõi triều thần của Stalin, một người hói - để các nhà mác-xít không thể di chúc vũ khí được thừa hưởng từ các bậc tiền bối quí tộc lại cho Chúa. Tuyệt đối không có bất cứ một lý do nào, ngoài những lý do về tâm lý, có thể khiến anh mất lòng tin vào Chúa chỉ vì có những hố đen và lý thuyết chuỗi quá thông minh. Tư tưởng của Đấng Tạo hóa càng lôi cuốn hơn khi bạn đi từ những hạt quác đến cuộc sống. Cái thực tế là trên cái mảng vật chất là Trái Đất này đã xuất hiện sự sống, đã chứng minh rằng những sự kiện tưởng như không thể xảy ra vẫn xảy ra. Còn khó xảy ra hơn nữa, từ góc nhìn của mô hình xác suất, sự tồn tại của con người, mà cho dù không tính đến trí tuệ thì chỉ riêng cơ thể đã là một hệ thống phức tạp đến mức sự tồn tại của Nhà Lập Trình Vĩ Đại đã tự nó xuất hiện. Một số người cho rằng Chúa đã khởi động chương trình và vai trò của Người chấm dứt ở đó. Chương trình tự chạy, không cần đến sự tham gia cũng như can thiệp của Chúa. Các nhà thần học nghĩ vậy. Đôi khi, nhìn những cái xấu ở xung quanh mình, anh nghĩ rằng họ có lý. Nhân nói về cơ thể. Hôm nay hãy nói cho anh biết điều gì đó về cơ thể em đi. Em có thể bỏ qua lá lách và ruột thừa. Hãy tập trung vào ngực và sau đó chuyển qua miệng. Đừng nói gì với anh về bụng dưới của em. Anh chưa chuẩn bị cho điếu đó... Jakub còn là thế nữa đấy! Anh có thể từ những hạt quác, gluon và tư tưởng của Nhà Lập Trình chuyển qua tình ái thông thường không một chút dao động. Đã vậy lại còn tự nhiên đến mức cô không thể nổi cáu một cách thuyết phục được. Cô còn nhớ rằng khi đó thì đó không phải là "sự khiêu khích của một kẻ vô thần đang tranh đấu". Cô hỏi thuần túy vì tò mò. Có một hôm, cô đã nhớ lại cái cảnh giết bò tàn bạo ở Nimes. Chuyện này bao giờ cũng khiến cô phẫn nộ. Cô đã kể với anh rất chi tiết. Những kỷ niệm lại khiến cô giận sôi lên. Và cô bị rơi vào trạng thái thích châm biếm cay độc. Cô đã viết cho anh: CÔ: Như thế là thế nào nhỉ, Nhà thờ cơ đốc giáo, bởi không chỉ thiên chúa giáo, lại chấp nhận việc giết hại động vật? Chẳng lẽ những đau đớn của chúng không có ý nghĩa gì đối với Chúa? Chẳng phải chính Người đã tự mình tạo ra tất cả các loại vật đấy sao. Ngoài ra, loài vật không buộc phải chịu khổ vì tội tổ tông, bởi chúng đâu có phạm phải. Không phải cụ ky của chúng hái quả từ cây kiến thức để có được kiến thức và biết đến một chút sung sướng. Không có bất cứ một con ngựa đực và bất cứ một con ngựa cái nào cần phải lùa khỏi thiên đàng. Loài vật không liên quan tới, điều này thì em biết tốt hơn anh, bất cứ một trách nhiệm tập thể nào - đây là điều đẩy tôn giáo ra xa anh nhất, cái trách nhiệm tập thể vô nghĩa ấy - đối với hành vi của một người đàn bà tội lỗi, người đã dụ dỗ ông chồng yếu đuối ăn táo, để ông này ngay lập tức đi than phiền với Chúa. Loài vật không phải chuộc lỗi. Đây là em nói thêm. Jakub, anh có thể dẫu chỉ một lần thôi khen cái sự' nghiên cứu thần học của em. Em dám chắc rằng, mặc dù không thắp trứng trong Lễ Phục sinh, nhưng em vẫn biết về sự phục sinh của Chrystus nhiều hơn rất nhiều những cô cậu hát ở giáo đường trong nhà thờ nơi em ở Anh có khen không nào? Mà cũng có thể là sự đau đớn của loài vật tuy nhiên vẫn có ý nghĩa? Có thể chỉ vì Chúa mải bận bịu với việc nghĩ ra những hình thức đau đớn cho những con người tội lỗi, nên đơn giản là Người không có thời gian để xóa bỏ sự đau đớn cho những con vật vô tội và để việc đó lại sau? Anh đừng có viết cho em rằng đó là logic của thế giới. Đó không phải là sự thật, điều này thì ngay cả cô hàng xóm mới học hết tiểu học của em, một tín đồ thực thụ và ngoan đạo cũng biết, và chính vì vậy mà cô ấy đã ghi tên vào Hội Bảo vệ Động vật. Em hỏi là vì mới đây em có xem trên vô tuyến một phóng sự về một lò mổ gia súc ở miền nam Ba Lan. Camera đã lấy cảnh rộng và rất chi tiết về những con bò bị treo ngược chân và bị cắt cổ, máu chảy xuống những cái xô. Rất dễ nhận ra một cây thánh giá được treo trên tường phía bên trên cửa vào phòng lạnh. Em đã hơi ngạc nhiên vì cây thánh giá ấy. Nhưng rồi em tự giải thích cho mình rằng đó hẳn phải là một lò mổ tôn giáo. Theo như em biết về Nhà thờ, thì chắc chắn họ phải có cách giải thích khôn khéo nào đấy đối với những con vật kia. Jakub, nếu anh biết những lời giải thích ấy, thì giải thích cho em nhé. Em xin đấy. ANH: Không, họ không có. Câu giải thích cực kỳ vụng về và chẳng thuyết phục được mấy người. Nếu em đã kịp bình tĩnh lại sau cuộc tấn công của lòng kiêu hãnh và chiến thắng ấy, rằng "em nghĩ đúng như vậy", và hứa với anh là sẽ cố gắng đọc mà không phải hạ cố, thì anh sẽ viết tất cả những gì anh biết về đề tài này. CÔ: Em không có cảm nhận chiến thắng. Với em, những con vật quan trọng hơn nhiều so với lợi thế tức thời của chủ nghĩa vô thần vô tâm trước đạo cơ đốc giáo nhân từ. Do đó mà em không khó khăn gì khi phải hứa với anh như anh muốn. Vậy thì những người cơ đốc giáo giải thích như thế nào về việc Chúa cho phép được làm những con vật phải đau đớn? ANH : Rất khác nhau và rắc rối, tùy thuộc vào mức độ của đức tín. Một số người cho rằng cảm nhận, tức là cả đau và đau khổ đều diễn ra trong tâm hồn. Bởi vì theo họ, loài vật không có tâm hỗn, nên không thể đau khổ. Đây là một lý thuyết rất khó tin, nên Nhà thờ thậm chí không muốn nhắc tới nó. Song một số các nhà gien học lại nghiêng về quan điểm này. Việc mổ những con chuột sống với mục đích khoa học, trong khuôn khổ của lý thuyết này đương nhiên là được thanh minh. Có một cách giải thích khác logíc hơn hẳn. Đau đớn là đau đớn thông qua thực tại diễn ra của nó. Thậm chí nếu Brownie có cảm nhận, thì theo lý thuyết này, cũng không có ý thức. Mà chỉ nhờ có ý thức, mới có thể biết trước được trong một thời điểm nào đó khi đang đau đớn, rằng hình như chỉ một lát nữa thôi, sẽ phải đau đớn. Sự đau đớn diễn ra một cách vô thức sẽ khiến cho con vật ít đau đớn hơn rất nhiều. Nhà triết học người Anh có tên Lewis đã suy ngẫm vế điều này. Ông chưa bao giờ nói cho bất cứ ai biết ông đã có được những thông tin ấy bằng cách nào, nhất là từ tiểu sử của ông ấy có thể thấy rằng ông không cưỡi ngựa, thậm chí cũng không có cả chó. Lewis cũng không biết đến tận cùng, tại sao loài vật nói chung phải đau đớn mặc dù chúng không hề phạm tội. Vậy là ông đổ mọi cái cho quỉ sứ, là cái đồ hình như đã kích động loài vật cắn xé lẫn nhau. Nói tóm lại, tất cả là tại quỉ sứ Chứ Chúa đâu có muốn điều đó. Một người Anh khác tên là Geach quả thật đã biến Chúa thành một Nhà Xây dựng Vĩ đại vô lương tâm. Bởi ông ta cho rằng, Chúa, khi sắp đặt toàn bộ thế giới sẽ phải trải qua quá trình tiến hóa này, đã không nghĩ tới chuyện giảm thiểu sự đau đớn cho con người, cho loài vật lại càng không. Không một ai đánh giá Geach là nghiêm túc, bởi làm sao ở đây có thể đống nhất hình ảnh một ông bố vô cùng tốt bụng chia sẻ sự đau đớn với tất cả những gì mình tạo ra, với hình ảnh Chúa do Geach đưa ra như một người phụ trách tuyệt đối dự án mang tên "Tiến hóa". Cho nên tốt hơn nên dừng lại với quỉ sứ của Lewis. CÔ: Hai người Anh cho là như vậy, lần đầu tiên em được nghe về họ. Còn anh, anh nghĩ thế nào về chuyện này? ANH: Anh không yên tâm về chuyện này. Anh không giải thích được điều đó. Mỗi sự đau đớn không phải là một hình thức chuộc lỗi nào đó, không phải là hình phạt vì sự phạm tội nào đó, đều khiến người thiên chúa giáo phải hoang mang. Còn Brownie... Brownie là bằng chứng về sự đúng đắn của những lo lắng của anh. Anh xúc động đến ngạt thở khi đọc những gì em viết về Brownie. Cô bỗng cảm thấy có ai đó chạm khẽ vào vai mình. Asia. Nó cười nói: - Tỉnh lại đi. Cậu nói mơ đấy. Cái lão ngồi ghế sau thậm chí đã phải nghiêng người để nghe xem cậu nói gì. Chắc là cô đã thiếp đi. Gần đây cô hay bị như thế. Cô có thể đi từ những suy nghĩ vào giấc ngủ mà không phân biệt được ranh giới. - Mình đang ở đâu đây? - cô vua dụi mắt vừa hỏi. - Qua Berlin rồi - Asia trả lời, và đưa cho cô một cốc cà phê nóng rót từ phích ra. Alicja chắc đang lên kế hoạch cho tương lai với anh chàng trẻ tuổi đeo tai nghe. Hai người người ngồi cùng nhau từ Warszawa. Nó đã kịp ngả đầu lên vai anh ta. Một gã đẹp trai. Lại nói về bọn đàn ông. Jakub là ai thế? Ít nhất cậu cũng hai lần gọi tên anh ta trong mơ. ANH: Nghĩa trang Thành phố của Những người đã khuất St. Louis, bởi tên chính thức của nó là như vậy - mặc dù tất cả đều gọi đơn giản là Thành phố Chết - là một trong những ví dụ ảm đạm nhất về sự vô bổ kiểu Mỹ. Cho dù trong các cuốn hướng dẫn của New Orleans nó được giới thiệu như một trong những điểm độc đáo nhất của thành phố này, anh vẫn cho rằng nghĩa trang "đập nhịp đập của cuộc sống", như một nhà văn tầm tầm nào đó khi đến thăm đã viết về nó như vậy trong một cuốn sách hướng dẫn du lịch, chỉ có thể ở Mỹ một có. Nghĩa trang trông giống như một thành phố thu nhỏ. Những ngôi mộ, đúng hơn là những lăng mộ được xây cao trên mặt đất khiến người ta không thể không liên tưởng đến nhưng ngôi nhà thu nhỏ. Một số có mặt tiền với cửa ra vào, một