Dịch giả: Nguyễn Trung Đức
Nhân vật và thông điệp

Thành công của Gacxia Macket trong việc tạo ra một không gian và thời gian nghệ thuật như trên đã mở ra một khả năng to lớn trong việc xây dựng các nhân vật có cá tính. Chúng ta dễ dàng nhận ra những nhân vật trong Trăm năm cô đơn là những nhân vật siêu mẫu, tức là những con người phi thường, dị hợm và quái dị. Nhờ tính chất siêu mẫu nầy, các nhân vật trong Trăm năm cô đơn đã gây hào hứng cho độc giả để rồi mãi mãi đọng lại trong tâm trí bạn đọc. Quả vậy, trong Trăm năm cô đơn có khoảng sáu mươi nhân vật, kẻ cả chính lẫn phụ. Nhân vật nào cũng có cá tính rất sông động trước mắt chúng ta. Thành công này có được là nhờ Gacxia Macket đã vận dụng và nâng cao thủ pháp xây dựng nhân vật của truyện kể dân gian: chỉ chấm phá đôi nét còn nhường chỗ cho trí tưởng tượng của người đọc người nghe. Tuỳ từng nhân vật cụ thể, ông thấy cần nhấn mạnh nét cá tính nào thì ông tập trung miêu tả những biểu hiện của cá tính ấy. Cần phải làm nổi bật tư chất thị dân của Piêtrô Crêspi thì ông miêu tả và chỉ miêu tả cái bàn tay có nước da mai mái xanh của anh ta. Cần làm nổi bật trái tim yêu rạo rực của Pila Tecnêra, Gacxia Macket luôn nhấn mạnh đến cái mùi khen khét phả ra từ nách ả, đến cái tiếng cười khanh khách của ông như tiếng gù cù cù rục của con bồ câu. Cần làm nổi bật tư chất rầu rĩ của đại tá Aurêlianô Buênđya ông nhấn mạnh tiếng khóc từ trong bụng mẹ của đại tá. Cần làm nổi bật tư chất trác táng, đam mê rượu chè và hội hè của Aurêlianô Sêgunđô ông nhắc đi nhắc lại nhiều lần cái câu nói đầy khẩu khí của anh ta: "Hỡi những con bò cái hãy dạng háng ra kẻo cuộc đời ngắn ngủi lắm" v.v… và v.v…
Như vậy chúng ta thấy mỗi nhân vật được khu biệt hoá với các nhân vật khác bởi chỉ một hoặc vài ba điểm. Trong nhiều trường hợp, những đặc điểm này được phóng đại đến mức quái dị như những chiếc mặt nạ. Và do đó nhân vật trở thành siêu mẫu gây ấn tượng sâu sắc trong người đọc. Chúng ta không thể quên được Babilônia, anh thợ cơ khí của Công ty chuối với đàn bướm vàng, không thể quên được Rêmêđiôt Người đẹp với luồng khí độc có hiệu quả trong việc làm chết những kẻ đam mê cô do không biết cách chứng tỏ tình yêu của mình không thể quên được Menkyađêt với chiếc mũ cánh quạ không thể quên được Pêtra Côtêt mà tình dục của cô ta có ảnh hưởng quyết định đến tính mắn đẻ của gia súc không thể quên được Rêbêca, cô gái nặng hoài nhờ ăn đất, v.v… và v.v… Nhờ thủ pháp này Gacxia Macket giúp chúng ta phân biệt những nhân vật cùng tên trong gia đình Buênđya vốn có thói quen lấy tên cha mẹ đặt cho con(2). Chúng ta dễ dàng nhớ và phân biệt Hôsê Accađiô Buênđya, người sáng lập ra làng Macônđô với Hôsê Accađiô kẻ đi dòng quanh thế giới, với Accađiô Hôsê tên bạo ngược, với Hôsê Accađiô Sêgunđô kẻ trầm tư lánh đời và Hôsê Accađiô kẻ đi tu không đắc đạo. Chúng ta nhớ và phân biệt ngài đại tá Aurêlianô Buênđya, người phát động ba mươi hai cuộc chiến, với Aurêlianô Sêgunđô kẻ trác táng, với Aurêlianô Babilônia người thông minh chịu học đã đọc được văn bản tiếng Phạn do Menkyađêt viết trên những tấm da thuộc và với Aurêlianô kẻ bị kiến tha. Dĩ nhiên ngoài những đặc điểm bên ngoài làm nổi bật tính cách nhân vật, những Hôsê Accađiô và những Aurêlianô còn được định vị bởi chức vụ nghề nghiệp và thế hệ. Nhưng nếu chúng không được đặc điểm hoá bằng những cá tính khác thường và dị thường, chúng ta sẽ dễ dàng nhầm lẫn bởi chúng giống nhau. Khi còn bé bao giờ họ cũng ngoan ngoãn, đôi khi nhút nhát, hay nghịch ngợm.
