"Nguyên lý đầu tiên và quan trọng nhất về những thuộc tính lôgich cơ bản của tồn tại liên quan đến việc loại bỏ mâu thuẫn. Mâu thuẫn là một phạm trù chỉ có thể thuộc về sự kết hợp các tư tưởng, chứ quyết không thuộc về hiện thực. Trong các vật, không có mâu thuẫn, hay nói cách khác mâu thuẫn được coi là có thật, thì bản thân là một điều cực kỳ vô nghĩa. Sự đối kháng giữa những lực lượng chống đối lại nhau theo những hướng đối lập, thậm chí còn là một hình thức cơ bản của mọi hành động trong tồn tại của thế giới và của các sinh vật của thế giới. Nhưng sự đấu tranh ấy giữa các hướng của những lực lượng của các yếu tố và các cá thể không mảy may trùng hợp với cái tư tưởng phi lý về mâu thuẫn... ở đây, chúng ta có thể tự lấy làm hai lòng vì đã dùng một hình ảnh rõ ràng về cái vô lý thực sự của mâu thuẫn trong thực tế, để xua tan những đám sương mù thường dâng lên từ những điều bí ẩn giả tưởng của lôgich và đã vạch rõ được sự vô ích của những trầm hương mà đây đó người ta đã đốt lên một cách vô ích cho cái tượng thần bằng gỗ được gọi đến một cách rất thô kệch của biện chứng của mâu thuẫn, mà người ta đã lén lút đưa vào để thay thế cho cái sơ đồ đối kháng về vũ trụ." Đó là đại khái tất cả những gì nói về biện chứng trong tập "giáo trình về triết học". Trong quyển "Lịch sử phê phán" ngược lại, biện chứng của mâu thuẫn - và cùng với nó thì đặc biệt là Hegel - lại bị đối xử một cách khác hẳn. "Theo lôgich học của Hegel, hay nói cho đúng hơn là theo học thuyết của ông ta về Logos, thì mâu thuẫn tồn tại không chỉ ở trong tư duy, - theo bản chất của nó, người ta không thể hình dung tư duy một cách nào khác ngoài cách coi nó là có tính chất chủ quan và tự giác, - mà là tồn tại một cách khách quan ở trong bản thân các sự vật và các quá trình, có thể nói là bộc lộ ra bằng xương bằng thịt, thành thử cái vô nghĩa không còn là một sự kết hợp không thể có được của tư tưởng, mà trở thành một lực lượng có thực. Sự tồn tại hiện thực của cái vô lý là tín điều thứ nhất của sự thống nhất kiểu Hegel giữa lôgich và phi lôgich... Càng mâu thuẫn thì càng có tính chất chân lý, hay nói cách khác, càng vô lý thì càng đáng tin; câu châm ngôn này - hoàn toàn chẳng phải là một phát sinh gì mới mẻ, mà là mượn ở thần học về Khải thị và ở chủ nghĩa thần bí - chính là biểu hiện trần truồng của cái nguyên lý gọi là biện chứng". Nội dung tư tưởng của hai đoạn trích dẫn trên đây, quy lại là luận điểm cho rằng mâu thuẫn = vô nghĩa, và do đó, nó không thể có trong thế giới hiện thực được. Đối với những người có lý trí khá lành mạnh thì luận điểm đó có thể rất dĩ nhiên như luận điểm nói rằng thẳng không thể là cong, và cong không thể là thẳng. Nhưng phép tính vi phân, bất chấp tất cả những lời phản đối của lý trí lành mạnh của con người, trong những điều kiện nhất định lại coi thẳng và cong là như nhau, và nhờ đó mà đã đạt được những thành tựu mà lý trí lành mạnh của con người, ngoan cố coi sự đồng nhất giữa thẳng và cong là phi lý, không bao giờ đạt được. Và xét theo cái vai trò to lớn mà cái gọi là biện chứng về mâu thuẫn đã đóng trong triết học từ thời những người Hy lạp cổ đại cho đến ngày nay, thì thiết tưởng ngay một đối thủ cừ khôi hơn ông Đuy-rinh cũng sẽ có nhiệm vụ đưa những lẽ khác hơn là chỉ dựa vào một lời quyết đoán suông và nhiều lời thoá mạ, khi chống lại phép biện chứng. Chừng nào chúng ta xem xét các sự