số có một mảnh vườn nhỏ có hàng rào bao quanh và cổng, một số có vòi phun nước, một số khác thậm chí có cả hòm thư treo ở cửa vào nhà- mộ hoặc cạnh cổng. Trước phần lớn các lăng mộ đều có các cột cao, trên đó là những lá cờ Mỹ tung bay. Mặc đầu không chỉ có cờ Mỹ. Anh nhìn thấy, bên cạnh nhiều lá cờ Mỹ hoặc Canada là cờ Ý, cờ Ireland và cả cờ Ba Lan. Anh cũng ngạc nhiên quan sát thấy hầu như không có lăng mộ nào thắp nến hoặc đài lửa. Thay vào đó là là những đèn chiếu halogen, được bật tắt tùy theo thời gian trong ngày nhờ các tế bào quang điện và hướng ra mặt tiên của lăng mộ. Những gì anh nhìn thấy khi đi qua các lăng mộ đều không được nguyên bản cho lắm. Những người Ai Cập đã có ý tưởng này từ mấy nghìn năm trước đây và họ đã xây nên những Kim tự tháp, còn mãi gần đây người Mỹ mới làm nên Disneyland từ ý tưởng này. Đi chầm chậm dọc theo các hàng cây trong nghĩa trang, anh phân vân, không biết chốc nữa mình có nhìn thấy một tòa nhà đặc trưng cho McDonal hoặc những cột bán coca-cola tự động không. Qua nhà nguyện, anh đi chậm lại. Cách nhà nguyện chừng hơn chục mét, dưới bóng cây cam, giữa hai lăng mộ lớn có một tấm bia nhỏ bằng đá đen, một bình hoa nhỏ cũng bằng đá được gắn vào đấy. Trong bình có hơn chục bông hồng trắng. Trên tấm bia, phản chiếu trong ánh nắng mặt trời là dòng chữ mạ vàng: Juan ("Jim") Alvares-Vargas Ngoài họ của Jim, trên tấm bia đá không có thêm một thông tin nào khác. Không có gì hết. Tuyệt đối không có gì. Sự khiêm nhường của nấm mộ này giữa sự tráng lệ phô trương không thể không gây sự chú ý. Mặc dù tấm bia mộ rất bé, nhưng quanh nó là một đám cỏ tươi xanh, to một cách không cân đối, tạo thành hình chữ thập. Anh bước đến mộ Jim, quỳ xuống và trước tiên là chạm tay lên những cánh hoa hồng trong bình hoa. Sau đó anh đưa tay xuống bia mộ nóng rẫy lên vì nắng. Kể từ ngày bố mẹ anh mất, anh rất hay ra nghĩa trang. Anh không biết phải giải thích như thế nào, nhưng anh có cảm tưởng rằng chạm vào mộ, là anh có mối liên hệ với họ. Khi nói chuyện, mà anh rất hay làm thế, với bố hoặc mẹ, bao giờ anh cũng quỳ và chạm tay vào bia mộ của họ. Ở đây anh cũng làm y như thế. Jim. Cuối cùng thì anh cũng tìm được gã. Jim là một trong số không nhiều bạn thân của anh. Gã đã thay đổi anh, thay đổi thế giới của anh, dạy anh về tình bạn, cố dạy anh rằng quan trọng nhất là đừng giả vờ điều gì. Chưa bao giờ gã dạy anh điều này đến cùng. Cơ bản là vì anh tiếp nhận cuộc sống khác gã. Theo Jim, cuộc sống chỉ bao gồm những ngày chứa đựng trong mình những ấn tượng. Những ngày khác không được tính và chúng như thể thời gian bị mất đi trong phòng chờ của nha sĩ, mà ở đó ngay cả báo cũng không có, cho dù là báo từ hôm kia hôm kìa. Gã đi tìm ấn tượng ấy ở mọi nơi và bằng mọi giá: ở đàn bà, những người mà gã có thể đầu tiên là tôn thờ, sùng bái, còn sau đó thì bỏ rơi không một chút đắn đo khi cảm xúc qua đi, trong những cuốn sách mà ngã có thể bỏ ra những đồng xu cuối cùng để mua, thậm chí cả khi biết rằng sau đấy gã không còn đủ tiền để mua thuốc lá, trong rượu mà gã vẫn mượn để xua đi nỗi sợ và trong ma túy, là thứ biết "moi tiềm thức của gã ra ngoài". Tiềm thức là sở thích của gã. Gã biết về nó có lẽ còn nhiều hơn cả chính Freud. Mà hình như cũng như Freud, gã thử nghiệm với nó theo các kiểu. Có giai đoạn, gã dùng thuốc phiện để suy ngẫm. Có giai đoạn gã chủ tâm tự làm đau mình - trong cái đau vật lý, thật ngược đời, sóng xuất hiện trong điện não đồ giống như tại thời điểm đạt cực khoái – sát thương mình hoặc phủ những hình xăm lên khắp người. Gã đến với cái đau như là một loại ma tuý những khi không còn tiền cho bất cứ thứ gì, để hít, để uống hay để chích. Tuy nhiên gã "moi" tiềm thức của mình ra bên ngoài chủ yếu là nhờ vào các loại hợp chất hóa học. Khi đi xem các triển lãm trong các galery và muốn nhìn thấy nhiều hơn những người khác gã dùng những cái nấm bí ẩn và tạo ảo giác để "giải phóng trí năng của mình". Khi đọc các bài viết về "phân tích tâm lý và muốn nhất thiết phải tự mình phân tích mình" mà không cần đến một nhà tâm lý liệu pháp nào, gã dùng LSD. Khi "thâm nhập vào vũ trụ nội tâm, gã tự điều chỉnh và ngắt mình" bằng amphetamine. Khi không biết phải làm gì với những thất bại và buộc phải thoát khỏi trạng thái trầm cảm, để cảm thấy "vẫn cần buộc mình phải thở", gã dùng cocain. Gã hay có nhu-cầu về hợp chất này hơn cả. Đến một lúc nào đó, mặc dầu luôn chống lại điều này, gã đã hoàn toàn bị lệ thuộc vào những "hợp chất" đó