Chương 2.7
MỘT SỐ SỰ KIỆN CẦN ĐƯỢC GHI LẠI

Để quý độc giả có thêm yếu tố nhận xét về biến động được gọi là "Cuộc Tranh Đấu của Phật Giáo Chống Lại Chính Sách Kỳ Thị Tôn Giáo" của Tổng Thống Ngô Đình Diệm, do một nhóm Phật Tử quá khích được Thượng Tọa Thích Trí Quang lãnh đạo xướng xuất, tôi thấy cần ghi lại một số sự kiện sau đây:
1. - Dịp Tết năm 1961, tôi đến chúc tuổi Cụ Ưng Trạo, đang nói chuyện với Cụ thì bé con nuôi của Cụ, cháu Vĩnh Thao, đi ngang qua, chỉ vào nó Cụ nói:
"Bữa qua bố nó, ông Hoàng Hữu Khác, (Ông Khác Chánh Án Tòa Án Huế, Thư Ký Hội Phật Giáo Thống Nhất Thừa Thiên) đến thăm tôi cho biết, ông mới đọc được thơ của Thượng Tọa Thích Trí Độ từ Hà Nội gửi cho Thượng Tọa Thích Trí Quang, Tổng Thư Ký Hội Phật Giáo Thống Nhất Thừa Thiên, chỉ thị phải tìm cách tổ chức một phong trào Phật Giáo chống Tổng Thống Diệm. Sợ bị liên lụy khi chuyện xảy ra, ông ta đã xin từ chức Thư Ký và ra khỏi Ban Trị Sự".
2. - Báo La Pravda xuất bản tại Moscow, số ra ngày 25. 10. 1963, loan tin về một Hội Nghị Quốc Tế Phật Giáo Thế Giới họp tại Bắc Kinh để hỗ trợ cuộc tranh đấu của Phật Giáo Miền Nam Việt Nam như sau:
"Hội Nghị Quốc Tế Phật Giáo Thế Giới họp trong ba ngày tại Bắc Kinh, dưới sự bảo trợ của: Ủy ban quốc gia vì hòa bình của Cộng hòa nhân dân Trung quốc. Ủy ban liên đới Phi-Á Châu. Ủy ban hợp tác văn hóa và ủy ban thống nhất Phật Giáo (Trung cộng), để hỗ trợ cuộc tranh đấu của Phật Giáo miền Nam Việt Nam, với sự tham dự của các phái đoàn đến từ mười nước: Trung cộng, Cam Bốt, Indonesia, Nhật, Bắc riều Tiên, Lào, Nepal, Pakistan, Thái lan, Bắc và Nam Việt Nam, được coi là một biến cố lớn nhằm đưa ra đầy đủ những tội ác của ông Ngô Đình Diệm và người em, ông Nhu, đã gây nên. Và nhà Sư Thích Thiện Hào, đại diện miền Nam Việt Nam trong Hội Nghị này tuyên bố rằng, ông Diệm và người em, ông Nhu, đã giết 159.000 người, tra tấn thành tàn tật suốt đời 672.000 người, biệt giam 370.000 Phật Giáo đồ, đốt Chùa Từ Đàm và Chùa Xá Lợi, và đích thân đến kiểm soát Chùa Xá Lợi, nơi được coi là địa điểm chống lại sự đàn áp của chế độ Diệm mạnh nhất". (Les Relations Americano-Vietnamienes.  Tập I. Trang 113)
3. - Trong cuộc tiếp kiến Phái Đoàn Điều Tra của Liên Hiệp Quốc, ông Ngô Đình Nhu đã trình bày với Phái Đoàn:
"... Cộng sản tổ chức đưa cả toàn xã vào Thiên Chúa Giáo rồi dùng cái lối ấy xâm nhập vào trong xứ. Tín đồ Phật Giáo khi thấy nhiều xã vào Thiên Chúa Giáo thì lại tưởng là áp bức của Chính Phủ. Nhưng khi đọc các tài liệu người ta mới thấy như thế, và Chính Phủ không khi nào khuyến khích điều ấy, vì đó là cộng sản trá hình. Sự kiện này gây cho chúng tôi thiệt hại nhiều vào năm 1960 khi chiến tranh phá hoại phát khởi. Những xã nói trên đứng lên chống lại chúng tôi. Chính Phủ Diệm xích mích với Hàng Giáo Phẩm Gia Tô về phong trào rửa tội toàn khối ấy. Lực lượng an ninh phải canh chừng những xã ấy nhiều hơn xã khác". (Phúc Trình Liên Hiệp Quốc. Trang 54)
4. - Trong cuộc hội kiến với Phái Đoàn Điều Tra của Liên Hiệp Quốc, ông Bộ Trưởng Bộ Nội Vụ Bùi Văn Lương đã trình bày:
"... Bây giờ tôi muốn nói rõ một vài điểm. Thông Tư đề ngày 6 tháng 5 đã đến Huế ngày 7 tháng 5. Tôi cũng đến Huế lúc 10 giờ sáng ngày hôm ấy, và nửa giờ sau, các nhà sư lãnh đạo Phật Giáo yêu cầu được gặp tôi để nghe giải thích về nội dung và lý do của Bản Thông Tư ấy. Tôi đã giải thích đầy đủ, và tôi cũng đã chỉ thị cho chính quyền địa phương khoan thi hành, trong hiện tại, Thông Tư ấy. Khi từ sân bay đến Thị Xã Huế, tôi đã nhận thấy cờ xí đã treo lên theo quy định (thông lệ) từ trước khi bản Thông Tư ra đời, cho nên không thể bắt hạ cờ xuống ngay trong một hôm. Các nhà lãnh đạo rất sung sướng nghe tôi nói, và bảo rằng tôi đã làm cho họ hoàn toàn thỏa mãn. Cờ Phật Giáo và Quốc Kỳ đã treo lên trước ngày lễ ba hôm rồi, cho nên không có một biện pháp nào có thể bắt buộc người ta phải theo những thể thức mà chính tôi, với tư cách Bộ Trưởng Bộ Nội Vụ đã Thông Tư.
Sau khi trở về Sài Gòn, ngày 8 tháng 5, tôi được tin những vụ lộn xộn đẫm máu xảy ra ở Huế. Tôi vô cùng ngạc nhiên và tôi lại trở ra huế. Tôi tự hỏi tại sao lại có những vụ lộn xộn như thế, trong khi các vị Thượng Tọa đã đoan chắc với tôi là họ đã thỏa mãn. Lúc ấy tôi không thể hiểu được, nhưng về sau khi bắt giữ vài ba người, tôi nhận được tờ tự khai tay của ông Đặng Ngọc Lựu, cộng tác viên thân cận của nhà sư Thích Trí Quang viết ra, tôi đọc tờ khai ấy và tôi đã hiểu... trong tờ khai ông ta nói rõ rằng cuộc âm mưu (do đó mới có chữ "âm mưu" dùng trong bản tài liệu) do Việt Cộng dựt giây này, đã được chuẩn bị và thỏa thuận từ năm 1960". (Phúc Trình Liên Hiệp Quốc. Trang 71)
5. - Ngay sau khi xảy ra những biến cố, trước và trong ngày Lễ Phật Đản tại Huế năm 1963, một luồng dư luận được loan truyền rất nhanh trong Thành Phố Huế và các Tỉnh lân cận nói rằng: Đức Cha Ngô Đình Thục và kỳ thị tôn giáo và tham vọng lên chức Hồng Y, không muốn thấy cờ Phật Giáo được treo quá nhiều, đã bắt Tổng Thống Ngô Đình Diệm ra lệnh triệt hạ và cấm treo cờ Phật Giáo trong ngày Lễ Phật Đản.
Trong khi đó tại miền Nam, dư luận lại nói: Ngoài miền Trung, ông Ngô Đình Cẩn cấm treo cờ Phật Giáo trong ngày Lễ Phật Đản.
Tôi đã được nhiều người hỏi như vậy. Và trong Thực Trạng Của Cuộc Chiến Tranh Việt Nam, nơi trang 263, vừa được trích dẫn ở một đoạn trên, tác giả Lâm Thành Nĩ cũng ghi như thế.
6. - Trước khi cuộc đảo chánh 1. 11. 1963 bùng nổ chừng một tháng, một nguồn tin rất giá trị cho biết:
Khi tiếng súng đảo chánh nổ, nhóm "Phật Giáo Tranh Đấu" sẽ giết Đức Cha Ngô Đình Thục.
Để tránh hậu quả không thể lường được khi xảy ra việc một vị Tổng Giám Mục Công Giáo bị giết bởi một nhóm người "mang danh Phật Giáo" Đức Cha Thục được khuyến cáo và Ngài đã rời Việt Nam khoảng 10 ngày trước khi cuộc đảo chánh xảy ra.
Người được biết rõ về nguồn tin này là Linh Mục Trần Đức Huynh, hiện cư ngụ tại Thành Phố Graden Grove, Orange County, California.
7. - Thiếu Tá Đặng Sỹ, trong thời gian bị giam tại lao xá Thừa Thiên (Huế), hai ông Tướng Đỗ Mậu và Nguyễn Chánh Thi đã từng vào nhà giam bảo ông: "Anh cứ khai là Tổng Giám Mục Ngô Đình Thục và Ngô Đình Cẩn ra lệnh cho anh giết Phật Tử thì anh sẽ được tha ngay".
8. - Một hôm Linh Mục Hoàng Quỳnh đến dưỡng đường của Bác Sĩ Tài trên Đường Công Lý Sài Gòn, thăm Thượng Tọa Trí Quang đang bị Tướng Nguyễn Cao Kỳ quản thúc tại đây. Sau khi thăm hỏi chừng 10 phút tại phòng Thượng Tọa Trí Quang nằm, hai vị cùng qua thăm Thượng Tọa Thiện Minh bên Trung Tâm Thanh Niên Phật Giáo gần đó. Ngồi trong xe trên đường đến Trung Tâm Thanh Niên, khi hai vị thảo luận về tình hình đất nước và các phong trào đấu tranh, Linh Mục Hoàng Quỳnh hỏi Thượng Tọa Trí Quang:
- Thượng Tọa này, sao trong phong trào của Thượng Tọa có vẻ có nhiều Việt Cộng trà trộn quá vậy?
Thượng Tọa Trí Quang trả lời:
- Tôi cũng biết vậy mà không mần chi được. Lúc đầu mình chỉ tính lợi dụng họ, nhưng khi họ vô đông quá rồi mình chịu, không xoay trở chi được nữa.
Người tháp tùng và lái xe đưa Linh Mục Hoàng Quỳnh và Thượng Tọa Trí Quang đi hôm ấy, đã được nghe rõ câu đối đáp trên đây là Cụ Nguyễn Văn Bách, hiện cư ngụ tại Thành Phố Wesminster, Orange Couty, California.
Sự kiện này cũng được Đại Đức Thích Đức Nghiệp, phát ngôn viên chính thức của phong trào "tranh đấu mang danh Phật Giáo" năm 1963 xác nhận với ông Đặng Đức Khôi,  nguyên Thứ Trưởng Bộ Thông Tin thời Đệ II Cộng Hòa, tại Trường Đại Học Columbia năm 1965:
"Một số người tranh đấu như Thích Trí Quang đã nhờ sự trợ lực của cộng sản để mau đạt được mục đích cuối cùng của họ".  (Vietnam our Nightmare. Trang 184)
9. - Một vị Phật Tử lão thành,  định cư tại Hoa Kỳ năm 1981, hiện cư ngụ tại Thành Phố Irvine, Orange, California cho biết:
Thời gian còn ở lại Việt Nam sau năm 1975, Cụ được gặp lại người em họ tập kết ra Bắc khi thi hành Hiệp định Geneva. Sau này xâm nhập miền Nam anh là một cán bộ cao cấp đã từng giữ chức vụ quan trọng của cộng sản trước ngày 30 tháng 4 năm 1975.
Khi chính quyền cộng sản bắt đầu áp dụng chính sách kiểm soát gắt gao gây nhiều khó khăn cho các tôn giáo, một hôm anh đến thăm Cụ, Cụ hỏi:
- Cậu nè, Phật Giáo trong Nam này đã có công nhiều với các anh. Theo tôi, cuộc tranh đấu của họ đã đem lại cho các anh nhiều thuận lợi để dành chiến thắng. Răng bây giờ các anh lại đối xử với họ tệ như rứa?
Và Cụ được anh trả lời:
- Phật Giáo trong ni mà tranh đấu cái chi! Anh có biết không, trước đó 2 năm chúng tôi đã cho 200 công an cạo đầu, vào Chùa Quán Sứ học kinh, học cách sống của các nhà Sư, rồi đưa vô Nam phục sẵn trong một số Chùa.
Sau ngày 30.4.1975, số công an này đã được tập trung ăn mừng liên hoan tại Chùa Vĩnh Nghiêm Sài Gòn.
