Lời nói đầu

Sau cuộc đảo chánh ngày 1 tháng 11 năm 1963, Miền Nam Việt Nam rơi vào tình trạng hỗn loạn gần như vô luật pháp. Tình trạng phân hóa chia rẽ hiển hiện trong mọi tổ chức, mọi thành phần xã hội, nhất là tại miền Trung và đặc biệt giữa hai khối tôn giáo lớn Công Giáo và Phật Giáo.
Trong khi đó, nhiều cơ quan ngôn luận đua nhau phổ biến những tài liệu ngụy tạo kích động lòng hận thù, kỳ thị tôn giáo qua những luận điệu cố tình đồng hóa giáo hội Công Giáo Việt Nam với chế độ Đệ I Cộng Hòa, với đảng Cần Lao. Riêng ông Ngô Đình Cẩn thì được mô tả như “một lãnh chúa, ngu dốt, gian ác, tham tàn” v.v…
Tôi có cơ hội tiếp xúc với ông Cẩn ít lâu trước khi ông Ngô Đình Diệm về chấp chánh. Làm việc bên cạnh ông Cẩn từ ngày 1 tháng 1 năm 1956 đến ngày 4 tháng 11 năm 1963.
Tôi được biết về con người, về nhiều công việc ích quốc lợi dân ông Ngô Đình Cẩn đã làm, về truyền thống và nề nếp của gia đình ông; về tinh thần phục vụ và cống hiến cho đất nước và dân tộc của anh em ông.
Tôi cũng được chứng kiến, nghe biết về những biến chuyển, biến động tại miền Trung trong suốt thời Đệ I Cộng Hòa và cách đối xử, ứng phó của chính quyền.
Nhờ đó, tôi thấy được nhiều câu chuyện, nhiều bài viết, được phổ biến ở trong nước cũng như ngoài nước vào thời kỳ ấy không đúng Sự Thật, thậm chí gian xảo.
Đáng tiếc là, từ sau ngày Việt Nam Cộng Hòa bị khối Cộng sản quốc tế cưỡng chiếm, những Sự Thật đã bị xuyên tạc vẫn được một số tác giả người Việt Nam cũng như ngoại quốc, vì mục đích riêng tư, xử dụng trong tác phẩm của họ như những Thực Chứng, bất kể đến hậu quả tai hại đến tinh thần Đoàn Kết Quốc Gia, một yếu tố quyết định Sự Sống Còn của dân tộc.
Hành động xuyên tạc Sự Thật có chủ ý như vậy đối với lịch sử, và các thế hệ con cháu sau này là một Trọng Tội, và đối với những người không còn khả năng tự vệ là việc làm không lương thiện, ác độc và bất công.
Vì thế, theo lương tâm, tôi tự thấy có bổn phận phải đóng góp phần mình, mặc dầu nhỏ nhoi, vào công cuộc giải trừ những lừa dối đối với lịch sử, với các thế hệ mai sau, hóa giải những độc tố vẫn còn tiếp tục gậm nhấm, tàn phá tinh thần Đoàn Kết Quốc Gia của dân tộc.
Đó là mục đích của tập Hồi Ức này.
Vài điều cần giải thích:
- Sau môt vài sự kiện được kể lại, chúng tôi có trích dẫn một số tài liệu để làm sáng tỏ cho sự kiện được tường thuật, nhằm giúp cho quí độc giả nhất là quý vị cao niên, không có điều kiện khi muốn sưu tầm đối chiếu. Hoặc quý vị nào muốn được biết về các sự kiện ấy một cách đầy đủ hơn, có thể dễ dàng tìm đọc số tài liệu được trích dẫn.
- Phần trích dẫn, chúng tôi áp dụng phương pháp không đặt chú thích ở cuối trang hoặc cuối chương. Chúng tôi ghi nguồn gốc, xuất xứ tài liệu ngay sau đoạn văn được trích dẫn, để quý độc giả dễ dàng theo dõi và luồng suy nghĩ không bị ngắt đoạn lâu khi phải lật tìm những chú thích.
Trân trọng. 