của mình. Chủ yếu là về tâm lý. Có một lần họ nói chuyện về vũ trụ học, Jim rất thích thú với tất cả những gì liên quan tới câu hỏi run rẩy, khởi đầu, đó là cái gì. Gã có thể tranh luận hàng giờ về các hố đen, về lý thuyết chuỗi, về sự co giãn của vũ trụ về sự nở ra của thời gian và về những cuốn sách của Hawking mà theo gã là một nhà văn đáng sùng bái. Chính thế. Là nhà văn. Như Faulkner, Camus và Miller, chứ không phải là nhà khoa học và vật lý như Einstein hay Planck. Hơn nữa - theo Jim - bên cạnh "sự thông minh và hiểu biết không thể đong đếm được" thì sự khập khiễng và méo mó của mình là chiến thắng to lớn nhất của Harvard trước Hollywood". - Ông nghe này - gã nói - một số người không biết viết cho ra hồn hướng dẫn sử dụng máy hút bụi mà không dùng đến "bộ chuyển đổi quá áp thứ cấp", còn lão này biết mô tả vũ trụ hình thành như thế nào mà không cần đến một phương trình toán học nào. Đôi khi tôi phân vân, nếu Hawking không "ở môn hóa", liệu có viết những chuyện cười về vũ trụ sơ sinh? Còn nếu có, thì tôi rất muốn biết ở những cấu trúc nào. Tự gã có thể nghĩ ra lý thuyết của mình rồi thay đổi chúng sau vài chai bia. Một lần, trong câu chuyện, họ đã tiến tới "điểm riêng biệt" trong không gian - thời gian, mà về nguyên tắc thì không chỉ theo Hawking, nó cho phép loại trừ sự cần thiết của điểm khởi đầu của vũ trụ - đơn giản là không nhất thiết phải có điểm khởi đầu để có điểm giữa, bởi cuối cùng rất khó để thiết lập bất cứ cái gì - hắn hăm hở giải thích cho anh một cách hình ảnh bản chất của điểm này mà không sa vào bất cứ sự rối rắm toán học nào. Rồi hắn bảo: - Ông đừng có giải thích cho tôi chuyện này, tôi cảm thấy rất rõ ông muốn gì. Thỉnh thoảng tôi biết cách bắn vào "điểm riêng biệt" như vậy. Ông ở điểm nối giữa quá khứ và tương lai. Một chân ở quá khứ, một chân ở tương lai. Ông cùng lúc ở trong mấy không gian hoặc ở trong một không gian có nhiều hơn tám hoặc mười tám chiều. Ông không có cảm giác rằng giữa quá khứ và tương lai là một hiện tại nào đó. Hiện tại là thừa. Ông có thể đứng vững trên chân trái trong quá khứ cũng như trên chân phải trong tương lai. Đơn giản là ông ngó nghiêng khắp vũ trụ. Cái thước kẻ của ông trên bàn làm việc được chia ra thành năm ánh sáng chứ không phải thành centimét. Toàn bộ vũ trụ này, nhưng phải mãi ở cuối của "thời điểm xuất phát" và cũng không phải luôn luôn như vậy, tràn ngập âm nhạc của Morrison do dàn nhạc giao hưởng trình tấu và ông cảm thấy như mình nhìn thấy từng nếp nhăn trong não của Hawking. Tôi thường có những điểm riêng biệt như vậy chủ yếu là sau khi dùng cái gì đó thuộc loại dược thảo hay nấm. Không có bất cứ một thứ hóa học nặng nào. Sau đó hắn nói thêm, và cười thật thà như chỉ có hắn mới có thể: - Tôi chỉ không biết là Chúa cũng đi hái nấm, khi lang thang bên vũ trụ. Jim dùng ma túy để hối thúc ý thức và tiềm thức của mình và hắn làm vậy để luôn luôn "cảm thấy". Khi không thành công, hắn bị rơi vào thời kỳ của mình. Tránh xa người thân và khi không chịu đựng nổi sự cô đơn, hắn rơi vào cái hố đen trầm cảm ấy. Hắn có thể nằm ngày này sang ngày khác trên giương, không mở mắt, không nói gì và chỉ phản ứng với cái đau. Cho dù vậy thì hắn vẫn thích hoàn toàn vắng mặt hơn là đủ hiện hữu trong một phần và những gì còn lại đều là diễn. Do đó mà hắn mới lập dị đến vậy đối với những người biết hắn. Nếu ở gần họ, hắn là chính mình đối với họ. Hoặc là hoàn toàn không có hắn. Nhưng chỉ đối với một số người nhất định. Những người còn lại hắn không để ý. Một số ở đây là những người "tốt". Mà "tốt" nghĩa là thỉnh thoảng dám mạo hiểm dừng lại trong cuộc chạy đua của loài chuột và nhìn quanh. Hôm sau ngày anh chuyến đến chỗ Robin ngay khi từ New Orleans đến, buổi tối có người gõ cửa. Jim. Hắn hỏi giọng nôn nóng: - Anh nghe này, tôi tên là Jim ở phòng bên cạnh, bây giờ tôi rất cần đúng một đôla sáu mươi nhăm để mua bia trong Seven-Eleven. Anh có thể cho tôi vay trong hai ngày được không? Phải sau hai ngày nữa thì học bổng mới đến được tài khoản của anh, trong túi anh chỉ có khoảng hai đôla tiền bán vỏ lon coca và bia mà anh nhặt trong thùng rác trong bếp của Robin. Anh định lấy số tiền đó để sáng mai mua bánh mì cho bữa sáng và đi xe buýt đến trường tổng hợp. Anh nhớ là mình đã không hề đắn đo. Anh móc ví, đổ tất cả ra và đưa cho hắn. Mười lăm phút sau, Jim lại gỏ cửa và hỏi liệu anh có thể uống bia với hắn được không. Mối quen biết của họ đã bắt đầu như vậy. Chỉ sau một thời gian