Tôi thật tốt số. Vợ tôi tuy hơi chậm chạp nhưng nấu ăn khá ngon. Vốn ít nói, việc gì cũng chỉ cặm cụi làm. Làm xong, nếu được khen là thích và tự cho rằng như thế cũng bỏ cái công cặm cụi. Thực ra, trong chúng ta, phần lớn đều như vậy. Ngoại trừ một số trường hợp đặc biệt, kết quả làm lụng thì khiêm tốn nhưng nói năng lại rất vang vang, thậm chí chẳng "làm gì cho tổ quốc" mà cứ đòi hỏi hoài, bao nhiêu cũng thấy chưa đủ, rồi hoặc là sinh ra ấm ức, bất mãn, hoặc là gây ra đến lắm cái nhùng nhằng phiền phức. Một lần, buổi chiều, sau một ngày làm việc và học tập rã rời, mấy bố con tôi cùng đói meo, chẳng thể làm được việc gì, thậm chí là nghe nhạc Johann strauss, bèn quây quần vào mâm cơm. Trên mâm mới chỉ có độc một cái bát tộ trắng hoác hơ, mấy cái bát ăn cơm, nắm thìa cùng đũa và cạnh đó là nồi cơm đã chín. Tôi buồn thiu, còn hai đứa con thì làm dịu cơn đói bằng cách gõ bát khua môi ầm ĩ. Những đứa trẻ, chẳng ai dạy, vẫn làm như thế đã từ hàng ngàn năm nay. Vợ tôi, mặt đỏ gay vì nóng, lật đật bê từ trong bếp ra một cái nồi. - Có đây, có đây! Gớm, nóng tính thật! Chiều nay vội quá. Hôm nay nhà mình ăn "chuyên đề". Mấy bố con chịu khó nhé. Ăn "chuyên đề", theo lối nói của vợ tôi, nghĩa là trên mâm có nhõn một món! Thằng anh nghe thấy vậy thì mặt mũi liền ỉu xìu và tỏ thái độ bằng cách tiếp tục khua bát đũa. Vung được mở ra. Trật tự được lập lại tức thì, không cần đến một câu nhắc nhở hoặc khiển trách nghiêm khắc thông thường, bởi trung ương thần kinh của ba bố con đã nhận được những thông tin về mùi và, trong khoảnh khắc, đưa ra những dự đoán khá chính xác về vị. Chúng tôi lập tức bị khuất phục bởi các hạt vật chất nhỏ li ti, từ cái nồi ấy, nhẹ bay ra và quện vào nhau thành một làn khói vừa dễ thương mà vừa đầy quyền lực. Vợ tôi, mấy sợi tóc bết trên trán vì mồ hôi mồ kê, cầm lấy cái bát tộ, nghiêng mặt né làn hơi nóng hôi hổi đang bốc lên nghi ngút từ miệng cái nồi, thận trọng múc thức ăn ra. Hai đứa con tôi dướn cổ lên, đưa những cái cánh mũi đang phập phồng về phía làn khói thơm phức, đầy sức mê hoặc mà "thám hiểm". - Món gì mà thơm thế mẹ ơi? - Thằng anh, vốn háu ăn, lim dim hít hà. - Giả cầy! - Con em nói, giọng đầy kiến thức - anh quên rồi à? - Đúng đấy, con gái có khác, nhưng món này vẫn chưa phải là tuyệt chiêu của mẹ đâu! - Tôi nói, giọng có lẫn chút nịnh đầm, nhưng vì phản ánh đúng hiện thực khách quan nên không gặp một chút phản ứng khiêm tốn nào, dù là yếu ớt. Con em, thoắt cái, trở nên hoạt bát, kéo nồi cơm về phía mình và bắt đầu xới cơm cho cả nhà. Thằng anh háu đói như bố, bắt chước tôi, gắp tạm ứng ngay một miếng, đưa vào miệng, ngồi thẳng dậy, nhai nhồm nhoàm; thỉnh thoảng nó dừng lại, tâm trí dường như dồn cả vào miếng thịt trong miệng. Lát sau, nó gật gù mãn nguyện: "Mẹ nhà mình đúng là bậc kỳ tài trong thiên hạ!". Tôi cười đồng tình: Mùa hè vừa rồi cu cậu mới đọc được bộ Tam quốc diễn nghĩa có khác! Những thứ mắm tôm, rượu trắng, củ xả, củ giềng, mẻ, chân giò thui vàng ươm... nếu để riêng rẽ thì biết rồi đấy: cũng thường thôi! Nhưng, quả thực, một khi chúng tụ hội với nhau thì ghê gớm thật; ngay đến bậc hiền nhân quân tử, dù cứng cỏi đến mấy, cũng phải bất giác mà xao xuyến, tim đập rộn ràng, nụ cười rộng mở. Cơm trắng sốt dẻo, rưới chút nước vàng sậm, sền sệt riêng