8.- Học đường
Thứ sáu, ngày 28

" Enricô con ơi! Việc học đối với con hình như khó nhọc, mẹ con nói phải đấy. Cha chưa bao giờ trông thấy con đi học với cái dáng quả quyết và nét mặt hớn hở như cha mong muốn! Con thử tưởng tượng nếu con ngồi không ở nhà thì ngày giờ của con sẽ trống trải biết là dường nào! Cha chắc chỉ trong vòng một tuần lễ là con lại muốn trở lại nhà trường. Con ơi! Hiện thời, không một đứa trẻ nào là không đi học. Con hãy nghĩ đến những người thợ làm lụng cặm cụi cả ngày, tối đến còn phải cắp sách đi học, những cô thiếu nữ suốt tuần lễ bị giam giữ trong xưởng, chủ nhật đến cũng rủ nhau đi học, những binh lính hết giờ luyện tập cũng đem ra học, viết. Cho đến những trẻ mù, trẻ câm, chúng cũng đều học cả.
Mỗi buổi sáng, lúc con ra trường, con hãy nghĩ cùng giờ ấy, trong thành phố ta có tới 3 vạn đứa trẻ cũng như con đi "chầu" lớp học trong ba tiếng đồng hồ để được mở mang trí tuệ. Con lại nghĩ: xấp xỉ giờ này, con trẻ trong các nước trên hoàn cầu đều đi học cả. Con hãy tưởng tượng những trẻ lếch thếch trên những đường hẽm nhà quê, rảo bước trong các phố phường huyên náo, dưới bầu trời oi ả hay trong cơn mưa tuyết lạnh lùng: chúng đi thuyền ở những xứ lắm sông ngòi, cưỡi ngựa qua những cánh đồng mông quạnh, hoặc ngồi "xe trượt" trên những bãi băng giá lanh. Chúng xuống lũng, lên đồi, chúng xuyên rừng lội suối, chúng vượt qua những ngọn đồi hẻo lánh hoang vu. Ăn mặc hàng nghìn lối khác nhau, nói bằng trăm thứ tiếng khác nhau, chúng đi một mình hay lũ năm lũ ba, sách cắp trong tay hay cặp đeo dưới nách.
Từ ngôi trường cùng tột lấp trong ánh tuyết nước Nga cho tới nóc trường hẻo lánh lẩn trong khóm gồi xứ Ả rập, có tới hàng triệu triệu đứa trẻ cùng học một điều bằng những thể thức khác nhau.
Con lại tưởng tượng cái tổ kiến học sinh ấy gồm có hàng trăm dân tộc khác nhau và cái trường hoạt động ấy, con có cái hân hạnh dự phần rồi con tự nhủ: ví phỏng một mai sự hoạt động ấy ngừng hẳn thì nhân loại sẽ trở lại đời mọi rợ, sẽ sa vào cõi tối tăm, sự hoạt động ấy là sự tiến bộ, là mối hy vọng, là ánh sáng vinh quang của thế giới vậy.
Cố lên! Tên lính nhỏ trong đạo quân lớn lao kia! Cố lên! Con ơi! Lấy sách vở làm khí giới, lấy lớp học làm quân đội, lấy thế giới làm bãi chiến trường, coi sự ngu dốt là cứu địch và lấy sự văn minh của nhân loại làm cuộc khải hoàn, con phải phấn đấu luôn luôn và chớ hề làm tên lính hèn nhát. "

Truyện TÂM HỒN CAO THƯỢNG Lời người dịch 1.- Ngày khai trường 2.- Thầy giáo mới 3.- Một tai nạn 4.- Cậu bé miền Nam 5.- Bạn tôi 6.- Lòng hào hiệp 7.- Trên rầm thượng. (1) 8.- Học đường 9.- Lòng yêu nước của cậu bé thành Pađôva (1) 10.- Em bé quét mồ hóng 11. Người bán than và ông quý phái 12. Mẹ tôi 13.- Học trò nghèo 14.- Ân nhân của bạn Nelli 15.- Em bé trinh sát 16.- Kẻ khó 17.- Tính khoe khoang 18.- "Chú phó nề" 19.- Quả cầu tuyết 20.- Các cô giáo trường tôi 21.- Thăm ông già bị nạn 22.- Chàng viết mướn thành Phirenzê 23.- Lòng biết ơn 24.- Thầy giáo phụ 25.- Đứa con người thợ rèn 26.- Phranti bị đuổi 27.- Chú lính đánh trống, người đảo Xarđenha 28.- Lòng ái quốc 29. - Bà mẹ anh Phơranti 30.- Chiếc xe hoả máy 31.- Một kẻ tù phạm 32.- Làm khán hộ cho cha 33.- Chú hề con 34.- Ngày cuối cùng hội Giả trang 35.- Những trẻ em mù 36.- Lớp học tối 37.- Đám đánh nhau 38.- Người tù số 78 39.- Trước ngày 14 tháng Ba 40.- Lễ phát phần thưởng 41. Lòng cháu 42.- Chú phó nề trong phút hiểm nghèo 43.- Viện dục anh 44.- Thầy học cũ của cha tôi 45.- Kỳ dưỡng bệnh 46.- Bạn ta là thợ 47.- Bà mẹ anh GARÔNÊ 48.- Lòng nghĩa hiệp 49.- Hy sinh 50.- Một vụ hoả tai 51.- Quê người tìm mẹ 52.- Trường câm điếc 53.- Đi ngoài phố 54.- 32 độ 55.- Cha tôi 56.- Thú quê 57.- Cuộc phát thưởng cho thợ thuyền 58.- Lời cảm tạ 59.- Đắm tàu 60.- Trang cuối cùng của mẹ tôi