California Mùa Thu 2003
NGUYỄN VĂN MINH

Truyện Dòng Họ NGÔ ĐÌNH, Ước Mơ Chưa Đạt Lời mở đầu Lời Giới Thiệu Lời Tựa Lời nói đầu Chương 1.1 Chương 1.2 Chương 2.1 Đã xem 179715 lần. --!!tach_noi_dung!!--


Chương 1.1
ÔNG NGÔ ĐÌNH CẨN

--!!tach_noi_dung!!--
MrNgoDinhCan
"...Tôi nhất định ở lại làm việc. Sống thì sống, chết thì chết. Không đi mô hết".
DUYÊN TRI NGỘ
Hạ bán năm 1950, một nguồn tin được lan truyền trong giới thanh niên Hà Nội: Tại miền Trung, Thủ Hiến Phan Văn Giáo đã tranh đấu dành được nhiều quyền độc lập rộng rãi. Trong cuộc sống thường ngày, người Pháp chỉ được hoạt động trong khu vực dành cho họ. Lính Tây muốn qua bên thành nhà Vua phải có giấy phép v.v…Hơn một trăm thanh niên, trong đó có tôi, theo sự hướng dẫn của ông Nguyễn Văn Tố, Giám Đốc võ đường Vovi-nam ở đường Hàng Bông, tình nguyện vào học trường võ bị của lực lượng võ trang do Thủ Hiến Giáo thành lập: Lực Lượng Việt Binh Đoàn tại Huế. Cuối năm 1951 ra trường, tất cả khóa học của chúng tôi được chuyển qua Quân Đội Quốc Gia (QĐQG) mới thành lập, và được phân phối cho cả ba quân khu (QK - miền Nam, QKII -miền Trung, QKIII - miền Bắc). Tôi được phân phối về QKII và thuyên chuyển về Tiểu đoàn 7, một trong hai Tiểu đoàn QĐQG đầu tiên tại miền Trung thời bấy giờ.
Sau mấy tháng đi hành quân lưu động, Tiểu đoàn 7 được điều ra đóng bảo vệ an ninh lãnh thổ hai quận Gio Linh và Vĩnh Linh, thuộc vùng cực Bắc tỉnh Quảng Trị. Trung Đội của tôi, Trung Đội 3 thuộc Đại Đội 3, đóng tại đồn Cửa Tùng (cửa sông Bến Hải) thuộc quận Vĩnh Linh. Thời buổi chiến chinh lính tránh trấn đồn mà được đóng ở chỗ này kể là thuộc loại số đỏ. Đồn đóng ngay tại khu nhà Thừa Lương (nhà nghỉ mát) của cựu Hoàng Bảo Đại, phía Đông là biển, phía Nam là sông, hai phía Tây và Bắc, năm đồn Hương bảo vệ quanh, nên vấn đề an ninh của đồn tương đối an toàn.
Tháng 5 năm 1953, tôi được giao nhiệm vụ chỉ huy Đại Đội thay thế Trung Úy Lê Hoàng Thao, một sĩ quan người Miền Nam được thuyên chuyển về nguyên quán. Bộ Chỉ Huy Đại Đội đóng trên đồi Tân Trại, các bờ biển Cửa Tùng chừng 4 cây số, cách quốc lộ số 1, đoạn Quảng Trị Đồng Hới cũng khoảng 4 cây số.
Vùng trách nhiệm của Đại Đội trải dọc hai bên bờ sông Bến Hải, từ bờ biển Cửa Tùng đến vùng thượng nguồn Mỹ Tá dưới chân dãy Trường Sơn. Quân số của Đại Đội trấn đóng bốn đồn: Cửa Tùng, Tân Trại, Xuân Hòa và Mỹ Tá. Mười một đồn Hương Vệ với quân số đồn ít nhất trên 20, đồn nhiều nhất trên 40, và hai pháo đài Phụ lực quân (partisan), mỗi pháo đài 6 người.
Một điều lạ đối với tôi, không hiểu tại sao lực lượng võ trang Việt Cộng trong khu vực này cứ theo đuổi đánh tôi hoài?
Khi tôi coi đồn Cửa Tùng, đã có lần họ tập trung lực lượng đông gấp 10 lần hơn, quyết san bằng đồn tôi. Nhưng nhờ được dân chúng mật báo cho biết trước, nên kế hoạch hành quân của họ đã bị hóa giải một cách nhẹ nhàng bằng mấy lọat trọng pháo của Tiểu Đoàn yểm trợ, bắn trúng vào điểm tập trung quân cuả họ.