có của thứ nước bì móng giò, ăn với những miếng thịt vàng xậm, có đủ cả bì với mỡ cùng nạc, đã được thui đến độ cháy cạnh và ngấm nghía vào đó đầy đủ cái cay nồng ấm nóng của khóm giềng bên bể nước mưa, cái cay mát thoảng ngọt của khóm xả trong góc vườn sau nhà, cái vị chua dịu dàng của thứ mẻ được đựng trong những cái âu sành hoặc cái bình tích sứt vòi để bên bếp nấu, bụi tro rơm rạ phủ lên một lớp mỏng để rồi cùng với hơi ấm của lửa ấp ủ nuôi dưỡng nên cái vị mà mỗi khi nhớ về một miền quê, không ai không thấy nó hiện lên. Bé mọn thế thôi nhưng chính chúng là những sợi trong vô vàn những sợi lớn sợi bé tạo nên cái vầng cội sừng sững của một nền văn hoá khiêm nhường mà sang trọng, sáng trong mà quật cường. Tất cả những thứ đó, cho thêm một chút rượu đục (thứ mà cụ Nguyễn Trãi vẫn ưa dùng) cùng bóp lẫn vào thịt sống, để cho hương và vị đủ ngấm đến tận từng thớ thịt rồi mới đặt lên bếp. Kể cũng lạ: Trước khi chế biến, rượu là rượu, giềng là riềng, xả là xả, mẻ là mẻ, mắm tôm là mắm tôm... thứ nào có cái tôi của thứ ấy, không thứ ý chí ẩm thực nào - dù là độc tài và sắc bén đến mấy - có thể cơ học mà đổ đồng được! Vậy mà một khi được những đôi tay mềm yếu của phụ nữ xứ ta phối lại với nhau, chúng lại cho ta một hoà vị hoà hương tuyệt đến mức, xin đánh cuộc, đến cụ Tản Đà cũng phải bối rối! Mà sao lại gọi là giả cầy? Tôi không dám võ đoán vì đã e biết đâu từ "giả" lại chẳng phải là một từ Hán Việt. Vậy là tôi đi tìm các cụ cao niên để hỏi. Thì ra cái sự cẩn thận của tôi là thừa. Từ "giả" là một từ thuần Việt, có nghĩa là không thật. Ngày xưa, thịt chó không sẵn, muốn ăn thường phải mấy nhà rủ nhau đụng một con. Mà cũng là nhân dịp gì đấy thì mới làm. Bấy giờ chợ búa chủ yếu là bán thịt lợn và thịt gia cầm. Thịt lợn - nếu diễn đạt theo lối thời nay - được gọi là "cơm". Những gia đình có mức sống từ trung lưu trở xuống cũng chỉ mua mỡ là chủ yếu, để ăn được lâu, tiết kiệm mà khớp đầu gối vẫn trơn tru nhẹ nhõm. Đôi khi, phấn khởi lắm cũng chỉ mua đến miếng dọi là cùng. Còn thịt chó thì được coi là "phở", chỉ để ăn chơi trong những lúc "trời đi vắng" thôi, chứ có đâu như bây giờ: Công nghệ Cầy tơ đa món, đa phương phát triển đến mức thịnh hoạt, người ăn thuộc đủ các hạng, chẳng kể sang hèn, bất lương hay không, đều ngồi xếp bằng trên phản, bên cạnh có mấy em mắt xanh mỏ đỏ lả lơi chuốc rượu tiếp nhắm cho cái sự ẩm thực thêm phần trữ tình. Nghĩ mà xem, bình thường có ai gọi thịt lợn, thịt gà, thịt bò... là đặc sản đâu. Nhưng thịt chó thì có đấy! Bởi cấu tạo vật lý và thành phần hoá học của nó có cái đặc biệt và cách chế biến cũng có cái "không giống ai". Phàm người nào trong đời đã có một lần được thưởng thức thì lần sau chỉ cần thoáng ngửi, dù chỉ là một sợi khói vương lên từ kẽ vung, thì lập tức à lên một tiếng, nở một nụ cười chan chứa phong vị "ẩm thực" rồi phán: chính nó! Vì vậy, để sửa chữa cái khuyết điểm vì đã nghèo túng vất vả, không phải lúc nào thích mà có được ngay cái thứ thịt chó huyền bí đó, người ta bèn sáng kiến ra cách dùng thịt lợn, chế biến theo lề lối của thịt chó để thoả mãn đáng kể niềm hứng khởi khiêm tốn của mình. Món đó được gọi là giả cầy, phỏng theo món dựa mận, đỉnh cao của nền thịt chó chân chính mà vùng nào cũng có. Từ xưa, thường, con người ta vốn ghét cay