vật như là tĩnh và không có sinh khí, mỗi cái đều tách riêng, cái này bên cạnh cái kia và cái này nối tiếp cái kia, thì chắc chắn là chúng ta không gặp phải một mâu thuẫn nào trong các sự vật ấy cả. Ở đây chúng ta tìm thấy một số những thuộc tính nhất định, mỗi phần có tính chất giống nhau, một phần lại khác nhau, thậm chí mâu thuẫn với nhau nữa, nhưng trong trường hợp này, các thuộc tính đó lại phân chia ra cho những sự vật khác nhau và như thế là chúng không chứa đựng một mâu thuẫn nào. Trong giới hạn của sự xem xét thuộc loại này thì chúng ta cũng giải quyết được bằng phương pháp tư duy thông thường, phương pháp siêu hình. Nhưng tình hình sẽ khác hẳn khi chúng ta xem xét các sự vật trong sự vận động của chúng, trong sự sống trong sự biến đổi, sự tác dộng lẫn nhau của chúng. Ở đây, chúng ta sẽ lập tức rơi vào những mâu thuẫn. Bản thân sự vận động là một mâu thuẫn; ngay cả sự di chuyển một cách máy móc và đơn giản cũng chỉ có thể thực hiện được là vì một vật thể trong cùng một lúc vừa ở nơi này lại vừa ở nơi khác, vừa ở cùng một chỗ lại vừa không ở chỗ đó. Và sự thường xuyên nảy sinh mâu thuẫn và đồng thời giải quyết mâu thuẫn ấy chính là sự vận động. Như vậy là ở đây chúng ta có một mâu thuẫn "tồn tại một cách khách quan, có thể nói là bộc lộ ra bằng xương bằng thịt, ở trong bản thân các sự vật và các quá trình". Về điểm này ông Đuy-rinh nói như thế nào? ông ta khẳng định rằng, Nói chung cho đến nay, vẫn "không có một cái cầu nào giữa cái tĩnh triệt để và cái động ở trong cơ học hợp lý". Giờ đây, cuối cùng, bạn đọc đã có thể nhận thấy cái gì ẩn nấp ở đằng sau câu nói rất ưa thích của ông Đuy-rinh; chẳng có gì khác hơn là: một lý trí suy nghĩ theo cách siêu hình thì tuyệt đối không thể chuyển từ quan niệm tĩnh mà sang quan niệm đông được, vì ở đây mâu thuẫn nói trên đã chặn mất đường đi của nó rồi. đối với lý trí đó sự vận động hoàn toàn không thể hiểu được vì nó là một mâu thuẫn và khi đã khẳng định rằng tính chất không thể hiểu được của vận động, thì bản thân nó lại thừa nhận một cách miễn cưỡng sự tồn tại của mâu thuẫn đó, nghĩa là thừa nhận rằng trong bản thân các sự vật và các quá trình, có một mâu thuẫn tồn tại khách quan, hơn nữa mâu thuẫn đó lại là một lực lượng có thực. Nếu ngay cả sự di chuyển một cách máy móc và đơn giản đã chứa đựng mâu thuẫn, thì những hình thức vận động cao hơn của vật chất và đặc biệt là sự sống hữu cơ và sự phát triển của sự sống hữu cơ đó lại càng phải chứa đựng mâu thuẫn như vậy. Trên kia, chúng ta đã thấy rằng sự sống trước hết chính là ở chỗ một sinh vật trong mỗi lúc vừa là nó những lại vừa là một cái khác[40]. Như vậy, sự sống cũng là một mâu thuẫn tồn tại trong bản thân các sự vật và các quá trình, không ngừng tự nảy sinh ra và tự giải quyết; và khi mâu thuẫn ấy chấm dứt thì sự sống cũng không còn nữa và cái chết xẩy đến. Chúng ta cũng đã thấy rằng trong lĩnh vực tư duy cũng vậy, chúng ta không thể tránh khỏi mâu thuẫn; ví dụ như mỗi mâu thuẫn giữa năng lực nhận thức vô tận ở bên trong của con người với sự tồn tại thực tế của năng lực ấy trong những con người bị hạn chế bởi hoàn cảnh bên ngoài và đang nhận thức một cách hạn chế, - thì mâu thuẫn này được giải quyết trong sự nối tiếp nhau của các thế hệ, trên thực tiễn sự nối tiếp này ít ra cũng là vô tận, đối với chúng ta và được giải quyết trong sự tiến bộ vô tận[41].Chúng ta đã nói