Vì vấn đề an ninh của nguồn tin còn ở Việt Nam, theo lời yêu cầu của Cụ, chúng tôi rất tiếc chưa thể tiết lộ danh tánh của nguồn tin.
Một điều đáng lưu ý là con số 200 công an được tiết lộ trên đây phù hợp với số hơn 200 người cạo đầu mặc áo tăng sĩ, bị bắt trong cuộc kiểm soát một số Chùa đêm 20. 8. 1963, mà cho đến khi cuộc đảo chánh 1. 11 bùng nổ, Ủy Ban Liên Phái Phật Giáo cũng như các Chùa không nơi nào nhận lãnh, vì không có lý lịch của họ.
10. - Nhân chứng số 8, một học tăng 19 tuổi, được Phái Đoàn Điều Tra Liên Hiệp Quốc tiếp xúc, khi được ông Trưởng Phái Đoàn hỏi, xuất gia năm nào, vị học tăng này đã khai:
"Vào tháng 3 năm 1962. Đến tháng 7 năm ấy tôi đến Sài Gòn và Thượng Tọa Thích Trí Quang đã quyết định gửi tôi đến Chùa Long Phước ở Bến Tre, Tỉnh Bình Định (trong tiếng Anh ghi là Bến Tra, có lẽ là Bến Đá), để tu học. Vào tháng 5. 1963 tôi được về trụ sở Tổng Hội ở Sài Gòn. Tôi ở Chùa Xá Lợi để hầu hạ chư tăng. Chính ở đây tôi được nghe đến 5 nguyện vọng của Phật Giáo đồ. Ngày 30 tháng 5, tôi tham dự trong một cuộc biểu tình của Phật Giáo tại Sài Gòn và sau đó tôi về Chùa Xá Lợi. Trong đêm 20. 8 tôi đến Chùa Ấn Quang và bị bắt vào lúc 1 giờ sáng. Tôi bị giam giữ tại một nơi mà tôi không được biết. Nhiều vị Thượng Tọa ở Chùa Ấn Quang đến thăm tôi và điều đình với các giới chính quyền. Ngày hôm sau, tôi được trả lại tự do cùng với một số tăng ni khác. Tôi trở về Chùa Ấn Quang và gặp được nhiều vị tăng ni. Chính ở đây tôi gặp Thượng Tọa Thích Thiện Hoa và Thượng Tọa Thích Nhật Minh lúc bấy giờ là Chủ Tịch Ủy Ban Liên Hiệp Phật Giáo thuần túy. Hai nhà Sư ấy đã tuyên bố là tất cả chư tăng phải trở về Chùa của mình, vì không thể nào nuôi ăn một số đông các tăng ni như thế trong một ngôi Chùa được. Chùa tôi ở xa, tôi xin ở lại Sài Gòn và tá túc tại Ni Cô Diệu Thanh, gần Chùa Ấn Quang. Trong thời gian ấy tôi được nghe nói đến những sự tàn bạo mà Chính Phủ đã khủng bố Phật Giáo đồ. Chẳng hạn tôi được nghe kể lại người ta đánh đập tàn nhẫn tăng ni, đập nát những bàn tay, ngâm dưới nước hay mổ bụng những người này. Tôi còn được biết là một số tăng ni bị bắt trở lại và một số khác bị bắt buộc phải ngưng hành đạo hay tự thiêu sống. Tin tức ấy khiến tôi phẫn uất.
Một ngày kia, trong lúc tôi đang ở Phạm gian (Đường Gia Long) một thanh niên tự xưng là hội viên Tổng Hội Sinh Viên đến nói chuyện và yêu cầu tôi gia nhập vào phong trào Phật Tử. Tôi bằng lòng vì cho đó là một dịp để phụng sự chánh pháp. Người sinh viên ấy hỏi địa chỉ của tôi. Tôi trả lời rằng tôi ở nhà một Ni Cô gần Chùa Ấn Quang. Ngày hôm ấy, người sinh viên ấy lại đến tìm tôi ở địa chỉ ấy và giao cho tôi một gói gồm 2 bộ quần áo. Anh ta bảo tôi Chính Phủ đang lùng bắt tăng ni. Anh ta lại thêm rằng nếu ra đường thì phải mặc một trong hai bộ quần áo ấy để người ta khỏi nhận ra mình là tu sĩ. Anh ta còn khuyên tôi nên đổi chỗ ở,  tôi nên đến Chùa Từ Vân Đường Thái Lập Thành ở Gia Định để tránh sự dòm ngó của chính quyền. Vì thế tôi đến ở Chùa Từ Vân vào ngày 20 tháng 10. Đến ngày 22. 10, người sinh viên lại đến tìm tôi và tự giới thiệu là Linh. Anh ta cho biết Tổng Hội Phật Giáo đã thay đổi danh hiệu và các chi nhánh. Tổng Hội mới này làm việc cho cộng sản. Ngày 23.10 người ta đưa tôi đi Taxi lên Đường Chi Lăng ở Phú Nhuận vào trong một hồ tắm để gặp hai người. Một trong hai người này tên là Thanh và người kia là một nhà Sư cải trang và đội một chiếc nón bằng ni lông. Họ rất vui sướng được biết tôi và cho tôi biết tin một Phái Đoàn Liên Hiệp Quốc nay mai sẽ đến Việt Nam để điều tra về mối giao thiệp giữa Chính Phủ và Phật Giáo đồ. Vì thế họ cần 10 người tình nguyện và hỏi tôi có muốn tham gia không. Quá phẫn uất về cách đối xử của chính quyền với tăng ni, tôi đã nhận lời vì nếu không số phận tôi cũng chẳng khác gì số phận của các tăng ni ấy. Họ nói tôi sẽ được chết vì chánh pháp. Họ rất vui sướng khi nghe tôi nhận lời. Họ còn cho biết một Sư tên là Thiện Mỹ sẽ tự thiêu trước Nhà Thờ Tân Định trên Đường Hai Bà Trưng, Họ yêu cầu tôi tự thiêu ngay trong ngày Lễ Quốc Khánh vì hôm ấy có đông đủ mọi người ngay cả các đại diện của Phái Đoàn Liên Hiệp Quốc. Tôi hỏi làm thế nào có thể vào khu vực cấm ấy được. Họ bảo tôi đừng lo sợ, một nhóm người phụ trách ủng hộ sự tự thiêu đã có những bố trí thích đáng cho tôi. Tôi hỏi bố trí như thế nào thì họ trả lời đến ngày 16. 10, tôi sẽ nhận được một bộ đồ trắng và một chiếc áo cà sa vàng có tẩm xăng. Họ sẽ giao tôi một chiếc xe hơi có treo cờ để vào khu vực cấm. Đến nơi, tôi sẽ tự nhiên bước xuống xe do một người tài xế lái.  Đoạn tôi ngồi xuống tự nhiên, mặc chiếc áo cà sa vào, quẹt diêm và châm lửa đốt quần áo. Trước khi ấy, người ta sẽ cho tôi một vài viên thuốc không sợ đau đớn. Xong xuôi, họ bảo tôi về và cho tôi 100 đồng để trả tiền xe. Ngày 24. 10, người sinh viên lại đến Chùa Từ Vân giao cho tôi ba bức thư, một gởi cho Tổng Thống Việt Nam Cộng Hòa. Bức thư ấy yêu cầu Chính Phủ thực hiện sự tự do tín ngưỡng và phóng thích những tăng ni đã bị giam giữ.  Bức thư thứ hai gửi Thượng Tọa Thích Thiện Hòa, trụ trì Chùa Ấn Quang, kết tội Thượng Tọa đã phản bội tăng ni và tín đồ Phật Giáo. Bức thứ ba gửi Phái Đoàn Liên Hiệp Quốc cho họ biết lý do tôi tự thiêu. Những bức thư ấy đã được viết trước và họ yêu cầu tôi ký vào. Tôi không ngần ngại và ký vào trong tất cả ba bức thư. Người ta lại còn cho biết đến ngày 25.10 vào buổi sáng, lực lượng Cảnh Sát đến bắt tôi trước khi người sinh viên đến dẫn tôi đi. Trong xe Cảnh Sát, tôi thấy tên Hải người mà tôi đã quen trước kia ở Chùa Xá Lợi. Vào ngày 23 tôi có gặp hắn tại Đường Chi Lăng. Lúc ấy, chúng tôi có chuyện trò với nhau và tôi có nói là sau ngày 26 tôi sẽ không còn gặp hắn nữa. Đến lúc xe đến Đồn Cảnh Sát, tôi mới hiểu rằng chính hắn đã tố cáo tôi với Cảnh Sát. Họ giam tôi trong một căn phòng, xong đem tôi ra và giải thích là chính quyền không giết một vị Sư nào, không có một sự tàn bạo nào đã xảy ra và tất cả những câu chuyện trước kia đều là bịa đặt. Tôi biết bị lầm đường, và bây giờ tôi hiểu rõ tình thế. Về những âm mưu vừa qua, tôi có gửi cho Tổng Thống Việt Nam Cộng Hòa xin lỗi ông và giải thích về bức thư tôi gửi đến cho ông, Tôi cũng gửi một bức thư đến Phái Đoàn Liên Hiệp Quốc. Bây giờ tôi đã nhận thấy rõ ràng tình thế, nên không còn ý định tự thiêu nữa. (Phúc Trình Liên Hiệp Quốc. Trang 127)
11. - Mấy ngày sau khi cuộc đảo chánh 1. 11. 1963 thành công, một số sinh viên bị giữ trong các cuộc biểu tình bạo động trong những ngày trước đó được trả tự do. Họ được triệu tập đến Bộ Tổng Tham Mưu để được Tướng Dương Văn Minh, Chủ Tịch Hội Đồng Tướng Lãnh tiếp kiến, dưới sự hướng dẫn của một sĩ quan thuộc Phòng 5/Bộ Tổng Tham Mưu. Trong khi Tướng Minh đang tiếp số sinh viên trên đây thì ông nhận được báo cáo khẩn cấp:
Có một đám đông kéo đến bao vây đòi tràn vào phá Nha Tuyên Úy Công Giáo, tọa lạc trên Đường Phan Thanh Giản, giáp Đường Hai Bà Trưng. Tướng Minh nhận được báo cáo vẫn thảm nhiên, không có phản ứng gì. Thấy vậy một sinh viên đứng lên nói:
"Đề nghị Trung Tướng bằng mọi cách phải ngăn chận ngay việc này, nếu không, nó sẽ gây nên hậu quả vô cùng nguy hiểm có thể đưa đến một cuộc chiến tranh tôn giáo".
Tướng Minh ngập ngừng một lúc, nhưng sau đó đã ra lệnh cho lực lượng an ninh phải bảo vệ Nha Tuyên Úy Công Giáo và giải tán đám đông.
12. - Tháng 6 năm 1964, Tòa soạn Nhật Báo Xây Dựng do Linh Mục Nguyễn Quang Lãm làm Chủ Nhiệm, khi ấy còn tọa lạc tại góc Đường Bùi Chu-Bùi Thị Xuân, và Trường Nguyễn Bá Tòng bên cạnh, bị một đoàn khoảng hơn 200 thanh niên hầu hết chỉ mặc một quần xà lỏn kéo tới bao vây. Nhiều lần chúng định xông vào đập phá nhưng không vượt qua được dãy tường bao xung quanh hai cơ sở này. Trước thái độ bất can thiệp của Cảnh Sát trước hành động bạo loạn của nhóm người này, đồng bào Công Giáo di cư tại khu vực Hố Nai và Ông Tạ phải đến can thiệp giải vây. Hai bên xô xát, một thanh niên bên phe "tranh đấu" bị tử thương vì trúng một mũi lao của phe giải vây. (lối đánh các băng cướp của dân quê miền Bắc) Xác thanh niên này được đưa về quàn tại Viện Hóa Đạo Đường Trần Quốc Toản.  Đám táng được tổ chức rất long trọng, có cả vòng hoa và lời phân ưu rất trân trọng của Thủ Tướng Nguyễn Khánh.
Cụ Nguyễn Văn Bách là một trong những người ở trong Tòa Báo Xây Dựng để đối phó với nhóm "tranh đấu" suốt thời gian bị nhóm này vây hãm.
13. - Thời gian này, tại một số Thành Phố như Sài Gòn, Nha Trang, Đà Nẵng, Huế và tại các Tỉnh được chính quyền Quốc Gia tiếp thu sau khi Hiệp định Geneva được thi hành như Quảng Ngãi, Bình Định, Phú Yên, tình trạng hỗn loạn ngày càng thêm trầm trọng. Những tin thất thiệt được tung ra nhằm khích động đám quần chúng của hai tôn giáo Công Giáo và Phật Giáo, lan tràn khắp nơi.
Ở khu này người ta nghe: Tối nay dân Công Giáo sẽ đến phá Chùa này, đánh Chùa kia.
