Trên thực tế, cách tiếp cận kinh tế lượng thuần tuý đã bị loại bỏ trong những cống hiến quan trọng nhất cho cuộc tranh luận, điều này được thể hiện qua những bài viết của Lange vào năm 1936 và 1937 [19]. Lange thừa nhận rằng giải pháp toán học là không thực tế, mặc dù ông có vẻ không hiểu vì sao lại thế. Thật lạ lùng, rất lâu sau khi cuộc tranh luận đã chấm dứt, Lange [20] công bố một bài viết quan trọng trong đó ông nhất định cho rằng giải pháp toán học trước kia bây giờ đã khả thi nhờ vào sự phát triển của máy tính - cái đã giúp cho việc xử lý số liệu trở nên dễ hơn rất nhiều. Tuy nhiên, trong những bài viết năm 1936 và 1937, Lange công khai để thị trường làm công việc tính toán: sau đó ông nhận ra rằng đó chính là cái thể chế đang liên tục giải quyết các vấn đề kinh tế. Việc thừa nhận như vậy mở đường cho cuộc phản công, rằng nếu chương trình xã hội chủ nghĩa chỉ có thể khả thi thông qua sự kết hợp với những thể chế phi xã hội chủ nghĩa, thì phải chăng chính điều đó phủ nhận sự tồn tại của chủ nghĩa xã hội? Đó chẳng phải là chúng ta trở lại sự phản đối (iii) và chấp nhận một cách đơn thuần các nguyên lý đạo đức ngoại biên của hệ thống thị trường tư bản chủ nghĩa? Đó không phải là câu trả lời của Lange (mặc dù ông thực sự đã đưa một thành tố bình quân chủ nghĩa vào mô hình của ông), bởi vì chúng tôi sẽ cho thấy ông vẫn chủ trường rằng các thị trường tư bản chủ nghĩa tạo ra những bất hiệu quả kinh tế, mà sự tái tổ chức "hợp lý" nền kinh tế có thể khắc phục được điều ấy. Tuy nhiên, Lange thừa nhận rằng nghiệm của các phương trình mà quá trình sản xuất đòi hỏi có thể đạt được tốt hơn dưới một số dạng thức của thị trường. Trong mô hình của Lange, thị trường được thể hiện dưới hai hình thức: thị trường thực thụ và bán thị trường. Có các thị trường thực thụ cho hàng tiêu dùng, mà giá cả trên thị trường đó được quyết định bởi cung và cầu. Hơn nữa, tiền công được xác định bởi thị trường và do đó sẽ nhất định gặp phải vấn đề bất bình đẳng. Tuy nhiên, thu nhập của người tiêu dùng sẽ không chỉ bao gồm tiền công, mà còn gồm cả khoản tiền trả từ một Quỹ Cổ tức Xã hội. Khoản thu nhập thứ hai này là khả thi vì trong hệ thống sản xuất xã hội chủ nghĩa, "lợi nhuận", sản phẩm của quyền tư hữu về nguồn lực, sẽ bị thủ tiêu. Lange giả định rằng điều kiện này sẽ mang lại cho các cấp chính quyền xã hội chủ nghĩa một quyền tự do định đoạt đáng kể khi quyết định các mức thu nhập: quyền tự do định đoạt chỉ bị giới hạn bởi thực tế là những phương tiện bình quân chủ nghĩa như vẫn được coi là đáng quý ấy sẽ không có ảnh hưởng gì đến phân bổ lao động giữa các ngành nghề. Sự phân bổ này nên được quyết định bởi sự lựa chọn tự do. Nếu thu nhập được trả cho các nhân tố theo năng suất cận biên của chúng và các nguyên tắc quản lý được thay thế cho động lực lợi nhuận, thì nhóm các hàng hoá mà người tiêu dùng mong muốn sẽ được sản xuất ở mức chi phí thấp nhất có thể. Ngoài lao động và hàng tiêu dùng, tất cả các mức giá khác (hàng hoá dùng cho sản xuất, đất đai, v.v) sẽ bị cố định bởi một Hội đồng Kế hoạch Trung ương (HĐKHTƯ). Lange nhất định cho rằng giá cả phải có "chức năng tham số"; nghĩa là chúng phải thể hiện sự hy sinh tương đối của hàng hoá để đảm bảo sự phân bổ hiệu quả. Tuy nhiên, điều nan giải là cách giải thích của Lange về việc định giá hàng hoá dùng cho sản xuất lại không có vẻ gì nhất quán với điều này. Ông viết: “giá của hàng tư bản và các nguồn lực sản xuất không phải lao động là những mức giá hiểu theo nghĩa tổng quát hoá, tức là, các chỉ số thay thế là có sẵn, được cố định vì lý do hạch toán." [21] Nói cách khác, giá của các hàng