BI TÌNH TIỂU THUYẾT
Chương 4

Hai người còn đương ngồi dưới gốc cây, chợt nghe sau lưng có tiếng hỏi rằng: Hai người có biết lối ra đường cái đâu? Xin chỉ cho  với, nàng và người tiểu đạo quay đầu lại nhìn, thì là một kẻ du  khách phương xa đi đến, người ấy ăn mặc kiểu kinh, đội nón gò găng, chân đi giày dừa, mình mặc áo the đen, trạng mạo cũng phong nhã tuấn tú. Nàng Tú Cầu bấm tay người tiểu đạo, không  trả lời ra sao cả.
Khách lại hỏi: Hai chị em cô có biết làng này là làng gì?  Chùa ấy của ai?
Người tiểu đạo lấy tay chỉ vào trong dậu tre, nói rằng: Chùa  tên Linh Ẩn, sư cụ trụ trì ở đấy cũng người kinh sư.
Người du khách mừng rỡ nói rằng: Có phải sư Đại Thiệu  không?
Lời nói chưa dứt, thì thấy một ông cụ già tóc bạc da mồi, mặt  mũi phương phi, tay chống cái gậy trúc, lững thững trong cửa chùa  bước ra.
Người tiểu đạo vội vàng chắp tay Nam mô Phật, bước tới mấy  bước, bạch sư rằng: Tiểu ở am ngoài,vâng lịnh sư trưởng đưa người  này vào bái yết Đại sư, và có bức vân tiên trình đặng ngài hiểu,  ông sư già cầm lấy cái giấy xem xong, bảo hai người vào chùa.
Người du khách cũng hớn hở lại gần thi lễ, thưa rằng: Tôi  tên là Vi Văn, nhân tòng công vụ đến tỉnh lỵ này, gần hai tháng  nay, ngày trước ra đi, nghiêm thân có dặn, phải tìm quí thúc mà hầu thăm, cho biết khởi cư cận trạng, kẻo tấm lòng hoài vọng rất  lâu.
Sư già lấy tay che ngang mày, nheo lại một con mắt, nhìn  người du khách nói rằng: Vi Văn, Vi Văn sao ta lại lửng cái tên Vi  Văn đi kìa.
Người du khách lại nói: Thưa chú, cháu là trưởng quan Hàn  Vũ sứ đây chú ạ.
Sư cụ cười to bèn nói rằng: Té ra cháu nhà đây! Cháu ôi!  Những tưởng núi sông cách trở, không hay hội ngộ có ngày. Tốt a!  Cháu diện mạo khôi ngô, giống anh như hệt, năm nay phương  niên bao nhiêu rồi?
Vi Văn đáp: Dạ thưa 24 tuổi.
Sư cụ cầm lấy tay Vi Văn dắt về nơi tịnh thất, trò chuyện hồi  lâu, mới bày tiệc cơm chay, hai chú cháu ăn xong đi nghỉ.
Khi Vi Văn một mình thong thả, nằm trong phòng khách,  chuông lầu mới giục, thỏ bạc dòm sang, tình cảnh đâu đâu, nó xảy  khêu ra mối tưởng tượng, bâng khuâng tấc dạ, giấc điệp khôn yên.  Cái người con gái ban chiều, là người chi chi, mà xem phong vận  thanh tân khác tục, nét mặt dàu dàu như có vẻ bi thảm, sóng thu  lai láng, màu xuân ướm đượm, thực có cái vẻ đáng yêu, làm cho  người ta không thể nguôi lòng đi được, bây giờ biết tính làm sao  cho thấu nổi nguồn cơn, nếu có cơ giúp giùm cho nàng, ta cũng  quyết ra tay tháo cũi sổ lồng như chơi, nghĩ thôi lại buồn, buồn lại  muốn đi, rảo bước trước thềm, ngắm trông phong cảnh, bốn bề tòng im bóng rợp núi dựng quanh hè, tiếng ve dài dặc nghe thêm  thảm, mặt nguyệt tròn um ngắm dễ thương.
Ngay dưới mái hiên nhà hậu, phưởng phất cũng có một  người, đương than thân tủi phận bùi ngùi, thấy trăng mà lại thẹn  lời non sông, thời cái bóng chàng Vi Văn bỗng liện qua trước mắt,  làm cho người ấy phải giật mình trở lại.
Khi chàng Vi Văn nghe tiếng đóng cửa rất mạnh, mới hiểu là người con gái rảo bước ngang qua, trong lòng lấy làm tiếc, vì  không ngờ mà bỗng lại gặp, song gặp lại không hỏi han được câu  gì, chốc lại phân rẽ, đòi đoạn bức tức, chua xót biết bao? Ngồi suốt  canh thâu, trông cho đến sáng rõ mặt để lại yết kiến sư cụ, mà dò hỏi cái tông tích của nàng. Khi sư cụ đã đưa cái thơ của bà sư nữ ra cho chàng coi, thời chàng tâm sinh nhất kế, nói với sư rằng:  Người này thật con gái quan Kim thị lang, vốn nhà sang quí,  chẳng may gặp bước gian nan, tưởng tình đồng xứ, cũng nên cứu  vớt lấy kẻ lưu ly; cứ như lời của vị sư nữ đã giới thiệu nàng cho quí  thúc biết, là cốt để tìm lối đưa nàng về Kinh, nay đã gặp cháu đây,  cháu xin hết sức giúp cho, thông tin cho song thân nàng biết, để khiến người nhà ra đón nàng về, kẻo chầy ngày lại biến cớ khác,  chốn âm thuyền không phải là chỗ những người tuổi trẻ ở được  lâu.
Sư cụ cho là phải, mới gọi nàng ra mà bảo rằng: Bà sư Minh  Tân muốn giữ nàng ở đây, là cốt chờ đợi tin tức, có dịp nào để đưa  nàng về; vậy nhân cháu già cũng người thành thực, biết yêu đãi kẻ đồng xứ với nhau, nàng nên viết một phong thư gởi về quí phủ,  hoặc trong một vài tháng may ra có cơ hồi phản cố hương chăng.
Tú Cầu mừng quá, cúi đầu lạy tạ sư cụ và Vi Văn, Vi Văn  đứng dậy đáp lễ, Tú Cầu khóc thưa rằng: Nhờ ơn tế độ, vớt người  trầm luân, nếu nắm xương tàn mà đặng thấy tử phần có phen, đều  là đội công đức của hai ngài hết thảy.
Sư cụ lại bảo người đồng tử đưa bút nghiên cho Tú Cầu,  nàng tiếp lấy, đứng dựa bên thư án, tay thảo một thiên gia tín, xếp  lại tử tế, bước tới chỗ Vi Văn ngồi, khúm núm trình lên thưa rằng:  Trót đã thi ân cứu tử, xin cho trịnh trọng một lời, kẻo tôi đã nhiều  ngày đau đớn biệt ly, e không sống nổi mà đợi ngày hậu hội.
Vi Văn tổn tạ đáp lễ, cầm lấy cái thơ bỏ vào túi áo, lại thung  dung ngồi xuống. Tú Cầu đi vào hiên sau; Hai chú cháu lại kể chuyện hàn huyên việc nhà, đến sáng hôm sau Vi Văn cáo từ.