Qua khu khác người ta lại nghe: Nhóm "Phật Giáo Tranh Đấu" đang chuẩn bị tối mai sẽ kéo đến phá Nhà Thờ nọ, đốt xóm Đạo kia.
Và thế là tín đồ hai bên đều vội vàng chuẩn bị khí giới, gậy gộc, dao búa sẵn sàng nghênh chiến, đối phó bảo vệ Nhà Thờ, canh giữ Chùa chiền.
14. - Tôi được cựu Trung Tá Nguyễn Văn Ứng, Chánh Sở I An Ninh Quân Đội tại Đà Nẵng sau ngày 1. 11. 1963 kể lại: Tháng 6. 1964, Trung Úy Quận Trưởng Quận Duy Xuyên,  Tỉnh Quảng Nam, khám phá được một tổ chức Việt Cộng, bắt được một số cán bộ. Trong số cán bộ này có hai tên là Khuôn Hội Trưởng Hội Phật Giáo tại địa phương, với đầy đủ tài liệu và vũ khí.
Nhận được báo cáo, Đại Tá Ngô Dzu, (sau này là Trung Tướng), Tư Lệnh Sư Đoàn 2 Bộ Binh và Khu 12 Chiến Thuật, đến khen thưởng gắn huy chương cho các Quân Nhân đã lập được công trạng.
Một sự ngẫu nhiên không may đối với tình hình lúc ấy là, cả Đại Tá Ngô Dzu và Trung Úy Quận Trưởng đều là tín đồ Công Giáo. Dựa vào yếu tố này, phe mang danh "Phật Giáo Tranh Đấu" tại Đà Nẵng do Phạm Xuân Huy và Hoàng Văn Giàu điều khiển la ầm lên:
Bọn Cần Lao Công Giáo tàn dư chế độ cũ "trả thù Phật Giáo". Mặc dầu cả hai đều do chính quyền "cách mạng" của các Tướng đảo chánh bổ nhiệm. (Huy sau này là Dân Biểu Quốc Hội. Giàu bị động viên, được biệt phái về Cục An Ninh Quân Đội)
Và trong một cuộc biểu tình rầm rộ sau đó, họ đã cho một nhóm vào tận Quận Duy Xuyên bắt Trung Úy Quận Trưởng, đem về giam tại Hội Trường Thành Phố Đà Nẵng.
Điều may mắn là mặc dầu bị nhiều sách động, nhưng đại đa số cá nhân cũng như đơn vị Quân Đội vẫn còn duy trì được tinh thần đoàn kết, tôn trọng kỷ luật và bảo vệ danh dự chung. Nhờ vậy, Trung Tá Đỗ Ngọc Nhận, có cấp bậc sau cùng là Đại Tá, hiện cư ngụ tại Tiểu Bang Texas, Hoa Kỳ, Tư Lệnh Phó của Đại Tá Ngô Dzu, khi đấy đang chỉ huy hai Trung Đoàn hành quân tại Tỉnh Quảng Tín. Khi được tin về sự lộng hành của nhóm "tranh đấu" đối với một sĩ quan, Trung Tá Nhận liền gửi một Công Điện cho Tướng Tôn Thất Xứng, Tư Lệnh Quân Đoàn I nội dung đại ý:
"Vì màu cờ sắc áo, vì danh dự Quân Đội, thỉnh cầu Thiếu Tướng Tư Lệnh giải quyết gấp vụ nhóm "tranh đấu" bắt giữ Trung Úy Quận Trưởng Duy Xuyên. Nếu sau 48 tiếng đồng hồ vụ này không được giải quyết, chúng tôi, hai Trung Đoàn hiện đang hành quân sẽ rút về Đà Nẵng tự giải quyết".
Nhận được Công Điện, Tướng Xứng đã cho mời một số nhân sĩ tại Đà Nẵng và đại diện nhóm "tranh đấu" đến dàn xếp. Tướng Xứng cũng cho họ biết thái độ cứng rắn và đoàn kết của hai Trung Đoàn dưới quyền chỉ huy của Trung Tá Nhận.
Kết quả là Trung Úy Quận Trưởng Duy Xuyên được trả tự do và trở về nhiệm sở trước thời hạn 48 tiếng đồng hồ.
15. - Tiếp đến là vụ đánh phá và thiêu rụi hai làng của dân Công Giáo di cư từ Tỉnh Quảng Bình vào định cư tại Đà Nẵng, hai Làng Thanh Bồ và Đức Lợi, xảy ra vào tháng 8 năm 1964. Vụ tàn phá hai làng trên đây đã gây chấn động trong toàn quốc. Những người thường lưu tâm đến thời cuộc lúc ấy, đã thực sự lo ngại và nghĩ rằng, nhân dân miền Nam khó lòng tránh khỏi bị sập vào cái bẫy "chiến tranh tôn giáo" Và nếu tình trạng ấy xảy ra thì chỉ một sớm một chiều, miền Nam sẽ lọt vào tay cộng sản Bắc Việt.
Để được biết rõ sự thật về vụ này, tôi đã tìm gặp cựu Trung Tá Nguyễn Văn Ứng, người đã được, nói đúng hơn, đã bị Thiếu Tướng Tôn Thất Xứng (hiện cư ngụ tại Canada) Tư Lệnh Quân Đoàn I khi ấy, bắt bằng mọi cách phải vào Thanh Bồ, Đức Lợi, lấy ra cho được 5 học sinh bị dân làng bắt giữ. Để giải quyết vụ tranh chấp giữa nhóm "tranh đấu" và dân hai Làng Thanh Bồ, Đức Lợi, cách ôn hòa.
Cựu Trung Tá Nguyễn Văn Ứng là sĩ quan Ngành An Ninh Quân Đội, từng làm việc dưới quyền Tướng Đỗ Mậu được ông rất tin dùng và quý mến. (Cựu Trung Tá Ứng mất năm 2000 tại Orange County, Carlifornia)
Khi xảy ra vụ Thanh Bồ, Đức Lợi, cựu Trung Tá Ứng đang giữ chức vụ Chánh Sở I An Ninh Quân Đội tại Đà Nẵng, cấp bậc Thiếu Tá. Tôi đã được ông cho ghi âm lời tường thuật chi tiết về vụ này như dưới đây:
"Hôm ấy là ngày thi của các học sinh Trung Học. Đoàn biểu tình của nhóm "tranh đấu" phát xuất từ Chùa Tỉnh Hội Đà Nẵng, kéo qua Trường Trung Học Phan Chu Trinh bắt các học sinh đang thi tham gia. Họ kéo đi trên đường bờ sông Đà Nẵng. Khi đi ngang qua một Câu Lạc Bộ của Quân Đội Mỹ đối diện với hai Làng Thanh Bồ, Đức Lợi, một số người trong đoàn biểu tình đã ném đá vào Câu Lạc Bộ. Thấy vậy, một lính Mỹ đứng trên lan can bắn mấy phát súng chỉ thiên. Đoàn biểu tình chạy nhào qua phía hai làng đối diện. Một số đông đã vào sâu trong làng.
Dân hai Làng Thanh Bồ, Đức Lợi sống bằng nghề chài lưới. Vì thế, ban ngày đàn ông,  trai tráng đều đi đánh cá ngoài biển hoặc trên sông. Ở nhà chỉ còn hầu hết là đàn bà và trẻ con.  Nghe súng nổ, lại thấy đoàn biểu tình ồ ạt kéo vào làng, họ kéo nhau chạy xuống hầm trú ẩn mà nhà nào cũng có sẵn để tránh pháo kích của Việt Cộng. Đồng thời họ nổi hiệu báo động gọi những người đang đánh cá trở về.
Khi đoàn biểu tình ào vào làng đã làm sập hầm của một gia đình, gây thương tích cho mấy em bé nấp ở bên dưới.
Trong số dân có mặt ở trong làng lúc đó có Chuẩn Úy Phú, nhân viên Sở I An Ninh Quân Đội. Vì cảnh hỗn loạn thường xảy ra ở Thành Phố Đà Nẵng trong thời gian ấy, Chuẩn Úy Phú đã đem về nhà mấy trái lựu đạn và một khẩu súng lục P. 38 cốt để phòng thân. (ông Phú hiện ở Thành Phố Graden Grove) Nghe tiếng la hét có người bị thương, lại thấy đoàn biểu tình kéo vào làng càng lúc càng đông, Chuẩn Úy Phú bắn mấy phát súng chỉ thiên để chận lại. Vừa lúc ấy, đám đàn ông con trai tráng từ ngoài sông, biển trở về, thấy cảnh hỗn loạn, lại có người bị thương, họ liền phản ứng. Đoàn biểu tình rút ra, nhưng có 5 em học sinh bị dân làng bắt giam làm con tin.
Trở về điểm xuất phát, đoàn biểu tình mới biết thiếu mất 5 em học sinh. Họ liền huy động đám đông trở lại vây Tòa Thị Chính và hai Làng Thanh Bồ, Đức Lợi. Đồng thời Phan Xuân Huy và Hoàng Văn Giàu, hai người chỉ huy đoàn biểu tình, đến gặp Tướng Tôn Thất Xứng Tư Lệnh Quân Đoàn, yêu cầu giải quyết trả 5 học sinh về cho họ.
Gần 12 giờ trưa, Tướng Xứng gọi tôi (Trung Tá Ứng) đến văn phòng ra lệnh bắt tôi bằng mọi cách phải vào Thanh Bồ, Đức Lợi can thiệp lãnh 5 em học sinh về trả cho đoàn biểu tình. Tôi thấy trong văn phòng Tướng Xứng lúc ấy có hai Đại Tá, Nguyễn Văn Thiện, Tư Lệnh Phó Quân Đoàn và Hải Quân Đại Tá Lê Quang Mỹ, Thị Trưởng, là những người trực tiếp có trách nhiệm về vấn đề an ninh tại địa phương. Tôi xin được miễn thi hành lệnh này đồng thời yêu cầu Tướng Xứng giao nhiệm vụ ấy cho các vị có trách nhiệm. Nhưng Tướng Xứng nói với tôi: "Toa là người duy nhất có thể giải quyết được vụ này. Nếu toa từ chối thì 4 giờ chiều hôm nay chúng nó sẽ thánh chiến".
Lúc này tôi chưa hiểu câu nói của Tướng Xứng. Không từ chối được, tôi đã yêu cầu ông: Nếu Thiếu Tướng bắt buộc tôi phải làm việc này thì, xin cho hai Đại Tá Thiện và Mỹ cùng đi với tôi, để mọi quyết định của tôi tức là quyết định của Thiếu Tướng. Tránh những sự xuyên tạc, gây hiểu lầm có thể đưa đến hậu quả tai hại sau này.
Lời yêu cầu của tôi được Tướng Xứng chấp thuận. Nhưng trước khí thế quyết ăn thua của hai phía, đoàn biểu tình và dân hai Làng Thanh Bồ, Đức Lợi, tôi cần phải được một chức sắc của Phật Giáo và một vị của Công Giáo cùng đi, mới có thể đi qua được đoàn biểu tình và vào được hai làng này. Tôi đến mời Đại Đức Thích Minh Chiếu Chánh Sở Tuyên Úy Phật Giáo Quân Đoàn và Linh Mục Lê Văn Ấn, Cha Sở Nhà Thờ Chánh Tòa Đà Nẵng, sau này là Giám Mục Giáo Phận Xuân Lộc, và được hai vị vui vẻ nhận lời cùng đi với chúng tôi.
Trên đường đi đến Thanh Bồ, Đức Lợi, tôi lái xe, Cha Ấn ngồi ở giữa, nhường ghế phía ngoài cho Đại Đức Tuyên Úy Phật Giáo, hai Đại Tá ngồi phía sau. Khi xe đi qua được nửa đoàn biểu tình, thình lình có mấy người nhào tới nói với Đại Đức Tuyên Úy: "Thầy không được vào trong đó. Thầy vào chúng nó sẽ giết Thầy" và họ bồng ông chạy đi mất. Mọi người trong xe còn chưa hết ngỡ ngàng và Cha Ấn vừa ngồi xích ra ghế mới bỏ trống thì từ trong đoàn biểu tình đánh vào trong xe một tảng đá mỗi bề chừng 30 cm, trúng ngay hộp số xe (xe jeep) chỗ Cha Ấn để chân lúc còn ngồi ở giữa. Thấy tình hình quá gay cấn và nguy hiểm, hai vị Đại Tá và Cha Ấn yêu cầu tôi trở lui.
Khoảng 5 giờ chiều, có lẽ vì mệt mỏi, nhóm biểu tình vây hai làng chỉ còn lại lưa thưa ít người. Tôi liền đi mời các vị đã cùng đi buổi trưa tiếp tục trở lại Thanh Bồ, Đức Lợi, nhằm giải quyết cho xong vấn đề. Nhưng tất cả đều vắng mặt, ngoại trừ Cha Ấn.