ghét đắng hoặc không đánh giá cao những gì gọi là giả. Tỷ như trong lĩnh vực Nhân học: giả nhân giả nghĩa, giả điên, giả điếc, giả tạo, giả dối, giả trá... Hoặc trong lĩnh vực Đồ đạc học: giả da, giả vàng, giả kim cương, giả hiệu, giả cổ... ấy là thường, vậy tất phải còn những cái không thường. Từ xưa, chẳng phải đã có những người giả điên giả dại để bảo toàn bí mật cho tổ chức của mình; chẳng phải đã có những người giả điếc để đào tạo lớp trẻ và sống được qua những thời minh di đó sao?... Các loại chân tay giả chẳng phải đã đưa các thương bệnh binh, những người không may tàn tật tiệm cận lại với cuộc sống? Trong một buổi tiếp tân, chẳng phải bạn đã từng giả như không thấy một sơ xuất vô hại của ai đó, tránh cho người ấy một khó xử tế nhị đó sao? Phụ nữ xứ nào chả thích làm đẹp, nhưng đâu có phải tất cả đều có đủ năng lực tài chính để thực hiện đầy đủ việc đó. May sao, những người chỉ quan tâm đến cái đẹp thuần mỹ đã có ông Mỹ Ký hỗ trợ. Số còn lại, có thiên hướng tài chính, thì bĩu môi, lười biếng hé mắt: Chà, đồ mỹ ký!. Nhưng tất cả đều có một điểm chung là coi thường các loại "Học vấn mỹ ký", "Danh vọng mỹ ký". Tất nhiên, ở đây, mỹ ký đã trở thành một tính từ đích thực, hai mặt, như biểu tượng Thái cực vậy. Đáng tiếc là ở chỗ, con người ta rất ít khi khai thác nó ở phần ý nghĩa đẹp đẽ! Phải chăng, cái sự giả thứ hai này xuất phát từ cái tâm muốn vươn lên cái chân mỹ, từ năng lực không ngừng say mê sáng tạo vì cái chân thiện? Vậy nên có những cái, tuy giả mà lại cao quí, đáng trân trọng; Giả cầy nằm trong số đó! Bố con tôi thành thực hỷ hả, hồn nhiên lặn hụp trong không khí bữa ăn gia đình. ở đây, mọi lễ nghi rườm rà đều gác lại, chữ Lễ được cải tiến, tinh giản hơn, sao cho trong khuôn khổ đó cái tôi hồn nhiên, hàm chứa nhiều "tiềm năng", được phát triển thoải mái tự tại. Hạnh phúc đã đạt đến độ viên mãn, bằng chứng là thằng con trai tôi, sau khi ăn xong, vươn vai đứng dậy bên cái nồi đã sạch bóng, hứng khởi phát tác: "Mẹ nhà mình muôn năm!". Và lập tức, con em cũng giơ tay, hô tướng lên: "Bố nhà mình cũng thế!". Vợ tôi ngừng tay dọn mâm bát, ngồi yên, ngắm các chúng sinh, nở một nụ cười mãn nguyện. Thực ra, phần lớn các bà vợ xứ ta, ít nhiều, đều có cái nhu cầu được chăm sóc, quán xuyến chồng con và, trong tầm điều tiết của mình, đều muốn cho chồng con mình luôn được thoả mãn, sung sướng và phát triển hết công suất. Hai hôm sau, bố con tôi lại được gặp lại món giả cầy yêu thích. Không khí bữa ăn vẫn hào hứng. Khi thu dọn mâm, vợ tôi múc chỗ còn lại, cho vào một cái bát con sạch sẽ tinh tươm: "Mẹ không cho vào tủ lạnh đâu, lát nữa học xong, đứa nào thấy đói thì ăn nhé!" Cuối tuần đó, ngày nghỉ có nhiều thời gian, vợ tôi - như đã nói trên, chỉ nhăm nhăm muốn cho chồng con mình luôn được thoả mãn, sung sướng - lại mở đại hội giả cầy. Ăn được mấy miếng, tôi có cảm giác uể oải thế nào ấy. Quan sát hai đứa con, tôi thấy hình như chúng cũng thế. Nhưng, nhờ trời, có lẽ người cũng phú cho chúng cũng một chút phẩm chất tinh tế thì phải: Cảm xúc ẩm thực cho dù là kém sôi động, nhưng chúng vẫn cứ gắp, cứ múc đều đều, khéo léo không để lộ ra cái vẻ nhẫn nại đầy ý chí rất có thể làm rầu lòng mẹ chúng. Kết thúc bữa ăn, thấy vợ ngồi thừ, nhìn nồi giả cầy vẫn còn đến phân nửa, nét mặt thoáng buồn, tôi