hoá này có thể được cố định và điều chỉnh một cách khá tuỳ tiện bởi HĐKHTƯ vào cuối mỗi kỳ hạch toán nhất định nhằm loại bỏ sự thiếu hụt hoặc thặng dư nếu xảy ra. Đây là bản chất của cách tiếp cận "thử và sai". Trên thực tế, HĐKHTƯ có trách nhiệm phải đóng vai trò của người bán đấu giá kiểu Walras [22] trong mô hình cân bằng tổng quát: tập hợp giá cả làm cân bằng cung và cầu trong mọi thị trường được tìm ra bởi một chính quyền trung ương chứ không phải thông qua một quá trình liên tục của sự cạnh tranh khốc liệt giữa các tác nhân con người. Chỉ vì lý do này thôi, mô hình của Lange cũng có thể bị phê phán là tĩnh chứ không phải động. Người quản lý của Lange không phải là các doanh nhân, nhưng hệ thống của ông phải cung cấp một cơ chế qua đó họ hành động như thể họ là các doanh nhân nhưng không có các động lực khuyến khích truyền thống đi liền với tinh thần doanh nghiệp. Nhìn bề ngoài, điều này dường như là một nhiệm vụ bất khả thi; phải chăng ông đã cắt bỏ độ trễ của những người tham gia giao dịch kinh tế và rồi đòi hỏi họ phải chạy với tốc độ cực kỳ nhanh? Trên thực tế, đây chính là mục đích đằng sau hai nguyên tắc mà các nhà quản lý xã hội chủ nghĩa nhất định bị buộc phải tuân theo. Chúng có thể được tóm tắt như sau. Nguyên tắc thứ nhất là những nhà quản lý ấy sẽ phải kết hợp các nhân tố sản suất (tại những mức giá cho trước) nhằm sản xuất ra ở mức chi phí thấp nhất. Nguyên tắc thứ hai là quy mô của đầu ra bị cố định ở điểm tại đó chi phí cận biên ngang bằng giá của sản phẩm. Sự chỉ trích quá trình thử và sai của Lange-Taylor nhấn mạnh vào sự bất lực của nó khi giải quyết các vấn đề gắn liền với các nền kinh tế trong thế giới thực. Trong một thế giới luôn đổi thay và có nhiều bất trắc, những mức giá bị cố định bởi HĐKHTƯ nhất định phải biến động chậm hơn những mức giá ấy trong thị trường tự do thực thụ, và do đó sẽ không phản ánh được một cách chính xác mức độ hy sinh tương đối; nói cách khác, giá cả sẽ không thực sự đóng vai trò tham số. Thêm vào đó, sự trao đổi trên thị trường là sự trao đổi phi tập trung, trong đó các cá nhân nỗ lực tìm kiếm những cơ hội mang lại lợi nhuận: nó không phản ứng một cách tự động trước các mức giá đã bị quyết định từ trung ương. Các mức giá này chẳng phải gì khác ngoài những phỏng đoán, như cách nói của Hayek, “những hoàn cảnh đặc biệt về thời điểm và địa điểm sẽ không còn giá trị gì nữa" [23]. Chúng chỉ có ý nghĩa và vai trò trong một thế giới tĩnh không có sự thay đổi về thị hiếu và kỹ thuật sản xuất mà thôi. Những xem xét tương tự cũng được áp dụng cho các nguyên tắc mà người quản lý doanh nghiệp nhà nước phải tuân theo. Mệnh lệnh tối thiểu hoá chi phí chỉ có ý nghĩa trong một thế giới có các mức chi phí đã biết trước, nhưng khi không còn các chi phí “cho trước", đó chỉ là một khẩu hiệu rỗng tuếch. Nếu các nhà quản lý được trả lương, thì hầu như chắc chắn là họ sẽ không khai thác những cơ hội mang lại lợi nhuận tồn tại trong hoạt động kinh tế. Trên thực tế, những cơ hội lợi nhuận này, cái thể hiện phần thu được thuần tuý của các doanh nhân (tương phản với thu nhập trả cho một nhân tố sản xuất để giữ nó hoạt động), sẽ không tồn tại trong thế giới cân bằng kinh tế của Lange. Tuy nhiên, vấn đề căn bản là làm thế nào đạt tới một thế giới như vậy. Chắc chắn không phải nhờ các cấp chính quyền sáng chế ra giá cả và các nhà quản lý tuân theo nguyên tắc. Vì các nhà quản lý, những người không phải chủ sở hữu tài sản, không thể không bảo vệ quyền lợi của mình trước những hành động mạo hiểm, nên họ có xu hướng thận trọng trong hành động của mình. Hầu như chắc chắn rằng họ sẽ che đậy bản chất