Khi tôi và Cha Ấn đến gần Thanh Bồ, Đức Lợi thì thấy Đại Tá Nguyễn Chánh Thi, Tư Lệnh Sư Đoàn 1 Bộ Binh đem Tiểu Đoàn Nhảy Dù của Thiếu Tá Nguyễn Thế Quang từ Huế vào, đang dàn quân bao vây hai làng. Ông cho bắc máy phóng thanh ra lệnh cho dân trong làng phải mở cổng làng, và bỏ hết súng ống đạn dược xuống, nếu không đơn vị Dù sẽ vào bắt hết.  Tôi vội báo cáo về cho Tướng Xứng biết tình hình lạ lùng và bất thường này. Ông chỉ thị cho tôi mời Đại Tá Thi về Bộ Tư Lệnh Quân Đoàn gặp ông. Khi tôi tới gặp Đại Tá Thi chuyển lệnh của Tướng Xứng, ông liền văng tục trước mặt tôi và không đếm xỉa gì đến lệnh của Tư Lệnh Quân Đoàn.
Lúc đó lính Dù chỉ bao vây bên ngoài hai làng, không có hành động gì. Tôi và Cha Ấn tiếp tục đi vào trong làng. Sau khi dân làng nghe chúng tôi giải thích điều hơn lẽ thiệt, họ đã vui vẻ trao 5 em học sinh cho chúng tôi. Họ còn nấu cháo gà đãi các em trước khi trao cho chúng tôi đem các em về.
Ra khỏi Thanh Bồ, Đức Lợi, tôi lái xe đưa các em tới thẳng Tòa Thị Chính, đang bị khoảng vài chục ngàn người biểu tình vây quanh, đợi tin tức chuyến đi của chúng tôi. Đưa các em ra lan can trên lầu Tòa Thị Chính đã bố trí máy phóng thanh, tôi thông báo cho đám biểu tình: "Thay mặt cho Thiếu Tướng Tư Lệnh Quân Đoàn, tôi đã vào Thanh Bồ, Đức Lợi đem 5 em học sinh về đây. Để đồng bào được biết dân chúng hai làng đã đối xử với các em thế nào trong thời gian họ giữ các em, yêu cầu các em cử một người ra kể lại cho đồng bào rõ".
Một trong 5 em đã đứng ra kể lại: Suốt thời gian bị dân làng giữ, các em được đối đãi rất tử tế,  ăn uống đầy đủ, trước khi về dân làng còn đãi cháo gà v. v... Nghe em nói, đoàn biểu tình tỏ ra hài lòng, họ hô lớn: Hoan hô Thiếu Tá. Nhưng tiếng hoan hô vừa dứt thì có tiếng la lên: Đả đảo học sinh giả! Vừa lúc ấy trời đổ mưa lớn, đám biểu tình tự động giải tán.
Tôi cũng như các giới chức có mặt tại Tòa Thị Chính lúc ấy cảm thấy như vừa trút bỏ được một vật gì quá nặng, đè trên ngực chúng tôi suốt ngày hôm ấy cho đến giờ này. Mọi người ra về với cảm giác nhẹ nhõm và tất cả đều nghĩ rằng ngày hôm sau sẽ được rảnh rang hơn....
Đêm hôm ấy, Tiểu Đoàn Dù của Thiếu Tá Vũ Thế Quang theo lệnh của Đại Tá Nguyễn Chánh Thi, án binh bất động bên ngoài hai Làng Thanh Bồ, Đức Lợi. Sáng hôm sau, được sự hỗ trợ của Đại Tá Thi, nhóm "tranh đấu" huy động được mười ngàn người, kéo đến đi theo Đại Tá Thi vào trong làng. Đại Tá Thi đi trước, họ theo sau, phá tan hoang nhà cửa rồi nổi lửa đốt cháy rụi hết. Điều may mắn là trong đêm hôm đó, thấy lính Dù vây làng như linh cảm trước sẽ xảy ra điều chẳng lành. Lợi dụng đêm tối họ đã lặng lẽ di tản sang khu Sơn Trà phía bên kia sông. Nhờ vậy mà không có thiệt hại nhân mạng.
16. - Cựu Trung Tá Ứng kể tiếp: "Sau vụ hai Làng Thanh Bồ, Đức Lợi bị tàn phá,  người dân Công Giáo tại Đà Nẵng lo sợ không biết ngày giờ nào tai họa tương tự sẽ xảy ra với họ. Vì vậy họ cũng vội thành lập một "Ủy Ban Tranh Đấu Công Giáo" gồm bảy người,  nhằm phối hợp hành động của các Họ Đạo trong khu vực, để có thể đối phó với tình hình đầy bất trắc lúc bấy giờ. Khi hay tin khối Công Giáo đã thành lập Ủy Ban Tranh Đấu, nhóm "tranh đấu mang danh Phật Giáo" sau khi tìm biết được tên tuổi của bảy người trong Ủy Ban, họ liền huy động một đoàn biểu tình đi lùng bắt bảy người này.
Vì mới được thành lập, chưa kịp phối hợp tổ chức gì ở các Họ Đạo, bảy người trong Ủy Ban Tranh Đấu Công Giáo đã phải vào xin ẩn tránh trong Tòa Giám Mục Đà Nẵng. Nhóm "tranh đấu mang danh Phật Giáo" biết đích xác được tên một trong bảy người đang ẩn tránh trong Tòa Giám Mục là anh Hoàng, chủ một tiệm may. Họ kéo tới bao vây đòi Tòa Giám Mục phải trao anh Hoàng cho họ, nếu không họ sẽ phá Tòa Giám Mục.
Thấy tình hình quá gay cấn trước thái độ hung hãm của nhóm "tranh đầu" và để tránh một cuộc đụng độ giữa khối Công Giáo và nhóm tranh đấu, Tòa Giám Mục cho Linh Mục Thư Ký ra dàn xếp. Được bảo đảm sẽ không làm gì nguy hại cho anh Hoàng, Linh Mục Thư Ký trở vào dẫn anh Hoàng ra trao cho họ. Nhưng vừa nắm được tay anh Hoàng, tức thì nhóm "tranh đấu" xúm lại dùng gạch đá, đánh anh chết ngay bên ngoài cổng Tòa Giám Mục".
17. - Dưới thời Tướng Nguyễn Khánh nắm quyền Thủ Tướng, khối Ấn Quang, qua mấy Bộ Trưởng trong khối của họ, đã đưa ra trước Hội Đồng Bộ Trưởng một dự thảo Sắc Lệnh đặt " Đảng Cần Lao" ngoài vòng pháp luật, yêu cầu thông qua để trình Thủ Tướng ký ban hành.
Mấy vị Bộ Trưởng không bị ảnh hưởng của Ấn Quang, thấy được sự nguy hiểm và những hậu quả không thể lường trước được sẽ xảy ra, nếu dự thảo được Tướng Khánh chấp thuận. Các vị này vội tin cho ông Huỳnh Hữu Nghĩa, Bộ Trưởng Lao Động thời Đệ I Cộng Hòa biết. Ông Nghĩa đến trình bày sự việc với Bác Sĩ Phó Thủ Tướng Nguyễn Lưu Viên. Bác Sĩ Viên cũng có cùng quan điểm với các vị Bộ Trưởng trên đây, nên ông đã thuyết phục Tướng Khánh không ký ban hành Sắc Lệnh này.
18. - Thời gian nắm quyền Tư Lệnh Quân Đoàn I. Tướng Nguyễn Chánh Thi đã làm văn thư xin Bộ Tổng Tham Mưu cho thành lập một "Đoàn Quân Phật Giáo".
Các sĩ quan có trách nhiệm nghiên cứu đề nghị của Tướng Thi, nhận thấy sự phi lý, phi nguyên tắc của việc thành lập một "quân đội" trong một "quân đội" nên họ đã đề nghị Bộ Tổng Tham Mưu bác bỏ ý kiến của Tướng Thi.
Một sĩ quan trong Ban Nghiên Cứu này, là cựu Đại Tá Hồ Ngọc Tâm, khi ấy là Đại Úy Trưởng Ban Tư Pháp Phòng I Bộ Tổng Tham Mưu.
19. - Khi phong trào tranh đấu "mang danh Phật Giáo" tại miền Trung bị Tướng Nguyễn Cao Kỳ quyết định dẹp. Có lẽ cảm thấy yếu thế, các vị lãnh đạo phong trào lại đến với khối Công Giáo để tìm hậu thuẫn. Tại Sài Gòn, Thượng Tọa Thích Thiện Minh đến gặp Linh Mục Hoàng Quỳnh và Linh Mục Nguyễn Đức Nhuận. Tại Huế Thượng Tọa Trí Quang tìm gặp Linh Mục Tổng Giáo Phận Nguyễn Văn Thuận, tức Đức Cố Hồng Y Nguyễn Văn Thuận,  đề nghị khối Công Giáo hợp tác chống Thiệu-Kỳ.
Ông Võ Như Nguyện khi ấy ở Huế và Linh Mục Trần Đức Huynh ở Sài Gòn đều biết rõ về những cuộc gặp gỡ và đề nghị này.
20. - Nữ phóng viên Marguerite Higgins, trong tác phẩm "Our Vietnam Nightmare",  Trang 271, kể lại chuyến đến thăm Việt Nam lần thứ hai của bà, kể từ khi Tổng Thống Ngô Đình Diệm bị lật đổ, tháng 11. 1964, Bà thấy nhiều dấu hiệu chứng tỏ tư thế của Thượng Tọa Trí Quang đang bị sói mòn. Nhưng bà lấy làm có ý nghĩa nhất, là việc Chùa Xá Lợi ly khai khỏi phong trào tranh đấu của nhóm Thượng Tọa Trí Quang. Các vị lãnh đạo Phật Giáo tại Chùa này cho bà biết, họ cực lực phản đối sự bạo động và âm mưu của nhóm quá khích và Ban Trị Sự Hội Phật Giáo đã quyết định trục xuất hai Thượng Tọa Trí Quang và Tâm Châu ra khỏi Chùa. Bà kể lại lời một vị cao tăng tại Chùa Xá Lợi nói với bà về sự lộng hành của Thượng Tọa Trí Quang như sau:
Chúng tôi cảm thấy ông ta (Thượng Tọa Trí Quang) đã phản bội Phật Giáo. Nếu người Mỹ biết chút ít về Phật Giáo, thì họ đã không bị lừa gạt mà nghĩ rằng, con người ấy không dùng tôn giáo của chúng tôi để làm một việc gì đó. Số người trẻ ca tụng Thích Trí Quang là anh hùng, là những người ngây thơ một cách tội nghiệp, họ không biết họ đang làm gì. Họ đang bị lợi dụng.
- Cái gì, tôi (Higgins) hỏi, có phải chắc chắn ngài muốn nói "phản bội Phật Giáo"?
- Có nhiều lý do để nói như vậy, vị cao tăng đáp lại. Đức Phật dạy chống lại hận thù.  Đức Phật nói: "Hận thù phải giải hóa được hận thù. Hận thù phải giải hóa bằng yêu thương".  Đó là giới luật vĩnh cửu. Cho dù những người khác không hiểu sự điên rồ của tranh đấu đi nữa,  chúng tôi cũng phải tránh điều đó. Nhưng Thích Trí Quang đang làm công việc khơi động hận thù lên, vào lúc chúng tôi cần hàn gắn mọi vết thương thay vì tạo ra những vết thương mới.  Thích Trí Quang đã khơi động hận thù bằng chiến dịch chống người Công Giáo và người chế độ Diệm. Nhưng người Phật Tử luôn hòa hảo với các tôn giáo khác. Chính Đức Thích Ca luôn coi mọi người khác niềm tin là anh em. Đức Thích Ca không đòi hỏi phải chấp nhận cách mù quáng giáo huấn của ngài và cũng không bao giờ lên án giáo huấn của người khác. Đức Thích Ca nói: "Hỡi tăng sĩ, ngay chính những lời của ta, các ngươi cũng đừng chấp nhận chỉ vì kính trọng ta. Các người phải khảo sát nó bằng những lý luận thật cứng rắn của các ngươi, như người thợ kim hoàn thử vàng bằng cách nung nó trong lửa". Chiến dịch hận thù của Thích Trí Quang chống lại giới luật của Đức Thích Ca. Về những người thuộc chế độ Diệm, bằng cách này hay cách khác, mọi người trí thức Việt Nam đều đã phục vụ Tổng Thống Diệm. Chính Thích Trí Quang cũng từng nhận những ân huệ từ Ngô Đình Cẩn, (em Tổng Thống Diệm) người đã cung cấp tiền bạc cho Chùa Từ Đàm. Đúng là ngụy thiện, khi gọi người khác là người của ông Diệm mà lại miễn trừ ông ta.
