Một hôm Hiến cùng Nhạc ngồi đàm đạo có Huệ và Lữ đứng hầu bên cạnh. Bỗng nghe tiếng đàn bà hát ru con rằng: Chiều chiều én liệng Truông Mây Cảm thương chàng Lía bị vây trong thành. Huệ nghe vòng tay hỏi: - Bẩm thầy, tên Lía trong chữ Hán viết như thế nào? Xin thầy chỉ dạy. Hiến đáp: - Tiếng Nam ta có nhiều từ mà chữ Hán không viết được. Ví như chữ Lía con vừa hỏi đó. Huệ hỏi: - Thế lúc Lía tập hợp dân khởi nghĩa ở Truông Mây, quan trấn thủ dâng sớ báo về triều thì viết chữ “Lía” như thế nào? Hiến đáp: - Điều này ta cũng không rõ, có lẽ viết tên Lía bằng chữ Nôm của nước Nam ta vậy. Huệ lại hỏi: - Thế tại sao triều đình không dùng chữ Nôm của nước ta, viết chiếu chỉ văn thư thay cho chữ Hán, để khi truyền đạt cho dân chúng không cần đến người dịch nghĩa. Theo con nghĩ như thế chẳng tiện hơn sao? Hiến đáp: - Từ xưa đến nay đã thành lệ như thế. Vả lại chưa thấy có ông vua nào có ý thay đổi quốc tự cả. Huệ quay sang Nhạc thưa: - Đại huynh, ngày sau đại huynh có làm vua nhất định phải đem chữ Nôm thay cho chữ Hán, chứ dùng văn tự của người Tàu thì làm sao gọi là quốc tự được. Nhạc chỉ mặt Huệ mắng rằng: - Ngươi là đứa con nít mới mười tám tuổi dám ngỗ nghịch nói càn. Quốc tự là việc lớn trong thiên hạ há để cho đứa con nít như ngươi bàn đến hay sao? Vả lại vua và chúa còn sờ sờ ra đó, muốn ta mất đầu hay sao mà buông lời xằng bậy. Mau ra ngoài cho ta hầu chuyện với thầy. Huệ sợ hãi lui ra. Hiến nói : - Ta thấy ý của Huệ là ý hay, nhưng không biết sau này có ai làm được hay không. Còn Huệ là em, chắc hiểu được được chí của anh nên mới nói thế chăng? Nhạc vội vã thưa : - Xin thầy chớ nghe lời trẻ con rồ dại. Tôi giữ phận con dân, chỉ biết đem trầu của miền ngược bán về miền xuôi, đem muối ở miền xuôi bán lên cho người Thượng, tần tảo thay cha nuôi em. Nếu nó có nói như thế ấy là ý của nó mà thôi. Xin thầy chớ để tâm làm gì. Hiến trầm ngâm nói : - Chẳng giấu gì anh, ta vốn là tùy tướng của quan Thái úy Trương Văn Hạnh. Quan Thái úy bị loạn thần Trương Phúc Loan làm hại phải chết, ta đành bỏ kinh thành trốn vào đây để giữ lấy thân. Nay ta thấy ở Đàng Ngoài vua Lê bị chúa Trịnh lấn áp. Trịnh - Nguyễn phân tranh lấy sông Linh Giang làm ranh giới nội chiến ngót trăm năm, dân tình thống khổ. Trong thì chúa Nguyễn chỉ lo hưởng lạc để trăm quan bóc lột lương dân. Gần đây Phúc Loan tham lam bạo ngược bá tánh lại càng thêm điêu đứng. Ta với anh có duyên hội ngộ, thân thế của ta từ lâu có dám thổ lộ với ai đâu. Người xưa có câu : “Đồng thanh tương ứng, đồng khí tương cầu”, giấu nhau làm chi nữa. Vả chăng đem muối bán cho người Thượng chỉ là cái cớ, chẳng phải anh dự trữ một thứ lương thực không có gì thay thế