thấy thương quá. Lúc ấy, trên ti vi đang có chương trình ca nhạc Những bài hát về Hà Nội. Nhạc dạo đầu của bài Nhớ về Hà Nội vừa cất lên, tôi liền cầm lấy cái điều khiển chuyển phắt sang kênh khác. Thật may, kênh này cũng đang có một chương trình ca nhạc: Mùa xuân, mùa xuân, một mùa xuân nho nhỏ, lặng lẽ dâng cho đời... "Bố thích nhạc vui hả bố?" - Con em, vừa bưng cho tôi chén nước, vừa trêu chọc bố. "ừ!" - Tôi cười, trả lời cho qua chuyện. Nhớ về Hà Nội là một bài hát rất hay, được rất nhiều người yêu thích. Cách đây trên dưới hai chục năm gì đó, lúc bấy giờ tôi chưa lập gia đình, chương trình truyền hình của ta chưa phong phú và thời lượng phát sóng chưa cao như bây giờ. Cứ mỗi buổi chiều, trước giờ phát sóng chính thức nửa tiếng, đài truyền hình Hà nội bắt đầu phát đi bài này. Dân mình, chẳng hiểu thế nào, chẳng ai bảo ai, cứ đến giờ đó là nhất loạt bật máy thu hình; rồi từ đủ các loại máy lớn máy bé, "made in" từ nhiều quốc gia với đủ cấp chất lượng, phần lớn đã qua sửa chữa và sang tay nhiều chủ, cùng phát ra đủ loại chất lượng âm thanh với nhiều cỡ âm lượng, dội từ nhà này sang nhà khác, và cứ thế, như một dàn đồng ca được nhân bản vô tính, ùa ra tràn ngập cả các vỉa hè, đường phố. Còn tôi, cũng vào giờ đó, rời nhiệm sở, vai đeo nhũng nhẵng chiếc túi đựng vài thứ tài liệu lằng nhằng cùng chiếc cặp lồng cơm trưa đã rỗng không, uể oải đi bộ từ Bờ Hồ, trên nền ca khúc đó, dọc theo Hàng Bài, phố Huế để về nhà. Bài hát quả là tuyệt. Tôi thầm cảm ơn đài truyền hình đã tặng tôi món quà âm nhạc đó vào cái giờ mệt mỏi nhất trong ngày và vừa đi vừa lắng nghe, vừa nuốt lấy từng lời của ca từ, từng nốt nhạc óng chuốt của cái khúc thức chậm rãi, lịch lãm, đầy hoài niệm và man mác buồn của ca khúc đó. Tai ù đặc, đầu nóng ran, tôi đứng phắt dậy, tiến về phía cái tivi tắt đánh phụp. Yên ắng trở lại, đầu tôi nhẹ bỗng. Mẹ vẫn thản nhiên ngồi cấu từng cuộng rau. Tôi nằm xuống giường, duỗi thẳng hai tay hai chân, nhắm mắt thiếp đi. "Dậy rửa mặt rồi ăn cơm con!" - Mẹ dịu dàng vỗ nhẹ vào vai tôi. Tôi mở mắt, nhìn mẹ, lòng tràn ngập một tình cảm biết ơn của con trẻ. Ngày nào mẹ cũng chăm sóc, che chở cho tôi như một cậu bé; mấy chục năm rồi cứ như thế mà sao không thấy chán, thấy nhàm; kỳ diệu thay quả tim con người! Mấy phút chợp mắt đó, như một liều thuốc tốt, khiến tôi tỉnh hẳn ra, cảm giác thư thái tự tại đã trở lại. "Mẹ không bật tivi mà xem hả mẹ?". "Để cho con ngủ. Mẹ có bật lên cũng chỉ để cho vui nhà thôi mà!" - Mẹ cười hiền từ - "Bố anh! Thau nước rửa mặt mẹ để ở đầu hè ý, chóng lên không nguội hết cơm canh bây giờ!" Tôi ngồi im, thờ thẫn nhớ lại những chuyện đó. Vợ tôi thấy vậy, đem cho tôi gói thuốc lá và cái gạt tàn rồi ngồi xuống bên, cười dịu dàng: - Em xin lỗi bố con. Ngày mai em sẽ làm món Cua đồng rang mẻ - rồi cô quay sang hai đứa - các con thấy thế nào? - Hoan hô! Mẹ muôn năm! - Mới mẻ muôn năm! - Liên tục mới mẻ muôn năm! Hai đứa, được lời như cởi tấm lòng, xếp hàng một, hớn hở diễu xung quanh chiếc chiếu bố mẹ đang ngồi cùng với các thứ mâm bát chưa dọn, hồn nhiên hét toáng lên và, sau đó, hai cặp môi hồng tươi bắt đầu say sưa cử nhạc: En én, en èn, ẹn èn, en en En én en èn, ẹn èn, en en... (Chưa có bao giờ đẹp như hôm nay Non nước mây trời lòng ta mê say ...)Tháng 3 năm 2005