Đức Thích Ca cũng dạy rằng:"Sự thật là đức tính cao quý nhất". Nhưng Thích Trí Quang truyền bá sự phỉ báng, cũng rộng rãi như truyền bá sự hận thù. Nếu ông ta là một đạo hữu dốt nát, điều đó lại khác. Thích Trí Quang có trí thông minh. Ông ta biết mình hành động ngược với giới luật của Đức Thích Ca. Vì vậy chúng tôi rất nghi ngờ.
- Tại sao không đưa ra ánh sáng tất cả những điều này? Tôi (M.  Higgins) hỏi, ngài có muốn tôi nêu rõ hoặc dùng tên ngài không? Có phải mọi người thuộc Chùa Xá Lợi mong muốn cho công chúng Hoa Kỳ biết sự thật không?
- Có nhiều lý do để sợ Thích Trí Quang, vị tăng sĩ trả lời. Ông ta đã sai những Phật Tử trẻ của ông ta đi đây đó, đánh đập nhiều người của chúng tôi chống đối ông. Và vì thế bề trên của chúng tôi đã cấm chúng tôi liều lĩnh gánh chịu sự giận dữ của ông ta. Nhưng một ngày nào đó mọi người sẽ nhận ra sự thật. Ông ta đã làm cho nhiều Phật Tử xa lánh rồi.
21. - Trong Bạch Thư được Hòa Thượng Thích Tâm Châu ký tại Chùa Phật Quang, Úc Châu, phổ biến ngày 31 tháng 12 năm 1993 dưới số 729-VP-TT, nói "VỀ VẤN ĐỀ CHIA RẼ CỦA ẤN QUANG VỚI VIỆT NAM QUỐC TỰ". Sau khi nói về công lao Hòa Thượng đã lãnh đạo khối Phật Giáo tranh đấu chống lại chính quyền của Tổng Thống Ngô Đình Diệm,  trong mục 6, dưới tiêu đề "ĐẠI NẠN CỦA PHẬT GIÁO VÀ ĐẤT NƯỚC", Hòa Thượng kể lại tình trạng Phật Giáo, sau một tháng Hòa Thượng tham dự Hội nghị thành lập Giáo Hội Tăng Già Thế Giới tại Tích Lan trở về như sau:
Khoảng tháng 7. 1966, tôi đã về tới Sài Gòn, được tin đang có biểu tình trong Thành Phố Sài Gòn và một số nơi khác tại miền Trung. Tôi không hiểu, khi tôi đi vắng, ở nhà có Thượng Tọa Trí Quang, Thượng Tọa Thiện Minh, do đâu lại phát động lại phong trào tranh đấu?
Tôi về tới Việt Nam Quốc Tự, bước chân vào cửa văn phòng Viện Trưởng Viện Hóa Đạo của tôi thì, có một biểu ngữ nền vàng chữ đổ ghi: "MUỐN QUẦN CHÚNG TUÂN THEO KỶ LUẬT THÌ PHẢI THEO QUẦN CHÚNG". Tôi vào tới bàn giấy của tôi thì có một đĩa máu, một con dao và một huyết thư: "YÊU CẦU THƯỢNG TỌA TRONG VIỆN HÓA ĐẠO KHÔNG ĐƯỢC THEO THƯỢNG TỌA TÂM CHÂU".
Tôi định lên chánh điện Việt Nam Quốc Tự lễ Phật, tại đây có mấy vị Tăng thanh niên không cho tôi vào chánh điện Việt Nam Quốc Tự và hăm dọa, ai muốn vào Chùa hãy bước qua xác chết của họ.
Tôi vô cùng chán nản không biết cách nào vãn hồi trật tự được. Tôi trở về Chùa Từ Quang. Về Chùa Từ Quang cũng có một đĩa máu, một con dao và một huyết thư "CẤM TÔI KHÔNG ĐƯỢC HOẠT ĐỘNG NỮA". Và, người trong Chùa cho biết là họ hăm dọa sẽ đốt xe, ám sát. Và chính các tăng thanh niên đang tụ tập tại Niệm Phật Đường Quảng Đức (Chợ Vườn Chuối) định sang Chùa Từ Quang giết tôi. May có Sư Cô Vân biết được, cấp báo cho tôi biết. Tôi trốn thoát.
Từ đó, tôi phải đi nghỉ, nay tại nhà này, mai tại nhà khác, nay tại Viện Nhu Đạo Quang Trung, mai tại Nha Tuyên Úy Phật Giáo.
Từ đó, Việt Nam Quốc Tự bị Tăng Ni và quần chúng theo cộng sản nắm giữ, thao túng,  liên tục ngày này qua ngày khác, ra Đường Trần Quốc Toản, ngã 6 Sài Gòn-Chợ Lớn biểu tình,  đả đảo và đốt hình nộm Tổng Thống Mỹ, Tướng Thiệu, Tướng Kỳ.
Phần cuối mục này Hòa Thượng Tâm Châu viết:
"Sự việc rõ ràng như thanh thiên bạch nhật, mà nhóm tranh đấu của Ấn Quang, được sự hỗ trợ ngầm của cộng sản nằm vùng, lải nhải vu không cho Việt Nam Quốc Tự chia rẽ Giáo Hội, Thích Tâm Châu phá hoại và lũng đoạn Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất. Thực như câu phương ngôn của Việt Nam thường nói: "Vừa đánh trống vừa ăn cướp, vừa ăn cướp vừa la làng" Cậy đông, lấy thịt đè người, mặc sức vu khống, thao túng không coi nhân quả là chi cả.
Cho đến nỗi những vị Tăng không biết chút gì về việc tranh đấu, việc xây dựng Giáo Hội, cũng như các vị Tăng, Ni, Phật Tử ở xa, hay sau này, cũng a dua, hùa theo sự tuyên truyền nhồi sọ của nhóm tranh đấu Ấn Quang và cộng sản nằm vùng trong suốt hơn 30 năm nay.  Thực tội nghiệp".
Nói thẳng thắn, cuộc chiến tranh Quốc-Cộng tại Việt Nam, không có một tôn giáo, một đoàn thể nào, không bị cộng sản nằm vùng gây chia rẽ phá hoại. Thiên Chúa Giáo có những cán bộ gộc nằm vùng như Vũ ngọc Nhạ, Huỳnh văn Trọng v. v... Phật Giáo cũng vậy, cộng sản nằm vùng từ thượng tầng, tới hạ tầng, càng dễ dàng hơn.
Và sau khi nhắc lại lời Hòa Thượng Thích Huyền Quang thường nói đi nói lại:
"Cộng sản từng tuyên bố: Phật Giáo Ấn Quang hai lần có công với cách mạng"
Hòa Thượng Tâm Châu viết tiếp:
"... Ngày 30.4.1975 là ngày cáo chung của chế độ Việt Nam Cộng Hòa. Nhưng bộ mặt thân cộng sản đã lộ rõ nguyên hình, không ai mà không rõ.
- Khi quân cộng sản từ rừng về Sài Gòn, đã có gần 500 Tăng, Ni của phe tranh đấu Ấn quang ra đón chào.
- Ngày 19. 5. 1975 phe tranh đấu Ấn Quang đã tổ chức mừng sinh nhật Hồ chí Minh tại Chùa Ấn Quang.
Một đoạn trong phần kết của Bạch Thư, Hòa Thượng Tâm Châu viết:
"Gần một thế kỷ nay, nhân loại bị đau khổ đến cùng cực bởi nạn "tập quyền" của cộng sản. Ba mươi năm nay Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống nhất chủ trương "tập quyền", chưa thấy đem lại tia hy vọng hòa hợp và an lạc cho đại chúng. Phật Giáo Việt Nam tại Hoa Kỳ triền miên trong sự chia rẽ, đã có hai, ba tổ chức thống nhất. Phật Giáo tại Úc,  "tập quyền"thống nhất trong tay một nhân vật tham độc, thiếu tài đức, gây bè phái, kỳ thị Trung,  Bắc, hãm hại huynh đệ, đồng đạo, mặc cho gần trăm ngàn Phật Tử Việt Nam tỵ nạn tại Úc không nơi nương tựa, mặc cho danh dự Phật Giáo Việt Nam bị tổn thương nặng nề.
Ôi! Phật Giáo Việt Nam.  Ôi! Phật Giáo Việt Nam.
Ai gây chi lắm điều đau khổ
Vũ trụ nài van đến nghẹn lời.
22. - Một người thân của gia đình Bác sĩ Thân Trọng Phước (xin được dấu tên) cho biết: Đầu tháng 5. 1963 một toán 5 người Mỹ từ Sài Gòn ra trú tại Tòa Tổng Lãnh Sự Mỹ ở Đà Nẵng. Mấy ngày sau, một trong số 5 người này cùng với người thông dịch viên tên Thân Trọng Huế, con Bác Sĩ Thân Trọng Phước, người Huế, ra Chùa Từ Đàm gặp Thượng Tọa Thích Trí Quang. Một tuần sau xảy ra biến cố "cờ Phật Giáo" và vụ nổ tại Đài Phát Thanh Huế. Sau đó 5 người Mỹ cùng với thông dịch viên Thân Trọng Huế trở về Sài Gòn.
Về vụ nổ này, trong hồi ký "Công và Tội", tác giả Nguyễn Trân quả quyết khi mới chân ướt chân ráo tới Mỹ giữa năm 1975, ông đã được đọc bài báo do James Scott viết, đang trên một Tập san. Qua bài báo này James Scott thú nhận chính anh là người đã ném chất nổ tại Đài Phát Thanh Huế tối ngày 8. 5. 1963. Lúc ấy vì tinh thần còn đang quá giao động, ông chưa nghĩ gì đến việc viết lách. Khi viết hồi ký "Công và Tội", ông đã đi tìm Tập san này trong nhiều Thư Viện nhưng không thấy. Ông viết thơ hỏi Bộ Quốc Phòng xin được liên lạc với Đại Úy James Scott thì được trả lời: Có hai James Scott và cả hai đều không còn hiện dịch, không có sổ hưu bổng nên không có địa chỉ.
Phải chăng Đại Úy James Scott không phải là một sĩ quan thuần túy của Quân Đội Mỹ?
Và trong Làm Thế Nào Để Giết Một Tổng Thống xuất bản từ cuối thập niên 60, Cao Thế Dung và Lương Vị Hoàng cũng đã phát giác thủ phạm vụ ném chất nổ tại Đài Phát Thanh Huế, là một Đại Úy người Mỹ tên là James Scott.
Nhưng người ta biết rằng, lúc ấy Quân Đội Mỹ ở Việt Nam qua vị Tư Lệnh của họ,  Tướng Paul D.  Harkins, luôn mạnh mẽ chống lại âm mưu lật đổ Tổng Thống Ngô Đình Diệm của chính quyền Kennedy, cách riêng của Đại Sứ Herry Cabot Lodge. Vậy thì làm sao một sĩ quan của ông lại có thể làm nhiệm vụ "bắn phát súng lệnh" để khai mào việc thực hiện âm mưu này?
Đi tìm dấu vết Đại Úy James Scott, may mắn tôi được cựu Trung Tá Lê Thiện Phước,  kể lại câu chuyện sau đây:
"Trước cuộc đảo chánh 1. 11. 1963, tôi (Lê Thiện Phước) là Phó Tỉnh Trưởng Nội An Biên Hòa. Sau đảo chánh được tuyên chuyển về Sư Đoàn I Bộ Binh làm Sĩ Quan Thanh Tra.  Trong nghiệm vụ này tôi đã quen biết tất cả các sĩ quan trong Sư Đoàn từ cấp Tiểu Đoàn Trưởng trở lên, trong đó Đại Úy Hồng Dũ Long Tiểu Đoàn Trưởng Tiểu Đoàn 1/3. Đầu năm 1965, một buổi chiều, Đại Úy Long đến thăm tôi tại Phòng Thanh Tra Sư Đoàn. Sau giờ làm việc chúng tôi rủ nhau đi ăn cơm Âm Phủ. Khi qua Cầu Tràng Tiền ngang Đài Phát Thanh,  Đại Úy Long buộc miệng nói:
- Mỗi lần qua chỗ này tôi lại nhớ đến và thương cho ông thầy cũ của tôi (Đại Úy Long trước kia là thuộc cấp của Thiếu Tá Đặng Sĩ). Tội nghiệp ông, phải mang cái án chung thân một cách oan uổng và âm mưu thâm độc của kẻ khác.
Và anh hỏi tôi:
- Anh có biết ai là thủ phạm vụ ném chất nổ tại đêm 8. 5. 1963 không?
- Khi nớ tôi đang ở Biên Hòa. Nay nghe mỗi người nói một ngã, mần răng mà biết được.
- Anh Đại Úy Cố Vấn của tôi đấy.
- Răng? Anh nói răng? Đại Úy Cố Vấn của anh là thủ phạm?