ngắn, thì không thể chỉ là người quen của Jim được. Bởi rất khó để chỉ là người quen của một người, mà ta biết chắc rằng người đó sẽ sẵn sàng cho đi một quả thận của chính mình nếu như điều đó là cần thiết. Tình bạn của họ không chỉ có một bắt đầu. Nó bắt đầu nhiều lần và không bao giờ kết thúc. Và mỗi lần mỗi khác. Tuy nhiên kể từ khi họ cứu sống Ania, thì đơn giản là Jim đã trở thành một đoạn trong tiểu sử của anh. Giống như ngày tháng năm sinh, trường học đầu tiên và tên bố mẹ. - Xin lỗi anh, anh có thể cho tôi biết được không, cái anh Alvarez-Vargas này có cái gì mà tất cả đều hành hương đến mộ của anh ấy thế? - anh chợt nghe thấy một giọng nói từ phía sau. Anh đứng phắt dậy, hơi xấu hổ vì bị người ta bắt gặp mình đang quỳ. Anh quay người lại và nhìn thấy một người đàn ông đứng tuổi ngồi sau tay lái một chiếc xe chạy điện giống như những cái xe chạy bằng ác-qui dùng cho các sân golf. Ông ta đội một chiếc mũ cao bồi bằng da, điện thoại di động đeo ở thắt lưng quần và máy nhắn tin nằm trong túi ngực của chiếc sơ-mi màu nâu. Da rám nắng và đeo kính râm. Trên tấm biển trước của xe nhìn rõ dòng chữ màu viết tên của nghĩa trang. Anh để ý thấy ngoài số điện thoại và số fax, còn có cả địa chỉ trang web của nghĩa trang. Bây giờ thì cả các nghĩa trang cũng online - anh nghĩ, có phần ngạc nhiên. Người đàn ông hẳn phải là nhân viên của nghĩa trang. - Đương nhiên là tôi có thể kể cho bác, nhưng bác phải xin nghỉ mấy ngày thì mới nghe hết được toàn bộ câu chuyện anh trả lời bằng một giọng mất bình tĩnh. - Tại sao bác lại quan tâm đến chuyện này? - Có nhiều lý do khác nhau. Xin lỗi, tôi chưa tự giới thiệu với anh. Tôi là người quản lý nghĩa trang này - ông ta nói và giới thiệu họ tên. - Với ngôi mộ này, mặc dù nó là bé nhất ở đây nhưng chúng tôi toàn gặp rắc rối. Từ dạo đầu. Trước tiên là đám tang phải hoãn ba lần vì FBI không muốn trả xác. Sau đấy thì hầu như không có ai đi đưa tang mặc dù tôi đã đặt mấy chiếc Limousine theo tiêu chuẩn. Và đã phải chịu một khoản chi phí đáng sợ vì chẳng có ai muốn trả tiền cho mấy cái xe ấy: Chỉ có hai bà nào đấy đến. Một bà nhìn như thể vừa mới đội một trong những ngôi mộ của tôi ở đây lên, chỉ có điều trang điểm nhẹ hơn là nhân viên của tôi vẫn trang điểm bình thường cho các tử thi. Hút liên lực. Thậm chí cả khi bà ta quỳ xuống để khấn. Bà kia thì nài nỉ để được đi theo quan tài cùng với con chó của mình. Đó là một con chó xù nhỏ và có cài nơ trên đầu. ông ơi, con người hỏng thật mất rồi. Ông ta hít vào nặng nhọc rồi kể: - Đám tang do một văn phòng luật nào đó đứng ra tổ chức. Tôi chưa bao giờ biết cặn kẽ ai đã chi trả cho tang lễ. Họ mua một mảnh đất như bình thường người ta mua cho một công trình nghiêm chỉnh với đủ vòi phun nước và nhiều extras. Tôi đã mừng vì tưởng là mình sẽ kiếm được dăm ba xu, ai ngờ ở đây họ chỉ yêu cầu đặt mỗi tấm bia đá cỡ cái danh thiếp và trồng cỏ xung quanh. Ông có tưởng tượng được không? Thưa ông, đây là một sự phung phí tài sản chung. Nếu ai cũng làm thế, mua đến cả A đất rồi trong cỏ thay vì đầu tư vào các công trình xây dựng, thì cái nghĩa trang này đến phải đóng cửa, bồi ở đây sẽ buồn như trong đám tang và những linh hồn sống chẳng có ai qua đây. Cái nghĩa trang này, thưa ông, là điều tốt nhất sau jazz có thể xảy ra cho cái thành phố này. Ông ta bỏ kính râm và lấy điện thoại cầm tay ra. - Tôi chưa đọc hết phần chữ viết nhỏ trong hợp đồng này. Thưa ông, đấy là lỗi của tôi. Đá lấy từ Ý hay từ Mexico thì có gì khác nhau? Tôi đặt đá Mexico, vì gần hơn. Sau hai tuần họ phái đến đây một tay chuyên gia nào đấy, thế là tôi phải thay tấm bia. Cả cái bình hoa nữa. Tốn kém khiếp quá. Nhưng đấy mới chỉ là bắt đầu. Lúc mới chôn cất, ông ta tên là McMamus. Ba tháng sau họ bắt tôi đổi tên thành Alvarez-Vargas, Thưa ông, ông đã nghe thấy đổi tên họ cho người chết sau đám tang bao giờ chưa??? Tôi không muốn đổi, nhưng hóa ra là họ đã viết điều này trong hợp đồng. Vẫn còn dấu vết của cái tên trước. Mài cũng chẳng ăn thua gì. Thế là tôi lại phải nhập đá từ Ý về. May mà cái bình hoa còn để lại được. Cái bình này, thưa ông, đắt không kém gì tấm bia này. Ông ta im lặng một lúc. - Tôi hút được chứ? - ông ta vừa lôi hộp thuốc bằng kim loại ra vừa hỏi. Ông ta quay lại xe và dùng một con dao xén giấy đặc biệt để cắt đầu dầy của điếu xì-gà. - Tôi hỏi, thưa ông, vì một số người không thích hút thuốc cạnh mộ của họ. Thậm chí xì-gà cũng làm phiền họ. Cứ như là làm thế cho những người chết này