được, mưu lấy vùng núi rừng Tây Sơn Thượng làm nơi dụng võ hay sao. Việc ấy chỉ che mắt kẻ khác chứ lừa được ta ư. Nếu anh đã có chí thay đổi cơ trời, ta xin giúp một tay, trước cứu muôn dân sau báo thù cho chủ tướng. Nhạc thất kinh sụp lạy : - Nhạc tôi có mắt không tròng, toan lấy vải thưa mà che mắt thánh. Thấy dân trong phủ lầm than, tiếng kêu oan đã thấu đến trời, tôi muốn làm như Lương Sơn Bạc quy tụ anh hùng định đánh đuổi quan trấn thủ Quy Nhơn là Nguyễn Khắc Tuyên cho thoả lòng nghĩa hiệp mà thôi, chứ thân chưa ra khỏi núi rừng, chưa biết được điạ lợi nhân hòa thì dám đâu thay đổi cơ trời. Nay việc đã lỡ cúi xin thầy anh minh dạy bảo. Hiến đỡ Nhạc dậy hỏi : - Hiện nay việc ấy anh đã làm đến đâu rồi ? Nhạc thưa : - Tôi quy tụ được năm trăm quân nghĩa đóng ở Tây Sơn Thượng, hiện đang giao cho Nguyễn Văn Tuyết trông coi việc phá rừng khai khẩn đất hoang tự lo lấy việc binh lương. Trong lúc ban đầu khai khẩn, thiếu lương thực nuôi quân, bạc tiền hết sạch, nếu để quân đói cướp bóc của dân thì còn gì là chính nghĩa. Thầy có cao kiến gì xin mách bảo cho. Hiến còn đang suy nghĩ, bỗng Huệ bước vào chấp tay thưa : - Bẩm thầy và đại huynh, con có một kế. Nhạc tức giận toan quát, Hiến ngăn lại : Cứ để Huệ nói xem, anh đừng xem thường kẻ hậu sanh khả úy. Nể lời thầy Nhạc nín thinh, Huệ nói : - Hiện nay mỗi tháng Biện lại Vân Đồn thu thuế của dân lên đến trăm lạng vàng. Đại huynh lúc buôn trầu có quen biết Đốc Trưng Đằng trông coi thuế khóa trong phủ Quy Nhơn. Nay đại huynh lo lót cho hắn xin làm Biện lại Vân Đồn, ta thu thuế ba tháng, sau đó bỏ chức đem bạc vào nuôi quân. Lúc ấy ta khai khẩn rừng hoang ở Tây Sơn Thượng, đất đai hàng trăm dặm thì vạn quân còn nuôi nổi, cứ gì năm trăm quân. Xin đại huynh xét lại. Hiến khen : - Diệu kế ! Nhưng ta không đành làm cướp đêm, lại đi làm cướp ngày sao được ? Huệ đáp : - Dù đại huynh không nhận chức cũng có người khác làm thay e rằng càng khổ cho dân hơn nữa. Vả lại nhân dân vốn khiếp sợ quân quan triều đình. Quan sai người đến lấy thuế, dân lập tức n đều phải qua ải này. Ta dựa vào thế núi hiểm trở chống giặc dù chúng có thiên binh vạn mã cũng chẳng hề chi. Trong có thể khích được lòng quân sĩ, ngoài có thể khiến giặc kiêu căng mà không phòng bị, đợi Chúa công kéo đại binh ra ta sẽ đuổi chúng đi. Ấy là kế “không thành” trên toàn cõi Bắc Hà, xem như ta cho chúng ngủ trọ một đêm nào có hại gì. Nếu Chúa công bắt tội, Ngô Thì Nhậm tôi xin chịu, các vị chớ lo. Ngô Văn Sở trầm ngâm nói: - Chúa công bắt tội cả bọn ta cùng chịu sao đổ lỗi một mình ông. Nhưng cách này mới là thượng sách. Vậy phiền Ngô mưu sĩ mau thảo một lá thư giảng hòa, tôi sai người tâm phúc đem dâng Tôn