- Thì chính đương sự đã nói một cách úp mở cho tôi hiểu, anh ta là người đã ném chất nổ đêm 8. 5. 1963.
- Răng! Anh ta nói với anh ra răng?
- Cách nay chừng hai tháng, tôi mời Đại Úy Scott đi ăn cơm bên Câu Lạc Bộ Thể Thao.  (trên bờ Hữu ngạn Sông hương)
Khi đi ngang đây tự nhiên tôi cũng nhớ tới ông Sỹ và nói với Scott như vừa nói với anh. Scott xoay qua hỏi tôi:
- Anh có biết ông Sỹ nhiều không?
- Trước kia tôi làm việc dưới quyền ông mà.
- Tôi rất ân hận về trường hợp của ông Sỹ. Khi ấy tôi chưa vào Quân Đội. Tôi làm việc trong Tòa Tổng Lãnh Sự ở Đà Nẵng. Nhưng đêm 8. 5. 1963 tôi có mặt ở đây.
- Vậy anh có biết ai là thủ phạm vụ ném chất nổ đêm bữa ấy không?
Anh ta cười, không trả lời đúng câu hỏi của tôi, mà nói tiếp:
- Ai mà cho rằng Việt Cộng gây nên vụ nổ này thì thật là ngây thơ. Loại thuốc nổ ấy chỉ có CIA Mỹ mới có".
Qua câu chuyện trên, quý độc giả đã thấy rõ sự liên hệ giữa James Scott, nhân viên Tòa Tổng Lãnh Sự Mỹ tại Đà Nẵng với 5 người Mỹ từ Sài Gòn ra ở lại đây. Và một người trong 5 người ấy đã ra gặp Thượng Tọa Trí Quang trước khi xảy ra biến cố đẫm máu trẻ thơ vô tội tại Đài Phát Thanh Huế đêm 8. 5. 1963. Và tại sao sau này James Scott tuy mang cấp bậc Đại Úy,  nhưng không phải là sĩ quan hiện dịch, không có tên trong sổ hưu bổng của Bộ Quốc Phòng Hoa Kỳ. Và từ đó cũng thấy rõ ai là thủ phạm vụ gây ra cảnh chết chóc tang thương đêm 8. 5. 1963.
Khi Thượng Tọa Trí Quang vào Sài Gòn tuyệt thực chống hai Tướng Thiệu, Kỳ. Một người trong nhóm 5 người Mỹ này lại cùng với thông dịch viên Thân Trọng Huế đến gặp Thượng Tọa Trí Quang trao cho Thượng Tọa 4 triệu đồng. Mấy hôm sau Thượng Tọa Trí Quang ra lại Huế. Chừng 10 ngày sau đó, Huế và Đà Nẵng thành lập Mặt Trận Cứu Quốc, với lực lượng võ trang là Quân Đoàn Thủ Đô do Đại Tá Đàm Quang Yêu chỉ huy, tuyên bố ly khai chống lại chính phủ Trung Ương Sài Gòn.
Sau khi phong trào đấu tranh mang danh Phật Giáo của Thượng Tọa Trí Quang và đoàn quân của Đại Tá Yêu bị Tướng Nguyễn Cao Kỳ dẹp, số người Mỹ này và cả thông dịch viên Thân Trọng Huế đã di chuyển qua Thái Lan. Trước khi qua Thái Lan, anh Huế đã giới thiệu ông Trần Văn Thưởng hiện ở Tiểu Bang New Mexico thay anh, nhưng chỉ phụ trách phần quân sự. Qua Thái Lan một thời gian, anh Thân Trọng Huế bị tai nạn, khi được đưa về đến Việt Nam thì đã hôn mê và mất tại Sài Gòn.
23. - Những ai chú tâm theo dõi cuộc đối đầu giữa chính phủ Nguyễn Cao Kỳ và nhóm "Tranh Đấu" miền Trung hẳn đều biết, lần đầu Tướng Kỳ đưa quân ra dẹp nhóm "Tranh Đấu", đã không được người Mỹ tán đồng, không thỏa mãn những nhu cầu cần được yểm trợ.  Lại gặp thêm khó khăn vì một đơn vị Quân Đội, Tiểu Đoàn 11 Biệt Động Quân ly khai tham gia phong trào tranh đấu. Rút cuộc, mới đưa được vài đơn vị ra đến Đà Nẵng, Tướng Kỳ lại phải cho lệnh trở về.
Nhưng lần thứ hai, vào trung tuần tháng 5. 1966, sau khi Thượng Tọa Trí Quang phát động chiến dịch đưa bàn thờ Phật xuống đường thì tất cả đều quay ngược hẳn một trăm tám mươi độ, phi cơ, tàu thủy v. v... được cung cấp đầy đủ theo nhu cầu. Việc chuyển quân, vũ khí,  quân dụng... của Trung Ương được hoàn tất nhanh chóng.
Khi ấy, lực lượng "Tranh Đấu" tại miền Trung, (Huế, Đà Nẵng, Quảng Tín... ) gồm có Tiểu Đoàn 11 Biệt Động Quân ly khai với Trung Ương, vào đóng quân trong Chùa Tỉnh Hội Đà Nẵng, và các thanh niên "tranh đấu" được trang bị vũ khí lấy ra từ các kho địa phương.  Lực lượng này đã thành lập một Quân Đoàn với danh xưng Quân Đoàn Trần Hưng Đạo, quyết chống lại Quân Đội từ Sài Gòn ra với khí thế lên cao ngút ngàn, tưởng chừng như không lực lượng nào có thể vượt qua nổi.
Nhưng điều làm ngạc nhiên mọi người là, khi quân của Trung Ương tới nơi thì gần như không phải giao chiến. Lực lượng "Tranh Đấu" tan rã nhanh đến độ không ai ngờ.
Người có công đầu trong việc tạo ra điều "không ai ngờ" này là cựu Trung Tá Nguyễn Thừa Dzu, hiện cư ngụ tại Thành Phố Wesminster, Orange County, California.
Cựu Trung Tá Dzu kể lại với tôi:
"Khi ấy, với cấp bậy Đại Úy, tôi là Tiểu Đoàn Trưởng Tiểu Đoàn 11 Biệt Động Quân đồn trú tại Quận Tam Kỳ, Tỉnh Quảng Tín. Khi Tướng Nguyễn Chánh Thi bị chính phủ Trung Ương giữ lại tại Sài Gòn sau một cuộc họp, nhóm tranh đấu liền hướng ngay mục tiêu xuống đường của họ vào sự kiện này, nhằm khích động dân chúng chống lại chính phủ Trung Ương.  Là người khi ấy rất ngưỡng mộ Tướng Thi, tôi cho rằng mục đích của nhóm tranh đấu là chính đáng. Tôi đã đem cả đơn vị tham gia nhóm này một cách rất nhiệt tình, quyết liệt chống lại chính phủ Trung Ương. Lần đầu, Trung Ương không vận Chiến Đoàn M. 48 do Trung Tá Phan Hòa Hiệp chỉ huy và một Tiểu Đoàn Thủy Quân Lục Chiến ra Đà Nẵng để dẹp nhóm tranh đấu. Để giúp "phong trào tranh đấu" chống lại Trung Ương, tôi điều động Tiểu Đoàn của tôi,  một Chi Đoàn M. 113, một Pháo Đội 105, từ Tam Kỳ ra bao vây hai đơn vị này tại Phi Trường Đà Nẵng. Tướng Wall Tư Lệnh Sư Đoàn Thủy Quân Lục Chiến Hoa Kỳ đóng tại Đà Nẵng mới tôi đến, lấy lý do kéo dài tình hình bất ổn sẽ có lợi cho đối phương, khuyên tôi đừng chống chính phủ Trung Ương, tôi không chịu. Trước quyết định chống trả của tôi, Chiến Đoàn M. 48 và Tiểu Đoàn Thủy Quân Lục Chiến phải rút về. Trung Ương cho hai sĩ quan bạn tôi,  Đại Úy Trần Thụy Ly và Trần Văn Duệ ra tiếp xúc thuyết phục tôi hợp tác, tôi cũng không chấp nhận.
Sau vụ này, Đại Tá Đàm Quang Yêu Tư Lệnh Biệt Khu Quảng Đà, người tích cực ủng hộ "nhóm tranh đấu" đưa đơn vị của tôi về Đà Nẵng. Thời gian này, với vũ khí lấy ra từ các kho của Quân Đội, tôi đã thành lập thêm một Tiểu Đoàn gồm các thanh niên của nhóm tranh đấu, và cùng với Đại Tá Yêu thành lập Quân Đoàn Trần Hưng Đạo. Đại Tá Yêu nắm quyền Tư Lệnh Quân Đoàn này.
Nhằm gây thêm thanh thế với Trung Ương, uy tín với dân chúng, nhóm tranh đấu đã mời tôi đem Bộ Chỉ Huy Tiểu Đoàn vào đóng trong Chùa Tỉnh Hội Đà Nẵng, trụ sở đầu não của nhóm "Phật Giáo tranh đấu". Thời gian đóng ở trong Chùa, đi sát với các vị Sư, nhất là Thượng Tọa Thích Minh Chiếu, Chánh Sở Tuyên Úy Phật Giáo Quân Đoàn I, thấy nhiều người đi ra đi vào, cạo trọc đầu, đều phải gọi là Đại Đức... mà không biết xuất thân từ đâu. Ban đêm,  phía sau Chùa có nhiều người vào, đều ăn mặn. Một lần, đêm khuya cùng với sĩ quan Trưởng Ban 3 Tiểu Đoàn đi kiểm soát quanh Chùa, tình cờ tôi thấy dưới bàn thờ Phật chứa quá nhiều thuốc tây và truyền đơn. Tìm hiểu, tôi được biết số lượng thuốc lớn lao này là để tiếp tế vào bưng. Qua cung cách của những người lãnh đạo "nhóm tranh đấu", các hoạt động trong Chùa, cộng với tình hình an ninh chung suy sụp quá nhanh, tôi nhận thấy rõ ràng "nhóm tranh đấu", là do Việt Cộng điều khiển, tôi quyết định rút khỏi nhóm này. Quyết định của tôi bị một sĩ quan Đại Đội Trưởng, Trung Úy Tôn Thất Trực, người vẫn còn quyết liệt ủng hộ "nhóm tranh đấu", chống đối. Viện lý do nếu đóng toàn bộ Tiểu Đoàn trong khuôn viên chùa, khi quân của Trung Ương ra bao vây, sẽ không yểm trợ được cho nhau và không có đường thoát. Tôi cho Trung Úy Trực và Đại Đội của ông này ở lại trong Chùa, còn tôi, tôi đem toàn bộ lực lượng còn lại của Tiểu Đoàn ra đóng quân ở sân vận động Đà Nẵng.
Biết được tình hình này, Trung Ương lại phái hai Đại Úy Trần Thụy Ly và Trần Văn Duệ ra thuyết phục tôi hợp tác. Vì đã thấy rõ thực chất của "phong trào tanh đấu", lần này tôi nhận lời hợp tác với Trung Ương để giải quyết tình trạng bất ổn kéo dài quá lâu, đã gây nhiều hậu quả tai hại cho tình hình an ninh Quốc Gia.
Chúng tôi cùng nhau thảo ngay một kế hoạch hành quân.  Đề phòng sự chống đối của Trung Úy Tôn Thất Trực có thể gây trở ngại cho cuộc hành quân. Nhân dịp kỷ niệm ngày thành lập Tiểu Đoàn, tôi đề nghị thăng cấp Đại Úy giả định cho Trung Úy Trực,  đưa ông này vào làm Tiểu Đoàn Phó Tiểu Đoàn 39 Biệt Động Quân đóng tại Hội An.  Đồng thời tôi biệt phái cả Đại Đội 2 của Tiểu Đoàn cho đi theo Đại Úy Trực, với lý do giúp ông một thời gian trong nhiệm vụ mới.
Sau khi đã dẹp bỏ được trở ngại, đúng ngày giờ quy định, từ 1 đến 5 giờ sáng ngày N,  tôi điều động lực lượng của Tiểu Đoàn chiếm đóng tất cả các cơ quan đầu não quân sự và hành chánh, chận các ngã ra vào thành Phố, vây hãm tư thất các Tư Lệnh, với lý do có lực lượng Việt Cộng đột nhập Thành Phố. Trong khi đó, lực lượng của Trung Ương được chuyển vận bằng mọi phương tiện, kể cả hàng không dân sự, đổ xuống Phi Trường. Và khi trời vừa hừng sáng, họ tiến ra nhận bàn giao, thay thế Tiểu Đoàn 11 Biệt Động Quân của tôi kiểm soát toàn bộ các đơn vị Quân Đội, cơ quan hành chánh tại Đà Nẵng.