ấy. Hơn nữa, thưa ông, tôi không hút xì gà dưới 10 đôla một điếu. Thưa ông, đấy chưa phải đã hết đâu Sau đó còn có cả một bài về ngôi mộ này trong tờ The Times- Picayune nữa. Gia đình của khách hàng này, người nằm cạnh - đây, phía bên trái này - đã không để ý, hoặc là đã hoàn toàn bỏ qua vấn đề và đã đổ một cái nền bê tông phía dưới đèn pha, sâu vào bãi cỏ cạnh mộ của Alvarez ba mươi phân. Ba mươi phân! Thưa ông, ở đây thì làm được cái gì. Văn phòng luật đã đệ đơn lên tòa án ba ngày sau khi người bảo vệ của họ, là người cứ ba tuần một lần lại mang máy ảnh đến đây, báo cho biết về chuyện này. Họ bắt phạt đủ mọi thứ có thể. Kể cả việc luôn phiền gia đình khách hàng của họ. Khách hàng ở đây là Alvarez, người nằm đây. Thưa ông, anh ta làm gì có gia đình nào! Đã có lần họ nói tới một người chị nào đấy, những chưa ai nhìn thấy bà ta ở đây. Họ vừa mới thắng được vụ kiện đó, thì ngay sáng ngày hôm sau ở đây đã có một cái máy đào nhỏ. Của riêng họ. Họ không tin tôi. Họ tự bẩy cái tấm bê tông ấy lên và trồng cỏ vào đó. Những người thua kiện phải trả mọi chi phí. Như vậy là tốt cho họ, nếu thật thà mà nói. Tối đã nhìn thấy nhiều trong cái thành phố nhỏ này, nhưng đúng là họ biến cái ngôi mộ này thành một khu vui chơi. Anh nghe rất chăm chú rồi hỏi: - Ai yêu cầu bác mua những bông hồng này cắm vào bình? - Văn phòng. Tôi vẫn liên hệ với họ. Ngày nào cũng phải có mười một bông hồng trắng. Ông có hình dung ra ai đó đã phải mất một khoản lớn cho những bông hoa này? Từ hơn chục năm nay, bao giờ cũng có hoa tươi trên công trình này. Đầu tiên tự tôi đến đây hàng ngày. Rẻ hơn là để cho quầy hoa họ làm. Nhưng sau đó bà vợ tôi bắt đầu làm khó cho tôi vì thứ bẩy, chủ nhật, thậm chí cả vào ngày Lễ Tạ ơn tôi cũng phải đi mua và cắm những bông hồng theo lời nguyền ấy. Ngay từ đầu bà vợ tôi đã bảo là chắc có một phụ nữ nào đứng đằng sau chuyện này. Kể từ khi tôi kể cho bà ấy nghe về những bông hồng này và về ngôi mộ này, thì bà ấy bao giờ cũng đến đây. Trước đây thỉnh thoảng vào ngày lễ, khi bà ấy đưa xe đến đón tôi ở nghĩa trang, thì cũng chỉ đến nhà nguyện, còn bây giờ thì lần nào cũng đến tận ngôi mộ này để xem. Thưa ông, tôi hết sức ngạc nhiên vì tất cả những chuyện này - ông ta hạ giọng và nhìn quanh như thể để chắc chắn là không có ai nghe thấy - vì đây là, thưa ông, một người nghiện. Một người nghiện bình thường. Tôi biết được từ thằng cháu. Nó làm ở phòng tự sát của FBI. Khi người ta tìm thấy anh ta trong dịp Mardi Gras – ông biết không, là cái tuần điên rồ ở chỗ chúng tôi trước ngày thứ ba béo, khi cả thế giới đổ về New Orleans - một cái sọt rác, thì cả người anh ta bị đâm thủng lỗ chỗ bằng dao găm như thể một miếng phó mát Thuỵ Sĩ và bị mất bàn tay phải, nhưng chưa hết đâu, anh ta còn bị ai đó, chắc là vô tình, dùng con dao găm ấy mổ bụng anh ta lấy ra những bao cao su chứa đầy cocain. Chắc anh ta đã nuốt chúng trước khi chết. Phải có đến cả ký lô trong dạ dày của anh ta. Anh ta… chết trong một cơn phê khủng khiếp. Thằng cháu tôi bảo là trong thời gian điều tra, họ phải nghe một phụ nữ nào đó. Hình như là một công tố viên quan trọng nào đó ở Luiziana. Nó khẳng định là chính bà ta yêu cầu văn phòng luật về tất cả những chuyện này. Chỉ một lần, một lần duy nhất tôi nhìn thấy một phụ nữ ở đây. Tôi quan sát bà ta rất kỹ, vì bà ta ứng xử rất lạ. Bà ta đứng ngoài đường và không đi đến chỗ ngôi mộ. Nhìn tấm bia mộ của Alvarez. Bà ta đứng cả tiếng và nhìn ngôi mộ. Nhưng chỉ có một lần duy nhất ấy. Khoảng chừng một năm sau khi tôi thay họ tên cho anh ta. Còn ông, xin lỗi, ông là như thế nào với anh ta, nếu như có thể hỏi? Lúc ấy ông ta nghiêng người, quỳ xuống, chạm tay lên môi mình rồi thả bàn tay xuống mộ Jim. Anh đứng, nhìn vào mắt người thợ đào huyệt và trả lời: - Tôi à? Chẳng là ai đặc biệt. Chúng tôi cùng hít với nhau. Vậy thôi. Anh quay người và đi ra cổng nghĩa trang. CÔ : Đúng giữa trưa thì ôtô dừng lại trước cánh cửa kính lùa của khách sạn Relais Bosquet, chắn toàn bộ con đường hẹp một chiều Champ de Mars. Mặc những tiếng còi tức tối của cánh lái xe đang bị ách lại sau xe khách càng lúc càng đông, anh tài xế vẫn tắt máy, mở khoang đựng hành lý, yêu cầu mọi người chuyển thật nhanh hành lý sang sảnh, còn anh ta thì nhanh chóng lẩn vào khách sạn. Kéo cái vali nặng của mình, cô đã kịp toát mồ hôi. Ngày hôm ấy Paris nóng 36 oC và không khí đứng im phăng phắc. Cậu thanh niên tập sự ở văn phòng du lịch đã có lý, cái khách sạn này quả thật nằm ở tâm