Ðiển hình cho sự giống nhau này là trường hợp hai cậu bé sinh đôi Nhưng càng lớn họ càng khác nhau. Những Aurêlianô có trí thông minh tuyệt vời nhưng lại mắc chứng trầm tư, ủ dột và chán đời. Trong khi đó những Hôsê Accađiô bao giờ cũng khoẻ mạnh, táo gan và sống chan hoà. Hai tuyên nhân vật này có lúc hoán vị tư chất cho nhau. Ðó là trường hợp hai anh em sinh đôi: Hôsê Accađiô và Aurêlianô Sêgunđô. Những đặc tính giống nhau này là yếu tố di truyền của ông tổ Hôsê Accađiô Buênđya. Ở ông tổ này, chúng ta thấy vừa có sức mạnh cơ bắp vừa có sức mạnh trí tuệ vừa manh động táo bạo, bốc đồng vừa có ý chí mạnh mẽ và kiên quyết. nhưng đức tính ấy được di truyền lại cho đám cháu con theo hai nhánh: những Hôsê Accađiô và những Aurêlianô. Cái ông tổ này còn di truyền lại cho đám cháu con cả nỗi cô đơn hoài nhớ do lương tri bị dằn vặt trước cái chết của Anxiô Agliđa.
Tuy là những người khoẻ mạnh, thông minh, có ý chí và nghị lực phi thường, nhưng những Hôsê và những Aurêlianô bao giờ cũng thất bại, cũng phải sống trong cảnh cô đơn.
Chính sự giống nhau này đã gây cho Ucsula Igoaran luôn luôn có cảm giác thời gian quay tròn vì bà lão cứ nhận thấy các thế hệ sau giống hệt thế hệ trước. Khi về già, bà lão luôn luôn nhầm lẫn Hôsê Accađiô Sêgunđô và Aurêlianô Babilô mà với ngài đại tá Aurêlianô Buênđya, con trai bà. Pila Tecnêra cũng nêu ra những nét tương đồng giữa các thế hệ trong dòng họ Buênđya. Hiển nhiên, chúng ta thấy rằng cái sự lặp lại ấy có được là do thời gian của người kẻ chuyện thứ hai chuyển động theo một đường tròn khép kín. Cái vòng tròn lớn nhất là cái vòng tròn dòng họ Buênđya chạy trốn tội loạn luân - đi lập làng mới - phạm tội loạn luân và bị tuyệt diệt. Trong cái dòng tròn lớn này có các vòng tròn nhỏ, những mảnh vụn của thời gian, trong đó bảy thế hệ dòng họ Buênđya tồn tại. Mỗi vòng tròn là một cuộc đời nhân vật.
Tiêu biểu cho những vòng tròn ấy là vòng tròn - cuộc đời của đại tá Aurêlianô Buênđya khi còn trẻ sản xuất những con cá vàng đi chiến trận về già lại sản xuất những con cá vàng, là vòng tròn - cuộc đời của hai anh em sinh đôi Aurêlianô Sêgunđô và Hôsê Accađiô Sêgunđô: lúc thiếu thời giống nhau như hình với bóng lớn lên, một người béo phì, sôi nổi dấn thân vào cuộc đời thế tục, người kia gầy cao, trầm tư và lánh đời - đến khi chết lại giống nhau như đúc. Những vòng tròn nhỏ này, những mảnh vụn thời gian này, đánh dấu những cố gắng của các thế hệ trong dòng họ Buênđya muốn thoát khỏi cái cô đơn. Nhưng những cố gắng ấy thảy đều vô ích, thảy đều thất bại. Nguyên nhân tự đâu?