Khi đến giải tỏa Chùa Tỉnh Hội Đà Nẵng, lực lượng hành quân của Trung Ương đã gặp phải sự chống cự khá mạnh từ bên trong Chùa. Nhưng tuân hành lệnh của chính phủ, họ không tấn công vào Chùa. Mặc dù vậy, vì lực lượng còn lại trong Chùa chỉ gồm một ít thanh niên tranh đấu, và một số Quân Nhân lẻ tẻ thuộc các đơn vị chuyên môn, không có kinh nghiệm tác chiến và tinh thần chiến đấu. Vì thế nên cuộc giải tỏa Chùa, giải giới toán thanh niên võ trang của "nhóm tranh đấu" không gặp khó khăn nào đáng kể.
24. - Trong bản phúc trình về tình trạng tự do tín ngưỡng trên thế giới của Bộ Ngoại Giao Hoa Kỳ năm 1999, được công bố đầu tháng 9. 1999. Trong phần nói về tình trạng tự do tôn giáo ở Việt Nam dài 8 trang có đoạn viết:
"Giữa các tôn giáo ở Việt Nam hiện nay có mối quan hệ thân hữu tốt đẹp. Một số những va chạm của Phật Giáo với Công Giáo như trong thập niên 1960, chỉ là những sự kiện giới hạn ở tầm mức địa phương, và bị thúc đẩy bởi những ý đồ chính trị nhất thời".
"CẦN LAO CÔNG GIÁO GIẾT PHẬT TỬ?"
1. - Sau ngày 1 tháng 11 năm 1963, tình hình hỗn loạn xảy ra khắp nơi, nhiều cơ quan chính quyền từ địa phương lên đến Trung Ương, người ta nhận được hàng loạt đơn tố cáo: "Cần Lao Công Giáo tiếp tục trả thù đàn áp, giết hại Phật Tử". Hầu hết số đơn này cũng như những đơn tố cáo chính quyền đàn áp Phật Giáo thời còn Tổng Thống Ngô Đình Diệm, đều được gửi đi từ các khuôn Hội Phật Giáo tại các Tỉnh được chính quyền Quốc Gia tiếp thu sau khi Hiệp Định Geneva được thi hành (Quảng Ngãi, Bình Định, Phú Yên). Sau đây là một trường hợp điển hình.
Ngay sau khi nền Đệ I Cộng Hòa bị lật đổ, Thiếu Tá H. N.  (còn ở Việt Nam) Trung Đoàn Trưởng, Tiểu Khu Trưởng kiêm Phó Tỉnh Trưởng Nội An một Tỉnh phía Nam Đà Nẵng bị bắt giam. Ông bị Tỉnh Hội Phật Giáo địa phương thưa: "Sĩ quan Công Giáo, đảng viên đảng Cần Lao, đã giết một Đại Đức của Tỉnh Hội".
Khi nắm quyền Tư Lệnh Quân Đoàn I Quân Khu I kiêm Đại Biểu Chính Phủ Trung Nguyên Trung Phần, một hôm Tướng Nguyễn Chánh Thi đến thăm Quân Lao trong Thành Mang Cá nhỏ, ông cho kêu Thiếu Tá N.  lên trình diện. Ông hỏi Thiếu Tá N:
- Anh đã giết một Đại Đức Phật Giáo phải không?
- Thưa Trung Tướng, tôi giết một tên cán bộ cộng sản đội lốt tu sĩ, chứ tôi không giết Đại Đức Phật Giáo.
- Tại sao anh nói người ta là cộng sản?
- Thưa Trung Tướng, xin Trung Tướng bình tĩnh coi lại hồ sơ của ông này. Nếu Trung Tướng không tin thời Đệ I Cộng Hòa, xin đừng coi hồ sơ thời kỳ ấy. Trung Tướng cứ coi hồ sơ từ thời Pháp đến thời các chính phủ trước Đệ I Cộng Hòa để lại, Trung Tướng sẽ thấy tôi nói đúng hay sai.
Sau khi nghe Thiếu Tá H. N.  trình bày, Tướng Thi ôm vai ông nói:
- Đúng, toa nói đúng. Trước khi ra đây, moa đã coi kỹ hồ sơ của tên này, y đúng là một cán bộ cộng sản quan trọng, phải giết, dù y đội lốt tu sĩ Phật Giáo. Thôi được, toa yên chí, vụ này để moa thu xếp cho.
Một tháng sau, vụ án Thiếu Tá H. N.  đăng đường với tội danh: "Cần Lao Công Giáo giết Đại Đức Phật Giáo". Trong lúc Chánh Án và Bồi Thẩm Đoàn đang ngồi đợi giờ xử thì Đại Tá Khoan, một sĩ quan trong thành phần Bồi Thẩm Đoàn từ Đà Nẵng ra mang theo một văn thư của Tướng Thi gửi ông Chánh Án. Nhận văn thư, ông Chánh Án mở ra đọc cho Bồi Thẩm Đoàn nghe. Tướng Thi yêu cầu Tòa ngưng viên xử, vì nội vụ cần được điều tra bổ túc.  Văn thư được đóng dấu ấn Đại Biểu Chính Phủ. Ông Chánh Án tỏ ra rất lo ngại trước quyết định của Tướng Thi. Vì ông thấy đó là một điều quá nguy hiểm trước khí thế của "phong trào đấu tranh mang danh Phật Giáo" lúc bấy giờ. Thấy vậy, Đại Tá Khoan đề nghị ông Chánh Án lấy ý kiến Bồi Thẩm Đoàn bằng cách bỏ phiếu kín.  Kết quả, tất cả Bồi Thẩm Đoàn đều đồng ý với quyết định của Tướng Thi. Và cuối cùng, Thiếu Tá H. N.  được trả tự do.
Cựu Trung Tá Lê Thiện Phước, khi ấy là Sĩ Quan Thanh Tra Sư Đoàn I Bộ Binh đã tháp tùng Tướng Thi trong cuộc thăm Quân Lao Mang Cá nhỏ và cũng là thành viên trong Bồi Thẩm Đoàn của vụ án kể trên.
2. - Tháng 4 năm 1965, Sở I An Ninh Quân Đội khám phá ra tổ chức Liên Hiệp Sinh Viên-Học Sinh của Việt Cộng trong đó có vài Phật Tử, với tài liệu đầy đủ. Chùa Tỉnh Hội Đà Nẵng can thiệp yêu cầu thả những người này. Thiếu Tá Nguyễn Văn Ứng Chánh Sở không thỏa mãn với lý do: Nội Vụ đã được trình lên Tướng Thi Tư Lệnh Quân Đoàn. Mấy ngày sau,  một truyền đơn được rải khắp Thành Phố Đà Nẵng. Truyền đơn mang nội dung: "Yêu cầu Trung Tướng Nguyễn Chánh Thi phải đuổi tên Thiếu Tá Ứng ra khỏi Thành Phố. Tên Thiếu Tá Cần Lao ác ôn, tay sai Nhu-Diệm đàn áp Phật Giáo. Nếu sau 48 tiếng đồng hồ, tên Ứng còn có mặt ở Đà Nẵng, chúng tôi sẽ xin y tý huyết".
Cùng thời gian này, Cảnh Sát Quốc Gia Đà Nẵng bắt một tên đặc công Việt Cộng vào đặt chất nổ tại Khách Sạn Morin, nơi Quân Nhân Mỹ thường xuyên vào ăn uống. Khai thác không tìm ra được manh mối gì. Nội vụ được giao qua cho Sở An Ninh Quân Đội. Tại đây,  Thiếu Tá Ứng khai thác tên đặc công, đã khám phá ra một tổ đặc công quan trọng. Nhờ khai thác kịp thời, khối chất nổ lớn đặt trong một vỏ radio đựng trong một cái túi xách có nhãn hiệu Air Việt Nam đã được vô hiệu hóa kịp thời, tránh được một vụ phá hoại có thể gây nhiều chết chóc.
Đến 10 giờ tối ngày 29. 4 Tướng Thi đích thân đến Sở An Ninh Quân Đội ra lệnh cho Thiếu Tá Ứng chuẩn bị hồ sơ, đưa tổ đặc công này ra trình diện phái đoàn báo chí từ Sài Gòn sẽ ra vào ngày hôm sau.
Chiều 30. 4, trong cuộc họp báo do Tướng Thi chủ tọa, Thiếu Tá Ứng dẫn toán đặc công ra mắt các phóng viên. Tướng Thi đã hết sức hài lòng về những thú nhận của toán Việt Cộng này trước các ký giả.
Sáng hôm sau 1. 5, ngày Quốc Tế Lao Động, Tướng Thi với tư cách Tư Lệnh Quân Đoàn kiêm Đại Biểu Chính Phủ, tập họp các đơn vị Quân Đội và Hành Chánh tại Bộ Tư Lệnh Quân Đoàn, khen thưởng và gắn huy chương cho các nhân viên hữu công trong vụ khám phá tổ đặc công trên đây. Thiếu Tá Ứng được tuyên dương công trạng trước Quân Đoàn, được tưởng thưởng một Anh Dũng Bội Tinh với Ngôi Sao Vàng.
Nhưng chỉ ngày hôm sau, ngày 2. 5, Tướng Thi lại có một quyết định hoàn toàn trái ngược với việc ông làm hôm trước. Ông ký lệnh tuyên chuyển Thiếu Tá Ứng qua Sư Đoàn 2 Bộ Binh, cho ra khỏi Ngành An Ninh Quân Đội, mà không cho biết lý do tuyên chuyển và việc phải ra khỏi ngành chuyên môn của anh.
Để kết thúc chương này, tôi xin giới thiệu cùng quý độc giả lời một nữ trí thức và một vị Bác Sĩ trình bày trước Phái Đoàn Đại Diện Liên Hiệp Quốc, về thái độ của Tổng Thống Ngô Đình Diệm đối với Phật Giáo và bài "Một Thời Vang Bóng" của Đại Sứ Hà Vĩnh Phương. Cả ba vị trên đây đều là Phật Tử thuần thành.
Riêng về Đại Sứ Hà Vĩnh Phương, khi chấp thuận đề nghị của Giáo Sư Bửu Hội, yêu cầu Liên Hiệp Quốc cử Phái Đoàn qua tìm hiểu tại chỗ về lời cáo buộc Chính Phủ Việt Nam vi phạm nhân quyền, Tổng Thống Diệm đã cử Giáo Sư Bửu Hội làm Đặc Phái Viên của Tổng Thống Việt Nam Cộng Hòa cạnh Liên Hiệp Quốc. Ông Hà Vĩnh Phương khi ấy đang là Đại Sứ Việt Nam Cộng Hòa tại Tây Đức, Đam Mạch, Na Uy và Thụy Điển, đồng thời là Đại Diện Việt Nam Cộng Hòa trong Hội Đồng Thống Đốc Cơ Quan Nguyên Tử Năng Quốc Tế, được cử Phụ Tá cho Giáo Sư Bửu Hội. Bài viết liên quan đến biến động Phật Giáo năm 1963 của ông, được đăng trong Đặc San Tiếng Sông Hương do Hội Ái Hữu cựu Học Sinh Trường Quốc Học Huế xuất bản năm 1996, nhân dịp kỷ niệm 100 năm ngày thành lập trường này.
1. - Nhân chứng số 38: Một nữ trí thức mà lý lịch của bà và những sự kiện bà viết về cuộc Biến Động,  đã được bà khai trước Phái Đoàn Liên Hiệp Quốc như dưới đây:
"Với tuổi tác, kinh nghiệm và sự nghiệp của tôi, tôi biết rõ xứ này. Tôi thuộc một dòng họ đông đảo nhất của nước Việt Nam. Đó là một vọng tộc gồm những người trí thức. Chúng tôi theo Phật Giáo và Khổng Giáo, chúng tôi thờ phụng tổ tiên và thờ Phật... Tôi muốn đem những điều hiểu biết của tôi giúp đỡ quý vị và do đó giúp đỡ thế giới và xứ sở của tôi... "
Khi được Phái Đoàn hỏi bà đã chứng kiến những biến cố nào trong tháng 5 tại Huế? Bà trả lời:
- Tôi dự lễ tại Chùa Từ Đàm.
- Có gì xảy ra tại đấy?
- Thầy Thích Trí Quang đã giải thích các biểu ngữ, các biểu ngữ chống Chính Phủ.
- Nói cách khác, có người đã lợi dụng buổi lễ để tuyên truyền chống Chính Phủ?
- Vâng, nhưng đó chỉ là sự khởi đầu.
Khi được hỏi về các nhà Sư tự thiêu bà đáp:
- Nói về các vụ tự thiêu tôi muốn đề cập đến vấn đề chính trị. Trước kia, tôi là một cố vấn và ngay cả trong thời gian ấy Việt Cộng phỉnh phờ được đủ hạng người. Các lời đồn do Việt Cộng phao ra, lan tràn khắp nơi.