Thời gian tôi chỉ huy Đại Đội, cuối tháng 12-1953, họ tung một cuộc tấn công thật ác liệt vào đồn Hương Vệ An Do Tây và đồn Hương Vệ Lưu động đóng sát cạnh, giữa đoạn đường từ đồi Tân Trại đến Cửa Tùng. Có lúc họ đã chiếm được một trong ba pháo đài của đồn lưu động.
Đến cuối tháng 1-1954, họ lại thực hiện một cuộc bao vây đồn Hương vệ Phan Xá, phía Tây cầu Bến Hải, buộc tôi phải đương đầu trong một tư thế hết sức nguy hiểm. Vì muốn giải vây cho đồn này tôi phải hành quân vượt sông.
Nhưng nhờ tinh thần quyết chiến của anh em binh sĩ trong Đại Đội và lòng can đảm phi thường của anh em Hương Vệ, các mưu tính của họ đều được giải tỏa với phần thua thiệt về phía họ.
Cuối tháng 3 năm 1954 tôi bị đau, được đưa vào điều trị ở Quân Y Viện Huế. Sau khi xuất viện, thời gian được nghỉ dưỡng bệnh, vợ chồng tôi đến ngụ ở phía sau nhà thờ Phú Cam, trong một căn phòng nhỏ, mướn của Đại Úy Nguyễn Văn Tú có biệt danh là Tú Kèn, vì ông này chỉ huy Ban Quân Nhạc Quân Khu II.
Chúng tôi mới ở đây được mươi ngày thì một buổi chiều, Đức Giám Mục Giáo phận Huế, tên Việt của Ngài là Thi, tên Pháp là Urrutia, đến thăm. Sau mấy phút hỏi thăm về tình trạng sức khoẻ của tôi, Đức Cha ban phép lành cho vợ tôi khi ấy đang mang thai cháu đầu lòng, rồi ngài kéo tay tôi nói: “ Đi với Cha”.
Đức Cha Thi biết tôi vì dịp ngài ra thăm mấy họ đạo vùng Cửa Tùng, đã đến nghỉ đêm ở đồn tôi mấy tối.
Từ nhà Đại Úy Tú đến tòa Giám Mục khoảng hơn 500 thước, hai cha con đi bộ, trên đường đi tôi hỏi ngài:
- Sao Đức Cha biết mà đến thăm con ở đây?
- Không những Cha biết con ở đây mà còn biết con mới ở bệnh viện ra nữa. Rồi Ngài hỏi tôi về tình hình vùngCửa Tùng, đặc biệt là từ khi xẩy ra hai trận đánh tại đồn An Do Tây và Phan Xá.
Đến Tòa Giám Mục, Đức Cha dẫn tôi qua thăm cố Cả, tên Pháp là Cadière, một linh mục thuộc dòng Thừa sai Paris và là một học giả, giới trí thức thời ấy không mấy ai không biết tiếng. Cố Cả bị Việt Minh bắt đi từ khi họ cướp chính quyền, tháng 8 năm 1945, mới được trả tự do vài tháng trươc đó.
Tôi từ biệt Đức Cha và cố Cả sau khoảng một giờ trình bày với các ngài về tình hình vùng Cửa Tùng. Đặc biệt về sinh hoạt của giáo xứ Di Loan, giáo xứ cố Cả coi sóc trước khi bị bắt, sinh quán cửa Đức Giám Mục Lê Hữu Từ.
Buổi sáng một ngày giữa tháng 4 – 1954, cô Công Tằng Tôn Nữ Tiếu Diện, em Linh Mục Bửu Đồng, hiện ở Đức, đến mời tôi qua gặp ngài.
Tôi được quen biết cha Bửu Đồng từ khi về coi Cửa Tùng và sau này trở nên rất thân thiết với ngài và gia đình. Cha Bửu Đồng coi giáo xứ Phan Xá, nơi có đồn Hương Vệ bị bao vây tôi mới kể ́a giáo dục theo đường hướng kết hợp hai nền văn hóa Đông–Tây của cụ Ngô Đình Khả, nhà Vua rất tâm đắc. Vì thế, khi vừa đủ tuổi (18 tuổi năm 1896) được tự quyết định việc triều chính, Vua đã triệu dụng và giao phó cho cụ trách nhiệm tổ chức và điều khiển một cơ sở Giáo Dục cấp Quốc Gia đúng theo đường lối, chủ trương của cụ. Cơ sở này được gọi là trường Quốc Học. Trong chức vụ Chưởng giáo (Hiệu trưởng), cụ Khả thuyết phục được chính quyền Bảo Hộ chấp thuận cho trường được giảng dạy cả hai nền văn hóa Đông và Tây, với ba ngôn ngữ: Quốc Văn, Pháp Văn và Hán Văn.