Trước hết chúng ta thấy trong Trăm năm cô đơn những nhân vật trong dòng họ Buênđya ngày càng tách mình khỏi cộng đồng xã hội và trong quá trình hiện hữu, họ ngày một trở thành những người sống trái tính trái nết. Và cái thói sống trái tính trái nết này đến lượt nó lại đào sâu thêm cái hố ngăn cách họ với cộng đồng xã hội. Bản thân hành động bỏ làng cũ đi lập làng mới (Macônđô) của Hôsê Accađiô Buênđya là bước đầu tiên dòng họ này tự tách mình khỏi cộng đồng xã hội, khỏi lịch sử và truyền thông văn hoá. Rồi ở làng Macônđô, vì thèm khát những tiến bộ khoa học ở bên ngoài, Hôsê Accađiô Buênđya say sưa và bồng bột lao vào những tìm kiếm khoa học. ông tự giam mình trong phòng thí nghiệm, và công việc tìm kiêm những phát kiến đã ngày càng đưa ông tới bờ vực của sự thất bại. Ông trở thành một kẻ điên dại và bị trói vào gốc cây dẻ. Đến người chắt Hôsê Accađiô Sêgunđô, cái chân lý duy nhất mà anh ta muốn chứng minh cho mọi người biết: vụ thảm sát rùng rợn những người lao động ở sân ga thành phố là có thật, đã không thể nào đến với quần chúng. Nguyên nhân của thất bại trên là do anh ta quá hoảng sợ nên chạy trốn vào phòng Menkyađêt, tự giam mình trong đó, không chịu tiếp xúc, không chịu đối thoại với bất kì ai ngoại trừ người anh em sinh đôi và thằng cháu họ.
Tự tách mình khỏi cộng đồng xã hội, sống cuộc sống dị thường còn là nguy cơ dẫn cá nhân đến cuộc sống độc đoán chuyên quyền. Khi cá nhân đã có quyền hành trong tay sẽ trở thành tên độc tài, tên bạo chúa khát máu hơn cả bạo chúa thời Trung cổ. Từ khi nhỏ đến khi đi trận, bị bắt làm tù binh, bị án tử hình, Aurêlianô Buênđya là một nhân vật đáng yêu, thậm chí rất đáng yêu. Ấy là lúc anh ta còn gắn với đời thường, còn biết xuất phát từ thực tiễn mà hành động và suy nghĩ. Anh ta là một chàng thanh niên vừa thông minh, vừa dũng cảm.
Nhưng khi trở thành một tổng tư lệnh các lực lượng vũ trang vùng duyên hải, anh ta đã tự tách cá nhân mình khỏi đồng đội khỏi cộng đồng xã hội thậm chí còn đối lập với đồng đội, với xã hội bằng chính đội quân cấm vệ đông đúc, và cái vòng phấn trắng mà anh ta ngồi ở chính giữa để ban phát các mệnh lệnh và lề luật, để chơi trò chơi chiến tranh. Anh ta chiến đấu không vì một lý tưởng nào, ngay cả đảng Tự do của mình. Anh ta chiến đấu cho bản thân mình, cho niềm kiêu hãnh của cá nhân mình. Với phương châm xử thế. "Người bạn tốt nhất là người bạn vừa chết", anh ta sẵn sàng cho tay chân hoặc nhân danh cách mạng giết những người bạn tốt của mình một khi người bạn ấy đe dọa vị trí của anh ta ví dụ việc giết thủ lĩnh những người da đỏ Têôphilô Vacgat. Bất kể tình bạn keo sơn với đại tá Hêrinênđô Mackêt, anh ta sẵn sàng kết tội tử hình người bạn mình. Anh ta không bạn. Anh ta cô đơn và càng cô đơn hơn nữa khi mà những người bạn cùng chiến hào tư tưởng những người thuộc đảng Tự do, quay lưng lại với anh ta, không chịu ra thông cáo bác bỏ những luận điệu của phái Bảo hoàng vu anh ta là một tên cướp: Rồi cũng vì niềm kiêu hãnh của cá nhân mình, vì danh tiếng của con người mình anh ta kí hiệp định đình chiến Neclanđia mà thực chất của nó là sự đầu hàng, là cú mua bán cuối cùng nhằm đem lại vinh quang cho bản thân anh ta và chính cái vinh quang này, tức là cái huân chương công huân mà Tổng thống nước Cộng hoà tặng, anh ta cũng phải đổi bằng biết bao sinh mạng của những chiến sĩ tự do, những con người cách mạng không tuân theo mệnh lệnh của anh ta, vẫn tiếp tục chiến đấu. Chính cái nỗi nhục của một kẻ đầu hàng quay lại đi bắn giết những người cùng chí hướng với mình đã buộc anh ta phải từ chối tấm huân chương công huân. Anh ta trở về đoàn tụ với gia đình, sống trong tình thương bao la của Ucsula Igoaran. Anh ta lại sản xuất những con cá vàng không nhằm mục đích kiếm lời mà nhằm mục đích được yên thân, đời sống không cần phải bận tâm, phải suy nghĩ.