điểm của Paris - cô nghĩ khi đi vào khu vực sảnh có máy lạnh. Cô biết điều này vì anh tài phải vòng vèo mấy lần quanh khu vực này mới tìm thấy khách sạn. Quảng trường sao Hỏa với tháp Eiffel có thể nhìn thấy bằng mắt thường, đến ga tàu điện ngầm Ecole Militaire mất chưa đầy năm phút đi bộ. Lúc ấy cô thậm chí không có ý định đến gần lễ tân. Cứ để cho cái đám đông kia tản về các phòng trước đã. Cô tìm được một cái sôpha da đối diện với cửa ra vào. Cô ngồi thoải mái, chân gác lên cái vali mà cô để ở trước sô pha. Alicja ngồi bên cạnh. Asia đứng xếp hàng chỗ lễ tân cùng với mọi người. - Cậu nghe này. Anh ấy thật tuyệt vời. Anh ấy đến đây để học. Không có vợ, kể cả người yêu cũng không. Dọc đường anh ấy đọc thơ bằng tiếng Pháp cho mình nghe. Ngoài ra anh ấy còn rất ân cần. Cậu nhìn kìa, anh ấy xếp hàng cho mình đấy. Mình hoàn toàn không đám chắc là mình có ngủ lại ở khách sạn này không. Anh ấy mời mình đi ăn tối. Hứa là sẽ đọc cho mình nhiều thơ nữa. Vậy tối nay các cậu đừng có tính đến minh nhé. Cái câu cuối cùng ấy Alicja nói với đôi chút tự hào. Từ lúc ấy hiển nhiên là Alicja lại béo ra. Và hoàn toàn không phải vì bữa tối ấy. Độ hơn chục phút sau, khi ở quầy lễ tân không còn ai, cô mới cầm cái túi đựng giấy tờ của mình, đứng dậy khỏi cái sôpha dễ chịu và đi về phía người trực lễ tân trẻ. - Tôi có đăng ký một phòng đơn phía trên vườn - cô bắt đầu nói bằng tiếng Anh. Người trực lễ tân ngẩng đầu khỏi cuốn sổ khai báo. - Vâng, tôi có biết. Chính tôi đã dành phòng này cho chị theo yêu cầu của một ai đó ở Warszawa - anh ta cười và nói bằng tiếng Ba Lan, không có một tí trọng âm nào. Ngạc nhiên, cô nhìn anh ta kỹ hơn. Anh ta có cặp mắt nâu, to, tóc sẫm được túm lại bằng dây chun. Ở phía sau. Anh ta còn có bàn tay đẹp khác thường, dài, mà mảnh mai và được chăm chút cẩn thận. Cô hay chú ý đến bàn tay đàn ông. Ở đàn ông, cái đầu tiên cô chú ý là bàn tay, sau đó đến giầy của họ, còn sau đấy mới là toàn bộ những cái còn lại. Cô để ý đến bàn tay ấy khi anh ta ghi lại các thông tin từ hộ chiếu của cô. Viết xong, anh ta quay người lại cái tủ treo chìa khóa phía sau lưng và lấy từ hốc với số phòng của cô chìa khóa và chiếc bì thư màu ôliu-lá cây. Anh ta đưa cho cô và nói: - Đã có email gửi cho chị. Cô đỏ mặt, cố giấu niềm vui và sự hưng phấn. - Nếu chị có gì muốn gửi qua Internet, thì cứ để nội dung ở lễ tân. Bạn gái tôi hoặc là tôi sẽ sẵn sàng gửi cho chị. Đây là dịch vụ miễn phí. Địa chỉ e-mail của chúng tôi chị sẽ tìm thấy trong tờ rơi hướng dẫn ở trên phòng. Và cứ như là đoán được ý nghĩ của cô, anh ta đứng dậy, đi ra chỗ sơ đồ Paris treo trên tường cạnh bảng thông báo, đeo kính, quay vào tấm bản đồ nói: - Nếu chị quan tâm, thì gần đây có hai quán cà phê Internet. Một quán mở cửa suốt ngày đêm, cách khách sạn chừng một trăm mét, cạnh hiệu thuốc, ngay cạnh lối rẽ vào phố của chúng ta. Quán này đắt lắm. Chị phải tính đến việc trả khoảng bảy đôla một giờ vào ban ngày và năm vào ban đêm. Quán thứ hai ở bên trong ga tàu điện ngầm Ecole Militaire, chỉ rẻ bằng một nửa nhưng chỉ mở cửa vào ban ngày và ở đấy chỉ có mấy cái máy tính, lại toàn là loại macintosh của hãng Apple. Nghe anh ta nói, cô phân vân, không biết từ đâu mà anh ta biết được cô đang định hỏi chính về việc này. Cô cất vội cái phong bì màu ôliu vào ví xách tay, cám ơn và đi ra phía thang máy. Khi cửa thang máy chỉ vừa đóng lại và chắc là người trực lễ tân không thể nhìn thấy mình nữa, cô lôi ngay cái phong bì ra và hối hả xé. E-mail của anh, tất nhiên rồi! New Orleans, ngày 14 tháng bảy. Ngày hôm nay anh không thể nhớ lại một cách chính xác quãng thời gian khi chưa có em. Em có một tác động huyền bí đối với anh, vậy thì em hãy tác động đến anh một cách tốt nhất mà em có thể. Kể từ lúc bỗng nhiên - thông qua Paris - điều này trở thành có thể, anh khát khao được gặp em một cách tuyệt vọng. Lúc này anh không thể chống chọi được với tâm trạng này. Với sự chờ đợi này. Và với sự căng thẳng này. Nhất là với những cơn cảm xúc này. Liệu có thể có những cơn cảm xúc không nhỉ? Hẳn anh đã đem lại cho trạng thái này vẻ đẹp khi gọi nó theo cách như vậy. Anh cần phải thi sĩ hơn. Nhưng nếu vậy anh sẽ không thật là mình nữa. Đó thực sự là những cơn cảm xúc giống như những cơn hen hay cơn rung tâm nhĩ. Những khi bị lên cơn anh thường nghe nhạc, uống hoặc đọc e-mail của em. Và đã dẫn đến là anh làm tất cả cùng lúc: nghe Van Morrison mà em rất thích, uống bia Mexico Desperado với chanh và thêm một