rằng một trong những cơ sở chính của toán học cao cấp là cái mâu thuẫn bao hàm ở chỗ, trong một số trường hợp nào đó thì thẳng và cong phải giống nhau. Toán học cao cấp lại còn có một mâu thuẫn khác nữa, tức là trước mắt chúng ta những đường cắt nhau, những chỉ cách điểm cắt nhau 5 hay 6 xăng-ti-mét thôi, những đường đó đã phải được coi là những đường song hành, tức là được coi như những đường mà dù có kéo dài vô tận cũng vẫn không thể nào cắt nhau được. Tuy vậy, với những mâu thuẫn này và với những mâu thuẫn khác còn gay gắt hơn nhiều, toán học cao cấp đã đi tới những kết quả chẳng những đúng, mà đối với toán học sơ cấp thì lại còn hoàn toàn không thể nào đạt được. Nhưng ngay toán học sơ cấp cũng đầy rẫy những mâu thuẫn. Ví dụ, một mâu thuẫn là: một số căn của A phải là một luỹ thừa của A, tuy vậy A1/2 = . Một mâu thuẫn nữa là: một số âm phải là bình phương của một cái gì đó, bởi vì bất cứ một số âm nào tự nhân với nó, cũng đều đem lại một bình phương dương. Vì vậy, số căn bậc hai của -1 không những là một mâu thuẫn, mà còn là một mâu thuẫn vô lý, một điều vô nghĩa thực sự. Thế nhưng trong nhiều trường hợp, là kết quả tất yếu của những phép tính chính xác trong toán học; hơn nữa, nếu cần làm tính với thì toán học, cả sơ cấp lẫn cao cấp, sẽ ra sao? Khi nghiên cứu về những số biến, bản thân toán học đã bước vào lĩnh vực của biện chứng rồi, và một điều đáng chú ý là chính một nhà triết học biện chứng, Descartes, đã đưa bước tiến bộ đó vào khoa học. Quan hệ giữa toán học về số biến với toán học về số bất biến như thế nào thì quan hệ giữa tư duy biện chứng với tư duy siêu hình nói chung cũng như thế. Nhưng điều này vẫn hoàn toàn không ngăn cản cái tình hình là số đông các nhà toán học chỉ thừa nhận biện chứng ở trong lĩnh vực toán học mà thôi, và có khá nhiều người trong bọn họ vẫn vận dụng những phương pháp đã thu được bằng con đường biện chứng để tiếp tục tính toán hoàn toàn theo cái cách siêu hình cũ, hạn chế. Chỉ có thể nghiên cứu tỉ mỉ hơn nữa sự đối kháng của các lực của ông Đuy-rinh và đồ thức đối kháng về vũ trụ của ông ta, nên trong đề tài này, ông ta đưa lại cho chúng ta một cái gì lớn hơn... là một câu nói suông. Sau khi đưa ra câu nói suông đó, ông ta chưa một lần nào chỉ cho chúng ta thấy sự đối kháng đó tác động như thế nào ở trong đồ thức về vũ trụ, cũng như trong triết học về tự nhiên, và đó là một lời thú nhận tốt nhất nói lên rằng ông Đuy-rinh tuyệt đối không thể làm được một cái gì tích cực với cái "hình thức cơ bản của mọi hành động trong sự tồn tại của thế giới và của những sinh vật trên thế giới". Thật vậy, khi người ta đã hạ thấp "học thuyết về tồn tại" của Hegel thành một tư tưởng tầm thường về những lực vận động theo hướng trái ngược nhau, chứ không phải là vận động trong những mâu thuẫn, thì lẽ dĩ nhiên điều tốt hơn hết là tránh mọi việc vận dụng cái khuôn sáo ấy. Một lý do nữa làm cho ông Đuy-rinh nổi trận lôi đình chống lại biện chứng, là bộ "tư bản" của Mác. "Sự thiếu tính lôgich tự nhiên và rành mạch, nói lên nét đặc trưng của những sự lắt léo cầu kỳ biện chứng và những tư tưởng rối rắm... Ngay trong phần hiện đã xuất bản, người ta cũng đã buộc phải vận dụng cái nguyên lý là, về một phương diện nào đó, và nói chung (!) cũng theo một thành kiến triết học mà mọi người đều biết, phải tìm tất cả trong bất cứ cái gì và bất cứ cái gì trong tất cả, và theo cái