thực sự của các chi phí. Do đó, các vấn đề của trật tự xã hội chủ nghĩa liên quan đến động lực làm việc và tri thức. Tất nhiên, tính toán kết quả của một trật tự cạnh tranh hài hoà tuyệt đối trong đó không có lợi nhuận có thể khả thi về mặt logic, nhưng điều này khác xa một lý giải mang tính lý thuyết. Sự lý giải mang tính lý thuyết phải xem xét tới thực tế là xã hội con người bao gồm những người đang hành động, họ đòi hỏi một khuôn khổ thể chế phù hợp để tiềm năng của họ được thể hiện ra. Những khoản lợi nhuận “bất thường" của các doanh nhân được biện minh trên một cơ sở vị lợi, rằng chính chúng truyền lực cho một hệ thống mà thiếu chúng sẽ không còn động lực nào nữa. Như thế, lập luận bình quân chủ nghĩa của Lange, cái cho rằng sự loại bỏ lợi nhuận tư nhân cho phép xuất hiện khoản Cổ tức Xã hội để trả cho các cá nhân, là vô giá trị vì trong các thị trường thực, không thể nào tách một thứ Cổ tức kiểu đó ra khỏi bản thân quá trình kinh tế. Thực vậy, có thể hình dung ra ảnh hưởng của cái viễn cảnh khi mọi người nhận được trợ cấp từ quỹ Cổ tức sẽ ảnh hưởng nghiêm trọng ra sao đến việc cung ứng lao động, bất chấp sự phủ nhận ngoan cố của Lange. Về vấn đề tri thức kinh tế, mô hình xã hội chủ nghĩa rất dễ bị tổn thương trước sự phản đối mang tính nhận thức luận, được đưa ra sau khi cuộc chiến đầu tiên đã nguội đi, bởi nhiều người mà đáng kể nhất trong số đó là Hayek, Polanyi và Oakeshott [24] [25]. Hayek nhiều lần nhắc đi nhắc lại sự khác nhau giữa tri thức tập trung và phân tán, còn Polanyi thì là giữa tri thức công khai và ngầm ẩn, và Oakeshott là giữa tri thức thực tiễn và kỹ thuật; nhưng tất cả bọn họ đều muốn nói tới một hiện tượng rất giống nhau. Đó là toàn bộ tri thức của con người không chỉ nằm trong những thứ có thể được tuyên bố lên một cách rõ ràng. Polanyi khẳng định rằng tri thức,... được thể hiện qua văn tự hay hình ảnh, hoặc qua công thức toán học, chỉ là một hình thái của tri thức mà thôi; trong khi đó tri thức không được hình thức hoá, ví như ta thu được một cái gì đó khi đang hành động, cũng là một hình thái khác của tri thức. [26] Oakeshott (và Hayek) thường đề cập đến di sản tư tưởng của Đề-các trong triết học châu Âu, hệ thống quan điểm cho rằng trí óc có thể thu nhận được mọi kinh nghiệm (với thành kiến) và do đó tạo ra các nguyên tắc hành động được suy diễn trực tiếp từ những tiền đề đúng tuyệt đối. Trong khi nỗ lực làm như thế, chúng ta vô tình loại bỏ toàn bộ “tri thức thực tiễn" (‘practical knowledge’), những thứ bao gồm, nói ví dụ, hoạt động kinh tế và quản trị, những thứ làm đời sống xã hội đầy ý nghĩa. Hoạt động kinh tế là một hình thức hoạt động thực tiễn không thể được truyền dạy hay tái tạo một cách chính xác vì nó bao hàm các tri thức không thể hình thức hoá. Một dấu hiệu rõ nét chứng tỏ Lange không nhận thức được sự khác biệt trên có thể được tìm thấy trong bài viết với nhiều suy ngẫm hơn và được công bố rất lâu về sau, bài “Máy tính và Thị trường". Ở đây, ông đề cập trở lại một cách rành mạch khuyến nghị ban đầu cho rằng sự tính toán bằng toán học có thể giải quyết được các vấn đề kinh tế, do đó chẳng cần tới thậm chí một hình thức hao hao cơ chế thị trường. Năm 1967 ông viết: “quá trình thị trường cùng với sự dò dẫm (tatonnements) [27] phiền hà của nó dường như đã trở thành lỗi mốt. Thực vậy, có thể coi nó như một phương tiện tính toán của thời đại tiền-điện tử mà thôi." [28] Nói cách khác, ông nhìn nhận thị trường với tư cách nó đang làm việc với loại tri thức là đối tượng làm việc của máy tính, nhưng thị trường làm theo cách thức thật kém hiệu quả và tốn thời gian. Ông gợi ý thêm