Nghĩa là bằng cách sống này anh ta vẫn sống cho bản thân anh ta. Anh ta không yêu ai ngoài bản thân mình. Ðó chính là bi kịch của đại tá Aurêlianô Buênđya…
Người duy nhất hiểu được tư chất cá nhân ích kỷ của đại tá Aurêlianô Buênđya là cụ Ucsula Igoaran, người mẹ của đại tá.
Với trí minh mẫn của cụ già sống ngoài trăm tuổi, Ucsula Igoaran đã nhận ra cái tiếng khóc của đại tá ngay từ lúc còn trong bụng mẹ không phải là dấu hiệu của người có tài nói giọng bụng hay có tài tiên tri mà chỉ đơn thuần là dấu hiệu không thể nhầm lẫn được của sự bất lực trước tình yêu. Nó là dấu hiệu của cái cô đơn.
Cũng nhờ sống lâu, nhờ trí minh mẫn, cụ điểm duyệt lại những cháu con của mình và cụ thấy ra tất cả bọn họ, người nhiều người ít đều sống ích kỷ, đều sống trái thói trái nết, đều không thể hoà đồng với gia đình, với làng xóm, với xã hội. Cụ cũng nhận ra cái lối sống ích kỷ, cái lối sống trái thói trái nết ấy cũng đáng kinh tởm như cái đuôi con lợn từng ám ảnh suốt cả cuộc đời cụ. Và cái đuôi lợn của người cuối cùng dòng họ Buênđya là sự vật chất hoá, là sự bản thể hoá của tác giả về thói sống ích kỷ của loại người đã đánh mất bản chất người - tổng hoà các mối quan hệ xã hội, của loại người thú vật. Bà cụ nhận thấy những người trong dòng họ không thiếu sức mạnh cơ bắp và trí tuệ, không thiếu lòng dũng cảm và ý chí kiên cường. Cái thiếu duy nhất của những Hôsê Accađiô và Aurêlianô là tình yêu, là trái tim yêu thương sôi nổi và mãnh liệt của Rêbêca, người không hề bú dòng sữa của cụ. Tình yêu là cái cần cho dòng họ mình. Bởi chỉ có tình yêu thực sự và chân thành mới là động lực chính khiến cá nhân hoà đồng với gia đình, với làng xóm và cộng đồng xã hội. Tình yêu mới là cái cần thiết để thoát ra khỏi hoàn cảnh cô đơn. Chúng ta nhận ra tư tưởng triết mỹ này vào những lúc các nhân vật sắp đi sang cõi khác đã suy nghĩ về cuộc đời của mình. Chỉ khi đứng trước họng súng đội hành hình, Accađiô Hôsê mới thấy yêu thật sự Rêbêca, Rêmêđiôt (vợ đại tá Aurêlianô). Chỉ đến khi chết, Amaranta, cô gái già, mới thật sự cởi mở lòng mình, thật sự sống cho người khác bằng chính cái việc chuyển thư và lời nhắn của người sống cho các vong hồn dưới âm ty. Chúng ta thấy rõ tư tưởng triết mỹ ấy ở linh động yêu cuồng say của Amaranta Ucsula và Aurêlianô Babilônia và nguyện vọng sinh ra một Aurêlianô chiến thắng cả ba mươi hai cuộc chiến, nghĩa là họ mong muốn bằng tình yêu sẽ cải tạo nòi giống mình. Nhưng cái tình yêu ấy diễn ra trong thế giới cô đơn đến cùng cực đã chỉ đẩy thêm dòng họ Buênđya mau đến ngày tuyệt diệt mà thôi. Chúng ta thấy tu tưởng triết mỹ ấy còn được bộc lộ ở nhân vật Rêmêđiôt - Người đẹp. Biết bao chàng trai si mê Rêmêđiôt - Người