quan niệm rối rắm và lệch lạc đó, rốt cuộc tất cả chỉ là một". Chính sự nhận thức tinh vi đó của ông ta về thành kiến triết học mà mọi người đều biết đã cho phép ông Đuy-rinh đoán trước được một cách chắc chắn "kết cục" của triết học kinh tế của Mác sẽ ra sao, tức là đoán trước được nội dung những tập sau của bộ "Tư bản" là sẽ như thế nào, hơn nữa điều đó được nói ra vừa vặn bảy dòng sau khi ông đã tuyên bố rằng: "Nói theo tiếng nói của con người và của người Đức, thì quả thật người ta không thể nào đoán trước được còn có cái gì nữa trong hai quyển" (cuối cùng). Vả lại, đây cũng không phải là lần đầu tiên mà những tác phẩm của ông Đuy-rinh đã chứng tỏ cho chúng ta thấy rằng chúng thuộc về những "sự vật" trong đó, "mâu thuẫn tồn tại một cách khách quan, và có thể nói là bộc lộ ra bằng xương bằng thịt". Điều đó không hề ngăn cản ông ta nói tiếp tục với một giọng đắc thắng: "Tuy vậy cần hy vọng rằng phép lôgich lành mạnh sẽ chiến thắng được bức biếm hoạ về nó... Cái vẻ quan trọng và cái đồ cũ bí ẩn bỏ đi của phép biện chứng sẽ không quyến rũ được bất cứ một ai còn chút ít lý trí lành mạnh, khiến họ phải sa vào... những lối nghĩ và lối viết kỳ quái ấy. Cùng với sự tiêu vong của những tàn tích cuối cùng của những sự ngu ngốc biện chứng, cái thủ đoạn bịp bợm ấy... sẽ mất... ảnh hưởng lừa dối của nó và sẽ không ai còn tin rằng cần phải lao tâm khổ tứ để đi tìm một anh minh sâu sắc ở nơi mà hạt nhân của những sự vật rối ắm ấy, sau khi đã gột sạch rồi, thì nhiều lắm cũng chỉ để lộ ra có những yếu tố lý luận thông thường, nếu không phải chỉ là những khuôn sáo cũ rích... Hoàn toàn không thể nào thuật lại những sự lắt léo" (của Mác) "xây dựng trên những quy tắc của học thuyết Logos mà lại không làm mất danh dự của phép lôgich lành mạnh". Phương pháp của Mác là ở chỗ "thực hiện những phép mầu biện chứng cho các tín đồ của mình" v.v... Ở đây, chúng ta còn chưa đụng chạm gì đến tính chất đúng đắn hay không đúng đắn của các kết quả kinh tế của những công trình nghiên cứu của Mác, mà chỉ mới đụng chạm đến phương pháp biện chứng do Mác áp dụng. Nhưng có một điều chắc chắn là: mãi đến bây giờ, nhờ có ông Đuy-rinh, phần đông những người đọc bộ "tư bản" mới biết được thực ra mình đã đọc cái gì. Và trong số đó, có cả bản thân ông Đuy-rinh là người năm 1867 ("erganzungs - blatter", t. III. quyển 3) còn có thể trình bày một cách tương đối hợp lý - đối với một nhà tư tưởng như cỡ ông ta - nội dung cuốn sách của Mác mà không cần thấy buộc phải chuyển tiến trình tư tưởng của Mác thành ngôn ngữ kiểu Đuy-rinh trước đã, - một điều mà hiện nay ông ta tuyên bố là nhất thiết phải làm. Nếu như ngay hồi bấy giờ ông ta cũng đã sai lầm khi cho rằng phép biện chứng của Mác với phép biện chứng của Hegel là một, thì hồi đó ông ta vẫn chưa hoàn toàn mất hẳn cái khả năng phân biệt giữa phương pháp với những kết quả có thể đạt được bằng phương pháp ấy, và ông ta vẫn còn hiểu được rằng khi công kích phương pháp nói chung thì như thế vẫn chưa phải là bác bỏ các kết quả trong những chi tiết của chúng. Dù sao lời tuyên bố lạ lùng nhất của ông Đuy-rinh vẫn là lời tuyên bố nói rằng theo quan điểm của Mác thì "rốt cuộc, tất cả chỉ là một", thành thử, theo Mác thì các nhà tư bản và các công nhân làm thuê, các phương thức sản xuất phong kiến tư bản chủ nghĩa và phương thức xã hội chủ nghĩa chẳng hạn, đều "chỉ là một", và cuối