Tử Kỳ di hận thân tiên khứ Bá Nha suất cầm tạ tri âm Bá Nha và Tử Kỳ là hai người bạn tri âm thời Xuân Thu Chiến Quốc. Bá Nha, họ Du tên Thụy, là người nước Sở, nhưng làm quan Thượng Ðại Phu nước Tấn. Bá Nha nổi tiếng là một khách phong lưu văn mặc, lại có ngón đàn tuyệt diệu nhất đời và không bao giờ rời cây Dao cầm yêu quý của mình. Tử Kỳ, họ Chung tên Huy, là một danh sĩ ẩn dật làm nghề đốn củi để báo hiếu cha mẹ tuổi già nua, nhà tại Tập Hiền Thôn, gần núi Mã Yên, ở cửa sông Hán Dương. Phần I Năm đó, Bá Nha phụng chỉ vua Tấn đi sứ qua nước Sở. Trên đường về, khi thuyền đến cửa sông Hán Dương, nhằm đêm Trung Thu sáng trăng, phong cảnh hữu tình, Bá Nha cho lịnh cắm thuyền dưới chân núi Mã Yên để thưởng ngoạn. Cảm thấy hứng thú, muốn dạo chơi một vài khúc đàn, Bá Nha sai quân hầu lấy chiếc lư ra, đốt hương trầm, xông cây dao cầm đặt trên án. Bá Nha trịnh trọng nâng đàn, so dây vặn trục. Sau đó đặt hết tâm hồn đàn lên một khúc réo rắt âm thanh, quyện vào khói trầm. Chưa dứt bài, đàn bỗng đứt dây. Bá Nha giựt mình tự nghĩ, dây đàn bỗng đứt thế nầy ắt có người nghe lén tiếng đàn, bèn sai quân hầu lên bờ tìm xem có ai là người nghe đàn mà không lộ mặt. Quân hầu lãnh lịnh lên bờ thì bỗng có người từ trên bờ lên tiếng: - Xin đại nhân thứ lỗi cho, tiểu dân này đi kiếm củi về muộn, đi ngang qua đây, nghe tiếng đàn tuyệt diệu quá, nên cất bước đi không đành! Bá Nha cười lớn bảo: - Người tiều phu nào đó dám nói hai tiếng nghe đàn với ta? Tiếng nói từ trên núi lại đáp lại: - Đại nhân nói vậy, kẻ hèn này trộm nghĩ là không đúng. Há đại nhân không nhớ câu nói của người xưa: "Thập nhất chi ấp tất hữu trung tín" (Trong một ấp có mười nhà ắt có người trung tín). Hễ trong nhà có quân tử thì ngoài cửa ắt có người quân tử đến... Nếu đại nhân khinh chỗ quê mùa không người biết nghe đàn, thì cũng không nên khảy lên khúc đàn tuyệt diệu làm gì. Bá Nha có vẻ ngượng khi nghe câu nói của người tiều phu. Biết mình lỡ lời, liền tiến sát đến mũi thuyền dịu giọng nói: - Người quân tử ở trên bờ, nếu thực biết nghe đàn, biết vừa rồi ta khảy khúc gì không? - Khúc đàn đại nhân vừa tấu đó là: Ðức Khổng Tử khóc thầy Nhan Hồi, phổ vào tiếng đàn, lời rằng: Khả liên Nhan Hồi mệnh tảo vong Giáo nhân tư tưởng mấn như sương Chỉ nhân lậu hạng đan biều lạc Hồi nãy, đại nhân đang đàn thì đứt dây, nên còn thiếu mất câu bốn là: Lưu đắc hiền danh vạn cổ dương. Tạm dịch thơ: Nhan Hồi mất sớm thật đau thương, Tư tưởng dạy người tóc bạc sương. Ngõ hẹp nước bầu cơm giỏ hẩm (1) Danh hiền lưu mãi cỏi trần dương. Phí Minh Tâm (1) Nhan Hồi vui trong cảnh khốn khổ, sống trong ngõ hẹp chỉ với giỏ cơm và bầu nước. ---------------Phần II Tử Kỳ tinh thông nhạc lý, tinh tường Dao cầm, thấu rõ lòng Bá Nha qua tiếng đàn, lúc cao vòi vọi chí tự non cao, lúc thì trời nước bao la, ý tại lưu thủy. Bá Nha vô cùng bái phục và xin kết nghĩa anh em. Trước khi chia tay, hai người hẹn gặp lại năm sau cũng tại chốn nầy. Mùa thu năm sau, khi Bá Nha trở lại Mã Yên thì Tử Kỳ, vì bệnh, mới chết mộ còn