Sau hai năm cụ điều khiển trường Quốc Học, mến phục tài đức và lòng chung thủy, ngay thẳng của cụ và để dễ dàng tiếp xúc với cụ, Vua Thành Thái phong cụ lên chức Thượng Thư Phụ Đạo Đại Thần. Ít lâu sau cụ lại được giao phụ trách về lễ nghi và an ninh trong Triều, được phong chức Thị Vệ Đại Thần, và vào cuối trào (1902), nhà Vua lại ban tặng cụ tước vị Hiệp Tá Đại Học Sĩ.
Suốt gần 80 năm (1986-1975) tồn tại, trường Quốc Học Huế đã cung cấp cho đất nước rất nhiều nhân tài trong mọi lãnh vực. Nhà trường đã dựng bia để nhắc nhở cho hậu thế ghi nhớ công ơn của Cụ.
Trong khi Vua, Tôi, đang âm thầm thực hiện cuộc cách mạng ôn hòa họ chủ trương thì ý đồ của họ bị bại lộ. Vua Thành Thái bị chính quyền thực dân gán cho mắc chứng bệnh điên, ép triều đình ký sớ xin Vua thoái vị rồi đưa qua án trí tại đảo Réunion. Dưới áp lực của nhà đương cuộc Pháp, các vị Thượng Thư của Triều Đình đã ký sớ, chỉ một mình Thượng Thư Phụ Đạo Đại Thần Ngô Đình Khả nhất quyết khước từ không chịu ký.
Để tỏ lòng khâm phục và ngưỡng mộ một vị quan đã coi nhẹ danh lợi khi phải đối đầu với cường quyền hầu bảo toàn khí tiết và lòng chung thủy, dân chúng miền Trung truyền tụng nhau câu vè: “ Đầy Vua không Khả - Đào Mả không Bài” (Thượng Thư Nguyễn Hữu Bài). Sau này khi Thượng Thư Ngô Đình Diệm treo ấn từ quan, dân chúng đã thêm vào hai câu trên một câu thứ ba: “ Hại dân không Diệm”, và được truyền tụng cho đến ngày nay.
 Cụ Tôn Thất Thiết, hiện cư ngụ tại thành phố Irvine, Orange Country, California, Hoa Kỳ, được thân phụ, cụ Tôn Thất Hân, khi ấy là Phò Quan Quận Vương, Phụ Chánh Thân Thần (Chức vụ đầu Triều, phụ tá cho Vua trong công việc Triều Chánh) kể lại:
 Ngày Vua Thành Thái ra đi sống kiếp lưu đày, toàn thể triều đình văn võ đứng hai hàng trước sảnh đình điện Thái Hòa bái biệt Vua.
 Từ trong điện bước ra, Vua đến trước mặt cụ Tôn Thất Hân đứng đầu hàng Văn, từ biệt cụ, Vua nhắn nhủ: “ Trong họ chỉ còn mình thầy, xin thầy ráng phù giúp Tân Vương, giữ gìn xã tắc, bảo vệ thanh danh Hoàng Tộc.” Rồi vua đi thẳng tới trước mặt cụ Ngô Đình Khả, đứng cách cụ Tôn Thất Hân sáu, bảy cấp. Dừng lại giã biệt, nhà Vua nói: “ Tôi cảm ơn thầy, thầy có tâm huyết, thầy ráng bảo trọng để giúp nước.” Sau đó Vua đi thẳng không chào hỏi vị khách nào khác nữa.
Sau khi đày Vua Thành Thái đi rồi, Thượng Thư Ngô Đình Khả bị xét xử vì đã quyết liệt chống đối bản án đày Vua. Triều đình một lần nữa chịu sức ép của chính quyền thực dân, lột hết chức tước và quyền lợi của cụ rồi cho về hưu.