cùng, thậm chí cả Mác và ông Đuy-rinh cũng có thể "chỉ là một" mà thôi. Muốn giải thích được tại sao lại có thể có sự ngốc nghếch rõ ràng như thế thì chỉ còn một cách là thừa nhận rằng chỉ một từ biện chứng cũng đã đủ đẩy ông Đuy-rinh vào một trạng thái không có năng lực chịu trách nhiệm, trong đó, do một quan niệm rối rắm và lệch lạc nào đó, rốt cuộc những điều ông ta nói và những việc ông ta làm "đều chi phí là một" cả. Ở đây, chúng ta có một cái mẫu về cái mà ông Đuy-rinh gọi là. "Lối viết sử theo thể văn cao nhã của tôi", hay còn gọi là "phương pháp tổng quát là phương pháp thanh toán với cái chủng loại và cái điển hình mà không thèm hạ cố đến mức dùng một sự tố giác kiểu vi vật học để làm vinh dự cho bọn người mà Hume gọi là đám dân đen thông thái; chỉ có phương pháp ấy với cái lối văn cao nhã và tôn quý hơn ấy mới phù hợp với những lợi ích của chân lý hoàn toàn và với những nghĩa vụ đối với đám công chúng đã thoát khỏi những ràng buộc của hàng hội". Thật vậy, cách viết sử theo lối văn cao nhã và phương pháp tổng quát thanh toán với cái chủng loại và điển hình, là rất thuận tiện cho ông Đuy-rinh, vì làm như thế thì ông ta có thể coi thường tất cả những sự thật xác định, coi đó là những sự thật nhỏ nhặt kiểu vi vật học, là con số không, và đáng lẽ phải chứng minh thì lại chỉ nêu lên những câu nói chung chung, chỉ khẳng định một cách vu vơ và đả kích mà thôi. Ngoài ra, cách viết sử ấy còn có một điều lợi nữa là không cung cấp cho đối phương một điểm tựa thực tế nào để luận chiến, thành thử để đối đáp lại, người đó hầu như không có một khả năng nào khác hơn là đưa ra, cũng với một lối văn cao nhã và tổng quát, những lời khẳng định vô căn cứ, tuôn ra những câu nói chung chung và rút cục cũng lại lớn tiếng đả kích ông Đuy-rinh - tóm lại, như người ta vẫn nói, là lấy gậy ông Đuy-rinh đập lại lưng ông Đuy-rinh, một việc làm mà chẳng ai ưa gì. Vì thế cho nên chúng ta phải biết ơn ông Đuy-rinh đã lìa bỏ - dưới hình thức ngoại lệ - lối văn cao nhã và tôn quý để cung cấp cho chúng ta ít nhất hai thí dụ về cái học thuyết đáng lên án của Mác về Logos. "Còn có gì khôi hài hơn là viện đến cái quan niệm mù mịt và mơ hồ của Hegel cho rằng lượng biến thành chất, chẳng hạn, do đó một khoản ứng trước nếu đạt đến một giới hạn nhất định thì sẽ trở thành tư bản, chỉ nhờ sự tăng thêm đơn giản về lượng như vậy". Dĩ nhiên, dưới sự trình bày đã được ông Đuy-rinh "gạn lọc" đi, ý kiến đó có vẻ khá kỳ quặc. Vậy ta hãy xem xem nó nhơ thế nào trong nguyên bản của Mác. Ở trang 313 ("tư bản", in lần thứ hai) từ những sự nghiên cứu trước đó về tư bản bất biến, tư bản khả biến và giá trị thặng dư, Mác rút ra kết luận nói rằng "không phải bất cứ một số tiền nào hay một số giá trị nào cũng đều có thể biến thành tư bản, không thể có sự chuyển biến như thế được nếu trong tay kẻ muốn leo lên địa vị nhà tư bản, không có một món tiền hay một số giá trị trao đổi tối thiểu nào đó"[42]. Để làm ví dụ, Mác giả định rằng một công nhân trong một ngành công nghiệp nào đó mỗi ngày làm 8 giờ cho bản thân mình, tức là để sản xuất ra giá trị của tiền công của mình, và 4 giờ sau đó làm cho nhà tư bản để sản xuất ra số giá trị thặng dư sẽ rơi trước hết vào túi của nhà tư bản. Như vậy là kẻ nào muốn hàng ngày thu được một số giá trị thặng dư cho phép người đó sống không kém hơn một công nhân của mình thì kẻ đó phải có một số giá