Ngoài ra ai cũng có thể làm nhà Sư cả. Có những Sư thật và sư giả, Phật Tử thật và phật tử giả. Vì không có sự kiểm soát nào trong các Nhà Chùa (Chính Phủ cũng không thể kiểm soát Chùa chiền) nên không có cách gì để phân biệt thật hay giả. Vậy có thể có những trá hình.  Tôi dám nói rằng các nhà sư quá khích nhất chính là những người cộng sản. Những nhà Sư thật là những người thực hành theo các đức hạnh Phật Giáo như bất bạo động, không ganh tị, từ bi.
Ở đây chúng tôi rất khoan hòa về tôn giáo. Ai cũng có thể xây Chùa không cần xin phép trước. Do đó, không thể kiểm soát xem họ có cộng sản hay không. Tôi biết hiện giờ Việt Minh đang tìm cách gây một cuộc chiến tranh tôn giáo.
- Có phải một trong những lý do của các cuộc biểu tình là sự ưu đãi đối với người Thiên Chúa Giáo và sự ngược đãi người theo Phật Giáo không?
- Tôi rất ngạc nhiên nếu có như vậy. Trong các cơ quan và trong mọi ngành hoạt động,  Phật Tử đông hơn người theo các tôn giáo khác.
- Bà giải thích thế nào về sự kiện, năm nầy, Chính Phủ cấm treo cờ Phật Giáo nhân ngày Khánh Đản của Đức Phật.
- Chính Phủ quyết định về các ngày vía Phật và vía Khổng Tử. Trước Chính Phủ này,  các ngày ấy không phải là ngày lễ.
Tổng Thống Ngô Đình Diệm là một người theo Thiên Chúa Giáo, nhưng Tổng Thống có thái độ khoan dung với các tôn giáo khác. Trong các trại lính, có những Chùa bên cạnh Nhà Thờ. Bộ Trưởng Bộ Nội Vụ ký sắc lệnh ấn định cờ Phật Giáo và Thiên Chúa Giáo có khích thước bằng nhau nhưng không được quá 2/3 cờ Quốc Gia.
Các biến cố đã xảy ra ngay trong Thành Phố. Ngày ấy, trong im trời nóng 34 độ. Dân chúng kéo cờ, và cờ Quốc gia thường thường nhỏ hơn cờ Phật Giáo. Điều ấy xảy ra nhiều Tỉnh khác, nhưng các Tỉnh Trưởng tự mình kiểm soát để Sắc Lịnh được áp dụng. Ở đây, Tỉnh Trưởng ra lịnh cho Cảnh Sát phụ trách. Trong vài trường hợp lẻ tẻ, Cảnh Sát không đối xử tử tế với quần chúng.  (Báo Cáo Phái Đoàn Liên Hiệp Quốc. Trang 204)
2. - Nhân chứng số 39. Một vị Bác Sĩ mà lý lịch của ông và một vài sự kiện, nhận xét,  liên quan đến lời cáo buộc Tổng Thống Ngô Đình Diệm kỳ thị Phật Giáo được ông khai trước Phái Đoàn Liên Hiệp Quốc như sau:
" Đầu tiên, tôi muốn tự giới thiệu, không phải vì khoe khoang, nhưng để làm sáng tỏ vài phương diện của vấn đề. Tôi là Bác Sĩ. Tôi học ở Pháp. Tôi theo Phật Giáo, gia đình tôi theo Phật Giáo từ nhiều đời, em gái tôi là Ni Cô từ 1950 và từ khi ở Pháp về, tôi là Bác Sĩ chính thức của hầu hết tất cả Ni Cô và nhà Sư ở Sài Gòn, đặc biệt, các nhà Sư trong Giáo Hội Tăng Già Việt Nam cột trụ của phong trào Phật Giáo. Quý vị có thể hỏi các nhà Sư kiểm chứng điều tôi nói. Tôi đã chữa bệnh cho tất cả: Ngài Hội Chủ ở Huế, Chủ Tịch Ủy Ban, mọi hội viên khác,  dù được tự do hay bị giam giữ và những năm sau này, thỉnh thoảng tôi chữa bệnh cho Tổng Thống Ngô Đình Diệm. Tôi đã làm trung gian giữa Tổng Thống Ngô Đình Diệm và các Phật Tử khi cần thiết. Bắt đầu phong trào tháng 5. 1963, theo sự yêu cầu của các nhà lãnh đạo Phật Giáo, tôi đã đứng ra làm trung gian giữa Tổng Thống Diệm và các Phật Tử. Vâng, tôi tiếp xúc trực tiếp với chính Tổng Thống, chứ không phải với Chính Phủ....
Tôi đã tham dự nhiều cuộc hội kiến giữa Tổng Thống Ngô Đình Diệm và vài nhà lãnh đạo Phật Giáo trước biến cố 8. 5. Các cuộc hội kiến được tổ chức đặc biệt, để ban cho các nhà lãnh đạo Phật Giáo vài đặc ân như cho đất, rừng hay tiền bạc để xây Chùa. Tôi gặp Tổng Thống hai ba ngày sau ngày 8. 5 và tôi có thể làm chứng rằng Tổng Thống xem các biến cố ấy như là một tai họa lớn nhất cho xứ sở chúng tôi. Tổng Thống đã yêu cầu tôi can thiệp, một mình hay với tất cả gia đình và bạn hữu của tôi, để hết sức giảm thiểu các hậu quả khốc hại có thể xảy ra.
Khi được hỏi: Ông bảo rằng với tư cách là Bác Sĩ, ông đã chữa bệnh cho nhiều nhà Sư,  nhất là Hòa Thượng Thích Tịnh Khiết. Hòa Thượng hiện nay gần 90 tuổi, có còn đầy đủ khả năng không?
- Vâng, tôi muốn nói rằng Hòa Thượng Thích Tịnh Khiết vẫn còn sáng suốt, nhưng vì giáo lý của đạo ngài, Hòa Thượng từ khước mọi hoạt động trong phạm vi chính trị quốc tế. Từ khi giữ chức vụ hiện tại, Hòa Thượng không thể kiểm soát được phong trào và tôi nghĩ rằng,  xem Hòa Thượng như Giáo Hoàng của Phật Giáo là một sự lầm lẫn, bởi về chính Thượng Tọa Thích Thiện Hòa, Thượng Thủ Giáo Hội Tăng Già mới là nhân vật cao nhất của Phật Giáo xứ này. Ở đây, có một điều cần cắt nghĩa. Thượng Tọa Thích Thiện Hòa trước kia là người ủng hộ Hòa Thượng Thích Tịnh Khiết và những người hầu Hòa Thượng Thích Tịnh Khiết đã đầu cơ về việc đó và làm cho những người ở Việt Nam cũng như ở ngoại quốc, tưởng rằng Hòa Thượng Thích Tịnh Khiết là nhân vật quan trọng nhất.
Và cuối cùng vị Bác Sĩ này đã trình bầy trước Phái Đoàn nhận xét của ông về con người Tổng Thống Diệm đối với vấn đề tôn giáo như sau:
Vì tôi có những tiếp xúc trực tiếp với Tổng Thống, tôi có thể nói dù rằng Tổng Thống theo Thiên Chúa Giáo, Tổng Thống đã nghiên cứu các triết lý Phật Giáo và Khổng Giáo. Tổng Thống cũng không gần Thiên Chúa Giáo hơn Phật Giáo. Tổng Thống hiểu rõ các Phật Tử.
Một vài xu hướng tinh thần của Tổng Thống lại đượm màu sắc Phật Giáo hơn Thiên Chúa Giáo. Nếu các kết luận của một cuộc điều tra là có sự kỳ thị về phía Chính Phủ đối với Phật Giáo,  ý kiến của tôi là Tổng Thống không theo đuổi một đường lối chính trị kỳ thị đối với Phật Giáo". (Phúc Trình Liên Hiệp Quốc. Trang 207)
Một điều thiết tưởng quý vị độc giả cũng cần biết, đó là: Các nhân chứng đến khai trước Phái Đoàn Tìm Hiểu Sự Việc (Facht-Finding Mission) của Liên Hiệp Quốc đều là những người tự đến xin gặp Phái Đoàn, hoặc được Phái Đoàn trực tiếp mời, theo tin tức họ nhận được về sự liên hệ cũng như hiểu biết của những người này, đối với cuộc tranh đấu được gọi là "của Phật Giáo". Chính quyền không được biết và cũng không được giới thiệu bất cứ người nào đến gặp Phái Đoàn. Vì vậy mà trong phúc trình, Phái Đoàn không ghi rõ tên các nhân chứng mà chỉ ghi số.
Nhờ được Chính Phủ dành cho quyền hoạt động rộng rãi và hoàn toàn tự do như vậy,  Phái Đoàn đã gặp được một số Tăng sĩ, một vài sinh viên mà theo báo cáo Phái Đoàn nhận được, họ đã bị mất tích, bị thủ tiêu v. v...
Bản phúc trình Phái Đoàn báo cáo lên Hội Đồng Liên Hiệp Quốc, đã bị áp lực từ phía Mỹ, đặc biệt là từ Đại Sứ Cabot Lodge, đã không được phổ biến cho báo chí. Vì sự thật của sự việc đã hoàn toàn trái ngược với những gì Đại Sứ Lodge và một số báo chí Hoa Kỳ đã báo cáo với Chính Phủ và nhân dân nước họ.
Và như nhiều người đã biết, những biến động được mang danh "Cuộc tranh đấu của Phật Giáo", được khởi sự từ tháng 5. 1963, chỉ được chấm dứt vào cuối năm 1966. Sau khi cuộc tranh đấu đã đi tới tột đỉnh của sự "phạm thượng" bằng hành động đưa bàn thờ Phật ra bày la liệt ngoài đường phố, đặt ảnh Đức Phật ở nhiều nơi hoàn toàn bất xứng, các tăng sĩ ra ngồi giữa đường chận xe tăng, chận đường tiến quân của Quân Đội miền Nam và bị Chính Phủ Nguyễn Cao Kỳ dẹp tan không nương tay.
Và rõ ràng hơn, mục đích cuộc tranh đấu của nhóm quá khích do Thượng Tọa Thích Trí Quang lãnh đạo, cũng đã được ông tiết lộ với nữ phóng viên Marguerite Higgins tại Chùa Xá Lợi hồi trung tuần tháng 7. 1963.
"Chúng tôi không thể dàn xếp được với Bắc Việt cho đến khi trừ khử được Diệm và Nhu". (Our Vietnam Nightmare. Trang 28)
Ngoài ra, trong phong trào tranh đấu "mang danh Phật Giáo" do Thượng Tọa Thích Trí Quang lãnh đạo chống lại điều được gọi là "Chính sách kỳ thị tôn giáo" của Tổng Thống Ngô Đình Diệm, có hai nhân vật mà việc họ tham gia và rút khỏi phong trào này đã gây ra nhiều thắc mắc. Đó là ông Mai Thọ Truyền và Đại Đức Thích Đức Nghiệp.
1. - Ông Mai Thọ Truyền là Hội Trưởng Hội Phật Học Nam Việt, người đã trực tiếp nhận số tiền 2. 000. 000 đồng của Tổng Thống Ngô Đình Diệm giúp cho công việc xây cất Chùa Xá Lợi do ông chủ xướng. Và hai tháng trước khi xảy ra biến cố "cờ Phật Giáo", với tư cách là Phó Hội Chủ Hội Phật Giáo Thống Nhất Việt Nam, ông cũng đã được Tổng Thống Diệm mời vào gặp cùng với Đức Khâm Sứ Tòa Thánh Vatican, để yêu cầu lưu ý tín hữu về việc phải tôn trọng cờ Quốc Gia trong các cuộc lễ lược của mỗi tôn giáo.
Khi phong trào tranh đấu của nhóm Thượng Tọa Trí Quang nổi lên, không những ông đã làm thinh về những cử chỉ vừa kể trên đây của Tổng Thống Diệm, ông còn để cho nhóm Thượng Tọa Trí Quang dùng Chùa Xá Lợi làm Tổng hành dinh điều khiển cuộc đấu tranh.
Nhưng sau khi Tổng Thống Ngô Đình Diệm bị lật đổ, ông đã trục xuất Thượng Tọa Trí Quang và nhóm tranh đấu ra khỏi Chùa Xá Lợi, khi cuộc tranh đấu của nhóm này được tiếp tục.
2. - Đại Đức Thích Đức Nghiệp là "Phát ngôn viên chính thức" của Phong trào tranh đấu của nhóm Thượng Tọa Thích Trí Quang trong giai đoạn chống Tổng Thống Ngô Đình Diệm.
Sau khi Tổng Thống Diệm bị lật đổ, người ta thấy ông không còn giữ vai trò "phát ngôn viên" của phong trào này. Và một thời gian sau ông được qua Mỹ du học.