chút tequili và đọc một "mega" e-mail của em. Anh nối tất cả những bức thư của 6 tháng gần nhất lại và đọc như một bức thư khổng lồ. Em có biết là trong vòng 180 ngày ấy em đã viết cho anh trên 200 lần?! Có nghĩa là bình quân mỗi ngày hơn một e-mail. Trong đó em đã sử dụng đúng 116 lần từ "hôn" - mặc dù thậm chí anh còn chưa biết miệng em thực sự trông như thế nào. Anh rất mừng vì không phải thêm một lần nữa bắt em phải tả lại nó. Chẳng mấy nữa anh sẽ được nhìn thấy. Em đã 32 lần dùng từ "chạm" và 81 lần từ "khao khát", nhưng chỉ có 8 lần "em sợ". Anh đã đùng chương trình Word để thống kê nên việc nhầm lẫn hoàn toàn bị loại trừ. Anh đếm đúng những từ mà gần đây anh hay nghĩ tới nhất. Và rút ra kết luận là em khao khát nhiều hơn sợ hãi 10 lần. Mặc dù đó chỉ là thống kê, nhưng anh cảm thấy yên tâm. Thống kê không lừa dối. Chỉ có những người làm thống kê mới lừa dối. LIỆU EM CÓ BIẾT ĐIỀU GÌ SẼ ĐỀN VỚI CHÚNG MÌNH KHÔNG??? Hẳn vì cái vụ Paris này mà anh có những ý nghĩ như vậy và đã đưa ra câu hỏi bi đát đến thế. Anh có nhu cầu bức thiết phải định nghĩa được mối quan hệ này. Gọi tên nó, cho nó một số khung và giới hạn. Đột nhiên anh muốn biết, từ đâu mà nỗi buồn của anh có ý nghĩa và niềm vui của anh có lý do. Anh cũng muốn biết, trong hy vọng của mình, anh được phép đi đến đâu. Trong trí tưởng tượng thì đằng nào anh cũng đã ở tất cả những chỗ đó, thậm chí cả những điểm riêng tư nhất. Tuy nhiên, giờ đây anh sẽ khống đến thăm bất cứ một địa điểm nào trong thực tại nữa. Anh đi ngủ đây. Rất mừng vì chỉ vài giấc ngủ nữa thôi, em sẽ lại ở gần. Thậm chí cả trong thực tại em cũng đã gần hơn rồi. Xin chào Paris! Anh muốn bay đến chỗ em quá. Hãy chú ý giữ mình nhé. Đặc biệt là lúc này. Jakub. Chúa ơi, anh ấy viết gì thế, bởi chính cái sự thống kê ấy đã lừa dối! - cô nghĩ. - Sao mình sợ thế không biết. Nhưng cơ bản là vì mình quá khát khao anh. Đúng lúc ấy cửa thang máy mở. Cô vẫn cứ đứng đấy với cái phong bì màu ôliu trong tay và xiết nó vào ngực. Người trực lễ tân bước vào thang máy, cười với cô khi nhìn thấy cảnh có một khách cửa khách sạn cũng vào thang máy và hỏi cô lên tầng mấy, cô đã không biết chắc tầng mà mình phải lên, cô đã phải xem chìa khóa để chắc chắn. Cô cảm thấy sự ấm áp là lạ nơi bụng dưới. Cô ra khỏi thang máy đối diện với phòng 1214. Đưa tấm thẻ từ của chìa khóa vào khe cửa ổ khóa và mở cửa. Lấy chân đẩy chiếc vali qua bậu cửa. Ngoài luồng ánh sáng hẹp lọt qua khe hở của tấm rèm che cửa sổ rơi xuống chiếc giường lớn chiếm phần trung tâm của căn phòng, còn thì trong phòng tối om. Cô đến bên cửa sổ, kéo tấm rèm nhung nặng ra. Cái ấm không tản đi. Nó mạnh hơn lên. Cô mở cửa sổ. Căn phòng, như họ đã hứa với cô ngay ở Warszawa, đúng là ở trên một khu vườn. Khu vườn được ngăn cách với sân đá của khách sạn bới một hàng rào cây cao đến trên hai mét, giống như một đốm xanh mà một họa sĩ lơ đênh nào đó đã vô ý tạo nên bằng cây cọ của mình trên nền cát. Cô nhìn khu vườn, liếm môi. Phía bên trái, được ngăn cách với phần bên phải bằng một hàng cây nhô ra một cách cầu kỳ, là những mảng dâu tây, những vạt hoa hồng dọc chân tường và những bồn tròn. Phần lớn là màu hồng. Cô rất thích hoa hồng có màu hồng. Giữa bồn hoa và hàng cây là những đám đỗ, khoai tây và một dàn cà chua rạp xuống đất dưới sức nặng của quả. Những đám đỗ giữa trung tâm Paris! Phía bên phải là bãi cỏ. Khu vườn nhắc cô nhớ về cái vườn của bà cô ở Bug. Chỉ khác là khu vườn này ở trung tâm Paris, chỉ cách tháp Eiffeil có mấy trăm mét. Cô nhấc tung chân lên để cởi giầy. Nhẹ hẳn người. Cô mở phéc-mơ tuya váy, cởi cúc và để nó từ từ rơi xuống sàn nhà. Cô rời một bước khỏi cửa sổ và thả người xuống chiếc giường phủ tấm ga hoa nặng. Căn phòng thơm mùi violet và mát lạnh nhờ có điều hòa không khí đang chạy rì rì khe khẽ. Cô nằm trên giường, nhắm mắt, trong luồng ánh sáng từ cửa sổ trông nó như một sân khấu nhỏ giữa phòng. Bàn tay cô áp bức thư của anh vào ngực. Cô để nó sang bên một lúc. Cô ngồi dậy, cởi chiếc áo len chui đầu mà cô mặc đi đường ra. Rồi chậm rãi cởi cái cài nịt vú, dùng hai tay đẩy nó xuống dưới bụng. Sau đó cô chuyển nó sang tay trái, tay phải luồn vào quần lót và hơi nhấc chân lên, kéo nó xuống dưới đùi. Cô nhấc chân lên cao và kéo quần lót ra, sau đấy cô để nó cùng với nịt vú lên trên bức thư màu ôliu... Một lát sau cô đã thở rất mạnh và gấp gáp.Chú thích: (1) autostop: là một cách đứng ngoài đường, giơ tay xin đi quá giang xe của người khác từng chặn đường,