trị cho phép người đó cung cấp nguyên liệu, tư liệu lao động và tiền công cho hai công nhân. Và vì nền sản xuất tư bản chủ nghĩa không phải chỉ nhằm mục đích là duy trì đời sống, mà là làm tăng thêm của cải, cho nên cái anh chàng của chúng ta có hai người công nhân vẫn chưa phải là một nhà tư bản. Muốn sống tốt hơn gấp đôi người công nhân bình thường và biến trở lại một nửa số giá trị thặng dư đã sản xuất ra thành tư bản, thì người đó phải có khả năng thuê tám công nhân, nghĩa là phải có một số giá trị bằng bốn lần số giá trị nói trên. Chỉ có sau đó và trong những đoạn bàn luận khác nhau soi sáng và chứng thực rằng không phải bất kỳ một số giá trị nhỏ nào cũng đủ để biến thành tư bản, và về mặt này thì mỗi thời kỳ phát triển, mỗi ngành công nghiệp đều có một giới hạn tối thiểu nhất định của nó, - chỉ sau khi nói rõ những điều đó, Mác mới nhận xét: "ở đây cũng như trong khoa học tự nhiên, tính chất đúng đắn của cái quy luật do Hegel phát hiện trong quyển lôgich học của ông đã được chứng thực, theo đó thì những sự thay đổi thuần tuý về lượng đến một điểm nào đó, sẽ chuyển thành những sự khác nhau về chất". Và bây giờ thì xin độc giả hãy khâm phục cái lối hành văn cao nhã và tôn quý nhờ nó mà ông Đuy-rinh đã gán cho Mác một điều trái ngược lại với lời Mác đã nói trong thực tế. Mác nói: cái sự thật là một số giá trị chỉ có thể biến thành tư bản khi nào nó đạt đến một số lượng tối thiểu - mặc dầu khác nhau tuỳ theo trường hợp, nhưng trong mỗi trường hợp cá biệt thì lại là một số lượng nhất định, - sự thật đó là một bằng chứng về tính chât đúng đắn của quy luật của Hebel. Còn ông Đuy-rinh thì lại gán cho Mác là đã nói rằng: Vì theo quy luật của Hegel, lượng biến thành chất, "cho nên một khoản ứng trước, khi đạt đến một giới hạn nào đó... thì trở thành tư bản". Như vậy là hoàn toàn ngược lại với lời của Mác. Cái thói trích dẫn lời người khác một cách sai lạc như thế "vì lợi ích của chân lý hoàn toàn" và "vì những nghĩa vụ đối với đám công chúng đã thoát khỏi những sự ràng buộc của hàng hội", thì chúng ta đã biết qua việc ông Đuy-rinh phân tích lý luận của Darwin. Thói đó ngày càng có ra là một tất yếu bên trong của triết học hiện thực, và quả thật đó là một "phương pháp rất tổng quát". Chúng ta sẽ không cần phải nói đến cái việc là ông Đuy-rinh gán cho Mác rằng dường như Mác nói đến bất kỳ một "khoản ứng trước" nào, trong lúc đó thì ở đây Mác chỉ nói đến một khoản ứng trước chi cho nguyên liệu, tư liệu lao động và tiền công; và như vậy là ông Đuy-rinh đã cố ý gán cho Mác một điều hoàn toàn vô nghĩa. Rồi sau đó, ông ta lại còn trắng trợn đến mức cho rằng cái điều vô nghĩa do chính ông tạo ra đó là khôi hài. Cũng như trước kia ông ta đã nặn ra một Darwin tưởng tượng để thử sức mình với Darwin, thì ở đây cũng thế, ông ta cũng tạo ra một Mác tưởng tượng. quả là một "lối viết sử cao nhã" thật! Trên kia, ở phần đồ thức về vũ trụ, chúng ta đã thấy rằng, với con đường nút của những quan hệ về độ của Hegel[22], trong đó, ở những điểm nhất định của sự thay đổi về lượng, đột nhiên lại xảy ra một sự chuyển biến về chất, thì ông Đuy-rinh đã gặp phải một điều rủi ro nho nhỏ: trong một phút yếu đuối ông ta đã tự mình thừa nhận và áp dụng con đường đó.