 Khi còn tại chức cụ có tiếng là một vị quan thanh liêm, cương trực, gia đình đã sống một cuộc sống không mấy dư giả, nên khi cụ phải về hưu dưới áp lực và âm mưu hãm hại của Thực Dân, bị theo dõi kìm kẹp, gia đình cụ lâm vào hoàn cảnh thực sự khó khăn. Cảm phục vị đồng liêu vì khí phách, can trường mà phải chịu hoạn nạn, trong một thời gian khá dài, Cụ Tôn Thất Hân đã ngầm giúp cụ Khả mỗi tháng 10 đồng để chi dùng.
Đến trào Vua Khải Định, nhà Vua được nghe nhiều vị thượng thư trong Triều tâu trình về đức độ, tài năng công lao của cụ Khả đối với Nam Triều. Có lẽ nhờ chủ trương thân Pháp, nhà Vua đã được chính quyền bảo hộ ngầm chấp thuận cho việc phục hồi lại phẩm trật cho cụ Khả và cho cụ truy lãnh đầy đủ lương bổng của 12 năm bị huyền chức. Từ đó gia đình cụ mới thoát khỏi cảnh thiếu thốn.
Chứng tích cụ thể về sự liêm khiết của cụ Khả chính là khu dinh thự của cụ. (Sơ đồ 1)
Khu tư dinh của Thượng Thư Ngô Đình Khả được xây cất trên một khu đất bề ngang khoảng 30 thước, chạy sâu vào khoảng 50 thước, tọa lạc trên đường Nguyễn Trường Tộ, con đường từ trước nhà thờ chính tòa Phú Cam chạy thẳng đến bờ hữu ngạn sông Hương. Cổng tư dinh được dựng trên bốn cột gỗ, mái lợp ngói, theo kiểu các dinh thự nhỏ ở Huế. Hai bên cổng là hàng rào bằng cây tươi chạy dọc theo đường. Người địa phương gọi cây này là cây “chè tàu”.
 Từ cổng đi vào là con đường đất rộng chừng hai thước, dài khoảng 10 thước, hai bên là hàng rào cây tươi cắt bằng. Bên trái là căn nhà lầu mỗi bên độ 9 thước, xây tường gạch, sườn nhà bằng gỗ, nền nhà lót gạch bông, gác bằng ván, mái lợp ngói. Phía trước nhà là một sân đất mỗi bề chừng 10 thước, kế đến là một cái hồ cạn mỗi cạnh khoảng 4 thước, giữa hồ có một hòn non bộ.
Ngôi nhà lầu này, bề ngang cũng như bề sâu đều chia làm ba gian. Bước vào nhà, gian giữa, tính theo bề ngang, hai căn ngoài để trống, căn trong cùng, trên đà treo một bức hoành phi, hai bên cột treo hai câu đối, bên trong là hương án thờ cụ Ngô Đình Khả, trên hương án là bức ảnh thờ cụ Khả cao chừng một thước. Gian bên trái, cả ba căn từ ngoài vào trong đều để trống. Gian bên phải, ở căn ngoài cùng, kê một bộ tràng kỷ cẩn xà cừ sơ sài; phía sau bộ tràng kỷ, ở căn thứ hai, một chiếc bàn dài kê dọc tường. Giữa hai căn thứ hai và thứ ba có vách ngăn bằng ván, chừa một cửa ra vào. Căn nhà này có một bên cửa hông đi ra sân bên cạnh và một cửa mở ra phía sau gặp cầu thang phía bên trái để lên lầu và qua ngôi nhà tranh phía bên phải. Trên lầu, hai gian bên phải và trái, tính theo bề ngang ngôi nhà, đều để trống. Gian giữa ở căn trong cùng có một bàn thờ Tổ Quốc, trên án thư có một bộ lư hương và một bộ chân đèn lớn bằng đồng. Sau án thư là một bản đồ nước Việt Nam cao khoảng hở trên. Ông thân sinh của ngài là cụ Ưng Trạo, thường được gọi là cụ Hường Trạo theo thẩm vị Hồng Lô Tự Khanh của Nam Triều. Cụ là cha đỡ đầu của ông ngô Đình Cẩn.