đẹp và đã chết oan vì nàng. Kẻ chết gục ngoài chấn song cửa sổ. Kẻ lao đầu từ mái nhà xuống chết tươi. Kẻ bị ngựa đá giập ngực mà chết. có kẻ vì quá si mê nàng mà hoá rồ. Có phải vì Rêmêđiôt đẹp mang theo mình mùi của tử thần như người ta vẫn đồn đại không không hẳn là như vậy. Bởi vì cái mà trái tim những người đàn ông cảm thấy mỗi bận nàng đi qua chính là tình yêu chân thành và da diết do nàng khêu gợi và đánh thức trong trái tim họ. Nhưng những người đàn ông này không biết chọn chiếc chìa khoá tốt nhất để mở khoá tâm hồn nàng. Họ chỉ biết tỏ tình hoặc vụng dại ngây ngô như cái cách của viên sĩ quan, hoặc thô bạo như cái cách của anh chàng xem trộm nàng tắm, hoặc đểu cáng như cái cách của kẻ bị ngựa đá giập ngực, hoặc quá ư kiểu cách như cái cách của chàng công tử từ xa tới. Qua những cách tỏ tình này chúng ta thấy dù ít dù nhiều những trang nam nhi kia đều coi sắc đẹp của Rêmêđiôt - ngườì đẹp là một thứ cần phải hưởng thụ ngay trên thế gian này. Nhưng vì Người đẹp không thuộc cõi tục này. Vì thế nàng tỏ ra ngây thơ, hơn thế nữa, ngây ngô, nàng dửng dưng với mọi thứ trên đời, nàng tỏ ra là người không biết yêu, là người thấy cuộc sống thế tục này không phù hợp với chính mình. Vì vậy, có thể nói cái chìa khoá tốt nhất để mở cửa tâm hồn nàng là tình yêu. "Có lẽ chỉ cần một thứ tình cảm nguyên thuỷ và giản dị như tình yêu là đủ để không chỉ chinh phục nàng mà còn tránh được mọi nguy hiểm.
Từ đó chúng ta thấy thông điệp của Trăm năm cô đơn là lời kêu gọi mọi người hãy sống đúng bản chất người - tổng hòa các mối quan hệ xã hội của mình, hãy vượt qua mọi định kiến, thành kiến cá nhân, hãy lấp bằng mọi hố ngăn cách cá nhân để cá nhân mình tự hòa đồng với gia đình, với cộng đồng xã hội. Vì lẽ đó Gacxia Maket tùng tuyên bố cuốn sách mà ông để cả đời sáng tác là cuốn sách về cái cô đơn và thông qua cái cô đơn ông kêu gọi mọi người đoàn kết, đoàn kết để đấu tranh, đoàn kết để chiến thắng tình trạng chậm phát triển của Mỹ Latinh, đoàn kết để "sáng tạo ra một thiên huyền thoại khác hẳn. Một huyền thoại mới, hấp dẫn của cuộc sống, nơi không ai bị kẻ khác định đoạt số phận mình ngay cả cái cách thức chết, nơi tình yêu có lối thoát và hạnh phúc là cái có khả năng thực sự, và nơi những dòng họ bị kết án Trăm năm cô đơn cuối cùng và mãi mãi sẽ có vận may lần thứ hai để tái sinh trên mặt đất này".
 
NGUYỄN TRUNG ÐỨC
 
 
Chú thích:
(1) Phát biểu của G. Gacxia Mackêt trong buổi trao giải thưởng Nôben được tổ chức tại Phòng Khánh tiết Viện Hàn lâm Thụy Ðiển.
(2) Dẫn the Manuên Manđônađô Đênix: Tính chất hung bạo của sự chậm phát triển và tính chất chậm phát triển của sự hung bạo, tạp chí Casa số ra tháng 9 năm 1976, trang 24.