[43] ở đó, chúng ta đã nêu ra một trong những ví dụ thông thường nhất, tức là cái ví dụ về sự thay đổi các trạng thái kết hợp của nước, dưới áp lực không khí bình thường ở 0o bách phân, nước từ trạng thái lỏng chuyển sang trạng thái rắn, còn ở 100o bách phân thì từ trạng thái lỏng chuyển sang trạng thái hơi, thành ra ở hai điểm ngoặt đó, sự thay đổi thuần tuý về lượng của nhiệt độ dẫn tới một trạng thái thay đổi về chất của nước. Chúng ta còn có thể rút ra trong giới tự nhiên và trong xã hội loài người hàng trăm những sự việc tương tự như thế để chứng minh cho quy luật này. Ví dụ, trong bộ "tư bản" của Mác, tất cả phần thứ tư: Sự sản xuất ra giá trị thặng dư tương đối, đã dẫn ra từ lĩnh vực hợp tác, lĩnh vực phân công và công trường thủ công, máy móc và đại công nghiệp, vô số trường hợp trong đó sự thay đổi về lượng làm thay đổi chất của các sự vật cũng như sự thay đổi về chất làm cho lượng của sự vật thay đổi; tức là, trong đó, để nói theo cái lối nói mà ông Đuy-rinh rất căm ghét, lượng biến thành chất và ngược lại. Ví dụ, chúng ta có thể kể ra cái sự thật là: sự hợp tác của nhiều người, sự hợp nhất của nhiều lực lượng thành một hợp lực, sẽ tạo ra, nói theo lối nói của Mác, một "lực lượng mới" khác một cách cơ bản với tổng số những lực lượng cá biệt hợp thành nó[44]. Cũng trong đoạn mà ông Đuy-rinh đã đảo ngược lại vì lợi ích của chân lý hoàn toàn, Mác lại còn nhận xét: "Lý luận phân tử được áp dụng trong hoá học hiện đại, lần đầu tiên được Laurent và Gerharrdt phát triển một cách khoa học, chính là dựa vào quy luật này"[45]. Nhưng điều đó có quan hệ gì tới ông Đuy-rinh đâu? Vì ông ta đã biết rằng: "Ở nơi nào một thứ khoa học nửa mùa và đôi chút triết lý cùn được dùng làm vũ khí nghèo nàn để đem lại cho mình cái vẻ bác học - như điều đó đã diễn ra ở Mác và đối thủ của ông ta là Lasalle - thì ở đó thiếu hẳn những nhân tố văn hoá hết sức hiện đại của phương pháp tư duy khoa học - tự nhiên". Còn ở ông Đuy-rinh, thì "những luận điểm chủ yếu của khoa học chính xác về cơ học, vật lý học và khoa học", v.v., được dùng làm cơ sở. Cái cơ sở ấy như thế nào thì chúng ta đã thấy rồi. Nhưng để cho những người khác cũng có thể xét đoán được chúng ta sẽ nghiên cứu kỹ hơn một chút về cái ví dụ mà Mác đã nêu ra trong lời chú thích đã nói đến của ông. Vấn đề nói đến ở đây là những dãy đồng đẳng của các hoá hợp các bon, mà người ta biết được một số lớn, mỗi hoá hợp này có một công thức đại số về thành phần cấu tạo của riêng nó. Ví dụ, như người ta vẫn thường làm trong hoá học, nếu chúng ta biểu hiện một nguyên tử các bon bằng C, một nguyên tử hydrô bằng H, một nguyên tử ôxy bằng O2 và số nguyên tử các bon trong mỗi hoá hợp bằng n, thì chúng ta có thể trình bày những công thức phân tử của một vài dãy đồng đẳng ấy như sau: CnH2n + 2 - Dãy pa-ra-phin thường CnH2n+ 2 O - Dãy rượu sơ cấp CnH2nO2 - Dãy a-xít béo hoá trị một. Hãy lấy dẫy sau cùng làm ví dụ và lần lượt lấy n = 1, n = 2, n = 3, v.v.., thì chúng ta đạt được những kết quả sau đây (không kể những chất đồng phân): CH2O2 - axit phô-mích - điểm sôi 100o ; điểm chảy 1o C2H4O2 - axit a-xê-tích - điểm sôi 118o ; điểm chảy 17o C3H6O2 - axit prô-pi-ô-ních - điểm sôi 140o ; điểm chảy 17o C4H8O2 - axit bu-ti-rích - điểm sôi 162o ; điểm chảy 17o C5H10O2 - axit va-lê-ri-a-ních - điểm sôi 175o ; điểm chảy 17o v.v..., cho đến C30H60O2, a xít mêlixich, 80o mới hoá lỏng và không có điểm sôi, vì nó không thể bay hơi mà không phân huỷ. Như vậy là ở đây, chúng ta thấy cả một loạt những vật thể khác nhau về