Đến gặp cha Đồng, ngài nói với tôi:
- Bữa qua tôi ghé vô thăm cậu Cẩn, ông hỏi có biết anh Thiếu Úy mô mướn nhà trên Đại Úy Tú mà Đức Cha mới tới thăm mấy bữa ni không? Tôi cho ông biết là anh, và cũng đã có một đôi lần tôi nói với ông về anh. Ông nhủ tôi bữa mô đưa anh xuống gặp ông, tôi hứa bữa ni. Chừ anh qua gặp ông với tôi được không?
Vì từ khi còn ngồi ghế ở nhà trường tôi đã được nghe đến danh tiếng gia đình họ Ngô, nên không một chút do dự, tôi thưa lại ngay với cha Bửu Đồng:
- Dạ thưa Cha được chứ, con có mắc gì đâu.
Tôi đi theo cha Bửu Đồng qua ngôi nhà xế trước mặt nhà ngài. Chúng tôi bước vào nhà gặp lúc ông Cẩn đang hớt tóc. Sau khi chào ông Cẩn, cha Bửu Đồng nói:
- Bữa qua Cậu nhủ tôi đưa Thiếu Úy Minh đến gặp Cậu, thì đây, ngài cầm tay tôi, Thiếu Úy Minh đây.
Ông chỉ vào bộ tràng kỷ, ông nói:
- Xin lỗi Cha, mời Cha và anh ngồi đợi cho tôi một lát.
Hớt tóc xong ông đến ngồi phía đối diện cha Đồng và tôi, ông hỏi:
- Anh Minh đây hỉ? Anh mấy tuổi rồi?
- Dạ thưa ông Cậu con 26 tuổi.
- Gia đình được mấy anh em?
- Dạ, con được bốn anh em ruột và hai đứa em con bà mẹ kế.
- Anh vô lính lâu mau rồi?
- Dạ con vô lính cuối năm 1950.
-Anh lập gia đình khi mô?
- Con lập gia đình tháng tư năm ngoái.
- Còn trẻ vậy mà lập gia đình chi sớm rứa?
- Dạ thưa ông Cậu, khi quyết định vô lính, là đã dứt khoát chọn con đường cho cuộc đời mình rồi, thì lập gia đình cho yên bề.
- Ờ, nói rứa chứ 26 tuổi lập gia đình cũng được rồi. Bây chừ đã có vợ, mai mốt có con, lại chỉ huy đơn vị chắc mắc việc lắm hỉ?
- Dạ chỉ huy đại đội cũng không có gì phức tạp lắm. Vả lại đóng đồn cũng không có việc gì nhiều, có điều cứ đêm đến là lại lo bị địch tấn công. Nhất là khu vực tránh nhiệm của con nhiều đồn bót quá. Đồn Hương Vệ thì quá thô sơ về bố phòng cũng như vũ khí. Đồn chính qui thì đồn nọ cách đồn kia quá xa.
- Vùng ngoài nớ lưng chừng giữa trời giữa đất, có Hương Vệ nhiều cũng đỡ. Nhưng Hương Vệ như của Cha Đồng đây, để cho nó đến bao vây rồi giải vây thì mệt quá hỉ?
Tất cả chúng tôi cùng cười. Ông Cẩn tiếp;
- Dù trách nhiệm nhỏ cũng có điều phải lo lắng. Những khi rảnh rỗi gắng học hành, đọc sách báo thêm, để mở mang kiến thức, sau ni lên chức phải gánh trách nhiệm lớn hơn, có khả năng mà mần.
- Dạ!
Câu chuyện giữa ông Cẩn, Cha Đồng và tôi kéo dài khoảng hơn một tiếng đồng hồ thì cha Đồng và tôi cáo từ ông. Khi chúng tôi ra đến sân, ông Cẩn dặn với;
- Khi mô rảnh anh Minh cứ vô chơi.
- Dạ! Cám ơn ông Cậu
- Về lại nhà Cha Bửu Đồng, ngài dặn tôi;
- Ông Cẩn khôn ngoan, anh ráng năng ghé thăm ông, sẽ học hỏi được nhiều điều hay đấy .
 
--!!tach_noi_dung!!--

Đánh máy : lethy44
Nguồn: thuvientoancau
Được bạn: NHDT đưa lên
vào ngày: 20 tháng 6 năm 2007

--!!tach_noi_dung!!--
--!!tach_noi_dung!!-- --!!tach_noi_dung!!--