rằng máy tính hiện đại có thể giải các bài toán về sự không hoàn hảo của thị trường và các chu kỳ kinh doanh một cách chính xác bởi vì nó có khả năng truy cập tức thời tới các thông tin, mà nếu để các tác nhân kinh tế là con người giao dịch với nhau thì còn lâu chúng mới xuất hiện. Ngay cả ở chỗ ông thừa nhận rằng thị trường vẫn có thể ưu việt hơn máy tính, ông cũng chỉ cho rằng bởi vì “có thể có (và có) các quá trình kinh tế phức tạp, theo nghĩa số lượng mặt hàng và chủng loại phương trình rất lớn, đến nỗi không một máy tính nào có thể xử trí hết được," [29] chứ không phải vì một đặc điểm khác biệt nào đó ngay trong nội tại bản chất của tri thức kinh tế. Tất nhiên, ở đây có một số điểm tương đồng rõ rệt giữa các hoạt động máy móc của máy tính và của thị trường. Thị trường là một hệ thống truyền đạt thông tin vận hành qua cơ chế “phản hồi thụ động" (‘negative feedback’), nhưng thông tin được truyền tải không phải là tri thức “cho trước" hay “khách quan", mà là tri thức phân tán và ngầm ẩn. Vấn đề kinh tế không chỉ là vấn đề phân bổ, trong đó các phương tiện khan hiếm được định hướng một cách máy móc tới các cứu cánh khác nhau, mà đó là vấn đề phối hợp, được đặc trưng bởi các cá nhân sử dụng phần tri thức của riêng họ cho các mục đích của riêng họ, vì thế sản sinh ra một kết quả chung không phải là bộ phận của một mục tiêu có chủ đích của bất cứ ai. Nhưng, về nguyên tắc, cái tri thức về căn bản mang tính chủ quan này không có khả năng được chuyển đổi thành tri thức khách quan, nghĩa là thị trường quyết không phải một dụng cụ giải phương trình, mặc dù nó chính là phương pháp để giải quyết vấn đề. Người ta chỉ có thể chấp nhận một hệ thống kiểu Lange hoạt động trong bối cảnh của sự quá độ từ một hệ thống tư bản chủ nghĩa, trong đó mọi mức giá đều đã bị quyết định trước bởi một thị trường đang hoạt động đầy đủ: những mức giá này sẽ cung cấp tín hiệu cho các nhà lập kế hoạch ở trung ương. (Những mức giá này sẽ phản ánh tri thức ngầm ẩn.) Nhưng do sự thay đổi không ngừng, một hiện tượng đặc trưng của xã hội kinh tế loài người, những thông tin ấy sẽ nhanh chóng trở nên lỗi thời. Như chúng tôi đã chứng minh, quá trình thử và sai, cái lẽ ra phải được thực hiện ngay khi thiếu hụt hoặc thặng dư xảy ra, không thể đóng vai trò của một thị trường thực thụ. Mô hình của Lange chỉ có thể hoạt động trong một thế giới tĩnh, ở đó ít hay nhiều thì những kết quả giống hệt nhau cứ được tái sản sinh ra mãi. Tất nhiên, trong các nền kinh tế kế hoạch hoá hiện nay, không có hệ thống nào hoạt động theo mô hình của Lange. Lựa chọn của người tiêu dùng không đóng vai trò quyết định trong quá trình sản xuất ra hàng hoá và các nhà quản lý không tuân theo các nguyên tắc được thiết kế để tái sản xuất ra các trạng thái cân bằng. Tuy nhiên, ngay cả trong các hệ thống này, tri thức ngầm vẫn được lan truyền: dưới hình thức tham nhũng và qua các tín hiệu giá cả quốc tế từ các nước tư bản chủ nghĩa xung quanh. Thực vậy, khi không có các nguồn tri thức kinh tế này, rất khó nhận ra bất cứ cơ sở hợp lý nào đằng sau các hệ thống kế hoạch hoá. Trên thực tế, không có chúng, các hệ thống này có thể sụp đổ dễ dàng và quan điểm sơ khởi của Mises rằng chủ nghĩa xã hội không hề khả thi về mặt lý luận sẽ được minh chứng. Các bằng chứng thực tế vào giai đoạn sơ kỳ của lịch sử kinh tế Liên bang Xô Viết có thể coi như một ví dụ tốt. Còn gì làm các lý thuyết gia xã hội chủ nghĩa bối rối hơn khi một hệ thống được cho là hợp lý như của Lange, trong chừng mực nó làm suy giảm dòng tri thức ngầm, lại đơn thuần chỉ dựa trên tham nhũng và các tín hiệu giá cả quốc tế để sống còn?