Sĩ Nghị làm kế hoãn binh để ta có đủ thời gian gọi quân các trấn lui về hội tại Thăng Long. Ngô Thì Nhậm nghe lời lập tức thảo thư. Ngô Văn Sở lại gọi quân đến bảo: - Hãy đem lệnh bài của ta đến gọi các quan trấn thủ phải kíp lui binh về Thăng Long. Trên đường rút có dừng quân nấu ăn rồi phải xóa ngay mọi dấu vết và vãi gạo sống đầy đường. Ai sai lệnh chém đầu. Phan Văn Lân đứng lên nói: - Tôi xin đem một ngàn tinh binh đến sông Như Nguyệt chặn giặc. Nguyễn Văn Tuyết vội can Lân: - Đại tư mã vừa hạ lệnh rút binh, ai sai lệnh chém đầu. Sao Văn Lân còn xin đi đánh giặc. Lân đáp: - Ấy là tôi làm theo lệnh rút quân của Đại tư mã Ngô Văn Sở đó chứ. Tuyết ngạc nhiên hỏi: - Văn Lân nói vậy là ý thế nào. Lân đáp: - Quân các trấn ở Bắc Hà muốn rút về Nam đều phải về hội tại Thăng Long. Nếu ta không ngăn giặc ở bờ Nam sông Như Nguyệt để quân Thanh tiến đến Thăng Long ắt quân ta ở các trấn không còn đường rút. Nay tôi xin đem quân chặn giặc cho quân ta ở các trấn kịp lui về. Ấy chẳng phải là làm theo lệnh của Đại tư mã Ngô Văn Sở ư. Ngô Văn Sở nói: - Phan đệ muốn đánh giặc Thanh và đã tìm được một lý do rất là chính đáng. Nhưng chỉ xin ngàn quân sao ngăn được giặc? Lân đáp: - Quân cốt giỏi chớ chẳng cốt nhiều. Nếu quân Thanh đến được Thăng Long trước quân các trấn của ta rút binh về, Văn Lân tôi xin chịu mất đầu theo tướng lệnh. Văn Sở bảo: - Vậy Phan đệ hãy đi đi. Khi có tin báo quân ta đã lui kịp thì phải lập tức rút ngay. Phan Văn Lân mừng rỡ lãnh lệnh mà đi.Nam ca tụng Nguyễn Huệ dùng binh như thần. Sao mới nghe tiếng ta đã mất mật xin giảng hòa. Phen này ta quyết bắt anh em thằng buôn trầu Nhạc - Huệ trị tội dám dấy loạn giết chúa đuổi vua thì cần gì phải xem thư Nguyễn Huệ. Nói xong Nghị xé toạc thư quăng xuống đất rồi thét võ sĩ lôi sứ Tây Sơn ra chém tức thì. Lê Quýnh và Trần Danh Án là hai sứ thần của vua Lê Chiêu Thống thấy vậy quỳ tâu: - Đại tướng quân thật là uy vũ anh minh. Bỗng quân vào báo rằng: - Thưa đại tướng quân, vua An Nam là Lê Chiêu Thống xin vào ra mắt. Tôn Sĩ Nghị liền mời vào. Chiêu Thống vào đến, Lê Quýnh và Trần Danh Án cùng quỳ thi lễ rồi vua tôi ôm nhau ứa lệ. Vua Chiêu Thống nói: - Nhờ hai khanh lội suối trèo đèo sang thiên quốc cầu viện nên đại tướng quân mới đem binh sang giúp. Phen này ắt là đuổi được giặc mạnh Tây Sơn phục hồi nước cũ của Tiên đế. Chiêu Thống nói xong, Tôn Sĩ Nghị cười lớn mấy hồi. Chiêu Thống ngạc nhiên hỏi: - Đại tướng quân cười gì mãi thế. Tôn Sĩ Nghị vừa cười vừa nói: - Vua tôi các ngươi thật là bất tài nên mới cho Nguyễn Huệ là anh hùng, quân Tây Sơn là giặc mạnh. Đối với ta, chúng chỉ là loài chim chuột mà thôi. Vừa nghe quân ta tới ải Nam Quan, Nguyễn