chưa xanh cỏ. Chung lão, thân phụ của Tử Kỳ đưa Bá Nha đến mộ. Bên phần mộ Tử Kỳ, Bá Nha lạy và khóc nức nở rằng: Hiền đệ ơi, lúc sống anh tuấn tuyệt vời, nay chết, khí thiêng còn phảng phất, xin chứng giám cho ngu huynh một lạy ngàn thu vĩnh biệt. Lạy xong, Bá Nha gọi đem Dao cầm tới, đặt lên phiến đá trước mộ, ngồi xếp bằng trên mặt đất một cách nghiêm trang, so dây tấu khúc "Thiên thu trương hận", tiễn người tri âm tài hoa yểu mạng. Tiếng đàn đang réo rắt bỗng trầm hẳn xuống. Gió rừng thổi mạnh, mây đen kéo lại, u ám bầu trời, hồi lâu mới tan. Bá Nha ngưng đàn. Gió ngừng rít, trời trong sáng trở lại, chim ai oán lặng tiếng. Bá Nha nhìn Chung lão thưa: - Tử Kỳ đã về đây chứng giám cho lòng thành của tiểu sinh. Cháu vừa đàn khúc đoản ca để viếng người tri âm tài hoa mệnh yểu, và xin đọc thành thơ đoản ca này: Ức tích khứ niên thu Giang biên tằng hội quân Kim nhật trùng lai phỏng Bất kiến tri âm nhân Đãn kiến nhất bôi thổ Thảm nhiên thương ngã tâm Thương tâm thương tâm phục Bất nhẫn lệ phân phân Lai hoan khứ hà khổ Giang bạn khởi sầu vân Tử kỳ tử kỳ hề Nhĩ ngã thiên kim nghĩa Lịch tận thiên nhai vô túc ngữ Thử khúc chung hề bất phúc đàn Tam xích dao cầm vị quân tử. Tạm dịch nghĩa: Nhớ đến mùa thu năm trước Từng gặp bạn bên bờ sông Hôm nay trở lại tìm Không thấy người tri âm Chỉ thấy một nấm mộ đất Thảm thiết đau thương lòng ta Ôi thương tâm! Lại thương tâm! Không cầm được nước mắt ròng ròng Vui đến rồi đi, còn lại đau khổ Mâysầu trổi lên bên ven sông Tử Kỳ hởi! Tử Kỳ ơi! Em và anh có nghĩa ngàn vàng Dù có đến tận vô bến bờ cũng không nói hết lời Vậy khúc nhạc nầy cũng dứt không đàn nữa Dao cầm ba thước chết luôn theo em. Tạm dịch thơ: Từ nhớ đến mùa thu năm trước Bến trường giang gặp bạn cố nhân Năm nay lại đến Giang Tân Giòng sông lạnh ngắt cố nhân đâu rồi Buồn chỉ thấy nấm mồ bên núi Cõi ngàn năm chia cắt đau lòng Ôi thương tâm, ôi thương tâm Sụt sùi lai láng bao hàng lệ rơi Mây sầu thấp thoáng chân trời Đêm vui đổi lấy một đời khổ đau Tử Kỳ ơi, Tử Kỳ ơi Ngàn vàng khôn chuộc được bầu tâm can Thôi từ nay, thôi phím đàn Ngàn thu thôi hết mơ mòng cố nhân... Khuyết Danh ---------------Phần III Lời thơ vừa dứt, Bá Nha vái cây Dao cầm một vái, tay nâng Dao cầm lên cao, đập mạnh xuống tảng đá. Dao cầm vỡ tan nát tung từng mãnh, trụ ngọc, phím vàng rơi lả tả. Chung lão không kịp ngăn, hoảng kinh hỏi rằng: - Sao đại nhân lại đập vỡ đàn quí giá nầy? Bá Nha đáp lời bằng bài thơ tứ tuyệt: Suất toái dao cầm phượng vĩ hàn Tử Kỳ bất tại đối thùy đàm Đại thiên thế giới giai bằng hữu Dục mịch tri âm nan thượng nan! Tạm dịch thơ: Đập nát Dao cầm đau xót phượng (1) Tử Kỳ không có đàn cho ai Bốn phương trờI đất bao bè bạn Tìm được tri âm khó lắm thay! Phí Minh Tâm (1) Dao cầm được làm từ phần gổ tốt nhất của cây ngô đồng. Khi xưa vua Phục Hy thấy 5 vì sao rơi vào cây ngô đồng, rồi có chim phượng hoàng đến đậu. Biết là gỗ quí, hấp thụ tinh hoa Trời Ðất, nên vua bảo thợ khéo lấy gổ chế làm nhạc khí gọi là Dao cầm, bắt chước nhạc khí ở Cung Dao Trì.