chất được hình thành do sự cộng thêm đơn giản về lượng của các nguyên tố, và việc cộng thêm đó bao giờ cũng theo một tỷ lệ như nhau. Điều này biểu hiện dưới dạng thuần tuý nhất ở nơi nào mà tất cả các nguyên tố của chất hoá hợp thay đổi về lượng theo một tỷ lệ bằng nhau; ví dụ như ở những chất pa ra phin thường C2H2n + 2 chất thấp nhất là mê tan, CH4 một chất khí; chất cao nhất mà người ta đã biết là éc-da-đê-can (hexadécane), C16H34, một vật thể rắn kết thành những tinh thể không có màu, đến 21o thì hoá lỏng và đến 278o mới sôi. Trong cả hai dãy, mọi chất hoá hoá hợp mới đều hình thành bằng cách thêm CH2, tức là thêm một nguyên tử các bon và 2 nguyên tử hydrrô, vào công thức phân tử của chất hoá hợp có trước, và mỗi lần thay đổi về lượng như thế của công thức phân tử lại tạo ra một vật thể khác về chất. Nhưng những dãy đó chỉ là một ví dụ rõ rệt đặc biệt; ở hầu hết mọi nơi trong hoá học, ngay với các thứ ô xít khác nhau của đạm, các thứ a xít khác nhau của lân tinh hay của lưu huỳnh, người ta cũng đã có thể thấy "lượng chuyển hoá thành chất" như thế nào, và cái quan niệm gọi là mơ hồ và mù mịt của Hegel đã thể hiện ra có thể nói là bằng xương thịt như thế nào trong các sự vật và các quá trình, hơn nữa chẳng một ai thấy mơ hồ và mù mịt cả, trừ ông Đuy-rinh. Và nếu Mác là người đầu tiên đã làm cho người ta lưu ý đến điểm này, và nếu ông Đuy-rinh đọc lời chỉ dẫn đó của Mác mà thậm chí cũng không hiểu nó nói cái gì (vì nếu ông ta hiểu thì chắc chắn là đã không bỏ qua cái tội tầy trời ấy), thì chẳng cần phải quay lại nhìn cái triết học tự nhiên nổi danh của ông Đuy-rinh, điều đó cũng đủ để xác định rõ rệt được ai là người thiếu "những nhân tố văn hoá hết sức hiện đại của phương pháp tư duy khoa học" - Mác hay ông Đuy-rinh, - và ai là người không biết đầy đủ "những luận điểm chủ yếu của... hoá học". Để kết thúc, chúng tôi muốn mời thêm một người nữa làm chứng cho việc lượng biến thành chất: Napoléon. ông này đã mô tả như sau cuộc chiến đấu của đội kỵ binh Pháp tuy kém về tài nghệ cưỡi ngựa nhưng có kỷ luật, với người Ma-mơ-lúc, hồi đó chắc chắn là đội kỵ binh giỏi nhất về chiến đấu đơn độc nhưng lại thiếu kỷ luật: "2 người lính Mác mơ lúc thì nhất định hơn hẳn 3 người lính Pháp; 100 người lính Ma mơ lúc và 100 người lính Pháp thì ngang nhau; 300 người lính Pháp thì thường thường hơn 300 người lính Ma mơ lúc; 1.000 người lính Pháp thì bao giờ cũng đánh bại được 1.500 người lính Ma mơ lúc". Giống như ở Mác, cần phải có một số lượng giá trị trao đổi tối thiểu nhất định, mặc dầu số này có thể biến đổi, mới có thể giúp cho nó chuyển hoá thành tư bản được, ở Napoléon cũng vậy, cần phải có một số lượng kỵ binh tối thiểu nhất định để cho sức mạnh của kỷ luật, nằm trong đội hình mật tập và trong tính kế hoạch của hoạt động, có thể biểu hiện ra được và tăng thêm lên đến mức thậm chí hơn hẳn cả những khối lượng kỵ binh không chính quy đông hơn, có ngựa tốt hơn, cưỡi ngựa giỏi hơn, chiến đấu thạo hơn và ít ra thì cũng can đảm không kém. Nhưng điều đó liệu có chứng minh được điều gì chống lại Đuy-rinh hay không? Napoléon đã chẳng thất bại thảm hại trong cuộc chiến đấu chống Châu âu đó sao? ông đã chẳng từng thua hết trận này đến trận khác đó sao? Và tại sao lại như vậy? chỉ tại cái nguyên do duy nhất là đã đem cái quan niệm mơ hồ và mù mịt của Hegel áp dụng vào chiến thuật của kỵ binh đấy thôi!