Huệ đã vội sai sứ đến cầu hòa. Ta vừa chém đầu sứ giả của Nguyễn Huệ đó! Đoạn Nghị quay lại bảo quân: - Truyền lệnh ta lập tức xuất binh đưa Tân vương về nơi cố quốc. Quân Thanh tiến liền một mạch đến bờ Bắc sông Như Nguyệt. Nhìn sang bờ Nam thấy đồn lũy quân Tây Sơn canh phòng cẩn mật, Tôn Sĩ Nghị cười bảo: - Từ ải Nam Quan đến đây, quân Tây Sơn sợ chạy vắt giò lên cổ không dám dừng quân nấu ăn. Chúng lợi dụng sông Như Nguyệt vừa rộng vừa sâu lại là cửa ngõ của thành Thăng Long nên đóng quân ngăn binh thiên triều. Vậy ta hãy tạm nghỉ ngơi chờ hai đạo quân của Sầm Nghi Đống và Ô Đại Kinh đến rồi cùng tiến đánh Thăng Long. Lê Chiêu Thống ngạc nhiên hỏi: - Quân Tây Sơn nghe tiếng thiên binh đến đã sợ mà chạy về đây. Nhưng từ biên giới đến đây hết năm, bảy ngày đường chẳng lẽ chúng nhịn đói hay sao mà đại tướng quân bảo chúng không dám dừng quân nấu ăn. Tôn Sĩ Nghị cười đáp: - Bệ hạ còn nhỏ không rành binh pháp nên không biết đấy thôi. Trên đường tiến quân ta không thấy bếp lò của giặc mà chỉ thấy gạo rơi vãi đầy đường. Ấy là chúng không dám dừng quân nấu ăn, phải nhai gạo sống mà chạy đó. Chiêu Thống vỡ lẽ tấm tắc khen: - Đại tướng quân liệu việc như thần. Quân Tây Sơn quả nhiên sợ uy danh đại tướng quân như sợ cọp. Không biết Sầm Nghi Đống và Ô Đại Kinh có biết việc này mà tiến binh cho nhanh chăng? Nam mà không gặp một sự kháng cự nào. Sầm Nghi Đống bảo quân: - Chúng bay dò xem trên đường rút chạy, giặc dừng quân nấu nướng ở đâu rồi báo cho ta hay. Quân đi một hồi quay lại báo: - Thưa tướng quân, chúng tôi chia quân lùng sục khắp nơi mà không thấy bếp lò nấu ăn của giặc. Sầm Nghi Đống vừa ôm bụng vừa ngửa mặt lên trời cười lớn mấy hồi. Tả hữu ngạc nhiên hỏi: - Tướng quân cười gì mãi thế? Đống nín cười đáp: - Trên đường tiến quân ta thấy giặc Tây Sơn để gạo rơi vãi đầy đường, giờ nghe báo không thấy bếp lò nấu ăn của giặc. Ta cười vì nghe quân ta đến đây, giặc Tây Sơn sợ đến nỗi không dám dừng quân nấu ăn phải nhai gạo sống mà chạy. Thật xưa nay chưa từng thấy oai nào lớn như vậy. Đoạn Sầm Nghi Đống truyền quân thẳng tiến. Đến bờ Bắc sông Như Nguyệt gặp quân Tôn Sĩ Nghị. Nghị họp các tướng nói: - Nếu ngày nay quân Ô Đại Kinh chưa đến kịp, ngày mai quân ta vẫn tiến đánh Thăng Long. Nam . Trên đường tiến quân thấy gạo rơi vãi khắp nơi, Ô Đại Kinh nghĩ thầm rằng: - Xưa nay người Nam nước nhỏ ít quân nên giỏi đánh phục binh. Trên đường tiến quân không thấy quân Tây Sơn dừng quân nấu ăn, chỉ thấy gạo rơi vãi đầy đường. Chẳng lẽ chúng nhai gạo sống mà chạy ư? Hay chúng dụ ta khinh thường đem quân vào sâu rồi phục binh đổ ra đánh. Ta phải đề phòng mới được. Đoạn Ô Đại Kinh bảo quân: - Mau dừng quân đóng trại canh phòng cẩn mật, cho quân thám mã đi trước dò la tin tức, có gì nghi hoặc phải lập tức phi báo. Tả hữu hỏi: - Quân Tây Sơn sợ ta đã bỏ trốn cả, sao tướng quân không gấp tiến vào Thăng Long trước để lập công đầu. Ô Đạin Vũ Văn Nhậm quê quán ở phủ Quảng Nam, mồ côi cha mẹ. Đầu quân triều đình làm đội trưởng, bị quan trên chèn ép mới bỏ đến đây. Nghe tên quan này ban ngày ban mặt hãm hiếp con gái nhà lành mới giết đi định ra đầu thú. Bởi trong trời đất này không có chỗ dung thân ta nữa rồi. Còn cao nhân là ai, có thể cứu được kẻ cùng đường này sao mà hỏi những lời ấy ? Huệ nói : - Tôi tên Nguyễn Huệ, anh tôi là Nguyễn Nhạc dấy binh ở Tây Sơn, chiêu hiền đãi sĩ mong làm việc đại nghĩa cứu rỗi muôn dân. Nếu tráng sĩ không chê là phường đạo tặc thì có thể cùng nhau một phen lấp biển vá trời chăng? Vũ Văn Nhậm bái tạ xin theo. Huệ bèn dẫn Nhậm về nhà ra mắt Nguyễn Nhạc, kể lại sự tình rồi nói : - Nay tôi xin đến chiêu tập Ngô Văn Sở, Phan Văn Lân và Bùi Thị Xuân đều là trang thiếu niên anh kiệt, vốn cùng tôi kết nghĩa đệ huynh, tình như thủ túc. Sau đó đại huynh đưa chúng tôi lên Tây Sơn Thượng xây dựng doanh trại, huấn luyện binh sĩ. Rồi đại huynh đệ về xin nhận chức Biện lại Vân Đồn. Hẹn ba tháng sau đón đại huynh lên đường cùng khởi sự.
/div> Lân ra ngoài xem xét thấy quân Thanh đã bắc cầu vào tầm đạn đại bác, Lân liền hạ lệnh: - Mau tập trung súng bắn vào cầu ấy cho ta. Súng Tây Sơn ầm ầm nhả đạn, cầu quân Thanh lọt vào tầm súng đều đổ vỡ cả. Quân Thanh liền chạy về báo cùng Tôn Sĩ Nghị. Nghị hạ lệnh: - Thượng Duy Thăng đem một vạn quân chặt tre, chuối làm bè rồi làm hình nộm đặt lên bè, chờ đêm đến thả bè thuận gió bấc trôi sang trại địch. Thượng Duy Thăng bước ra lãnh lệnh. Nghị lại bảo: - Trương Triều Long đem năm ngàn quân lên thượng nguồn sông Như Nguyệt tìm chỗ nước cạn vượt sông rồi đánh vào sau lưng địch. Trương Triều Long bước ra lãnh lệnh. Nghị hăm hở nói: - Hứa Thế Hanh, Sầm Nghi Đống đốc thúc toàn quân kết thật nhiều bè chờ Trương Triều Long phá địch ở bờ °
° °
Nói về Tôn Sĩ Nghị đem đại binh đến ải Nam Quan gặp lúc tối trời liền dừng quân đóng trại. Chợt quân vào báo có sứ giả Tây Sơn đến xin ra mắt. Tôn Sĩ Nghị liền cho vào hỏi: - Nguyễn Huệ sai ngươi đến đây có việc gì? Sứ giả đáp: - Chúa công tôi xin Đại tướng quân hãy rút binh về tránh cho hai nước khỏi nạn can qua. Chúa tôi xin lui quân về đất Tây Sơn, trả nước cho vua Lê. Đây là thư Chúa tôi viết, trình đại tướng quân duyệt lãm. Tôn Sĩ Nghị cầm thư đắc ý cười lớn: - Ta nghe người nước°
° °
Nói về Sầm Nghi Đống dẫn quân theo đường Cao Bằng tiến sang nước°
° °
Nói về Ô Đại Kinh dẫn quân theo đường Tuyên Quang tiến vào nước