Chương 4 -3

Dịch Giả: Nguyễn Hải Hà
Chương 26 - ( Đoạn Kết)

Chiếc xe nhà bếp xuất hiện ở phía Nam bờ sông tiếp theo xe tăng của quân ta là của tiểu đoàn pháo, do chuẩn uý Xcô-rích đưa tới đây.
Khi khu vực bàn đạp ở phía sau lưng đã bị bọn Đức chiếm, cuộc chiến đấu trở nên ác liệt và sao đó, khi xe tăng Đức bắt đầu từ đó rút qua sông, băng ngang phía bên trái và bên phải tiểu đoàn của mình, Đrô-dơ-đốp-xki đã từ bỏ ý những ý đồ vô ích nhằm liên lạc bằng ra-đi-ô với sở chỉ huy trung đoàn pháo vì không cần liên lạc anh cũng đã thấy rõ tình hình diễn biến ra sao. Trong suốt nửa giờ đồng hồ, Cu-dơ-nét-xốp không chờ khẩu lệnh của ai cả, nã tất cả những quả đạn còn lại vào đám xe tăng địch qua sông sang bờ phía Nam. Sau khi bắn hết bảy quả đạn, anh hạ lệnh cho các pháo thủ cầm súng tiểu liên, nhảy xuống các hầm chiến đấu và nổ súng vào bọn bộ binh địch bắt đầu rút lui.
Những chiếc xe “ô-pen” nặng nề, hoạt động được trên nhiều địa hình, phủ vải bạt chở bộ binh Đức rút lui theo con đường mòn thành một hàng dài xa xa về phía bên trái. Mấy khẩu pháo đơn độc còn lại của các đơn vị bên cạnh nhả đạn vào đám bộ binh địch phía cánh trái đó và hai khẩu súng máy đặt ở phía trước còn nguyên vẹn một cách kỳ lạ cũng nổ súng bắn địch.
Cả đơn vị còn lại có bốn pháo thủ thuộc khẩu pháo của U-kha-nốp, tất cả đều lạnh cóng, rã rời, kiệt sức sau suốt cả đêm hôm qua, không còn ý thức được đầy đủ điều gì đã xảy ra trên bờ sông phía Bắc, không hiểu rõ vì sao bọn Đức lại vội vã rời bỏ vị trí như vậy, họ náu mình trong các hố chiến đấu, thỉnh thoảng lại hà hơi sưởi ấm tay và cò súng tiểu liên để cho mỡ bôi súng không đông cứng lại.
Cu-dơ-nét-xốp lạnh run lên, U-kha-nốp lấy bao tay đập vào bả vai. Nết-trai-ép và Ru-bin dùng xẻng dọn sạch bờ công sự. Mọi người lặng lẽ làm, chẳng còn hơi sức đâu mà nói và suy nghĩ. Cứ như thế đến hơn một tiếng đồng hồ. Vừa lúc ấy, trong ánh ban mai phơn phớt tím, tiếp theo xe tăng của quân ta, chiếc xe nhà bếp dã chiến bất ngờ xuất hiện trên chiếc gò ở mé trái, phóng nước đại, vun vút lao như điên giữa các hố bom đạn ngổn ngang về phía trận địa pháo. Chuẩn uý Xcô-rích nét mặt đầy nộ khí dừng xe cách khẩu pháo chừng mươi bước, chửi rủa con ngựa chạy lệch, nhảy ở trên xe xuống và chạy như bay về phía các pháo thủ, vướng vít trong những tà áo dài sĩ quan của mình. Lúc ấy các pháo thủ vẫn còn chưa nhận ra niềm hân hoan thật sự của thắng lợi.
Thậm chí khi chuẩn uý vừa bước vào vừa la to: “Anh em ơi, mình đến với các cậu… thức ăn đây!...” thì ngay cả sự có mặt cũng như tiếng la thét của anh ta cũng không được tiếp nhận như là bản thân thực tại mà như là những tia hồi quang yếu ớt của một thế giới khác, đã bị gạt bỏ, hầu như không cảm thấy được. Không ai đáp lời anh ta.
-Anh em đâu cả rồi?... Chả lẽ chỉ còn bốn người các anh, bốn người thôi à?...
Chuẩn uý đưa mắt nhìn khắp các trận địa pháo vắng người, những chiếc xe tăng Đức bị bắn cháy rụi, đạp đôi ủng sĩ quan bóng lộn của mình trên trận địa pháo, thốt ra tiếng gì nghe không rõ rồi lao mình chạy ngược về phía xe nhà bếp. Anh hất lên vai mình một bình phích, hai túi nặng đầy bánh mì và lương khô rồi cong chân chạy về phía khẩu pháo, đặt tất cả xuống đống vỏ đạn ở giữa các càng pháo, hết sức bối rối, ấp úng.
-Của cả đơn vị đây… cả bánh mì, lương khô và rượu Vốt-ca? Chả lẽ tất cả chỉ còn lại có bốn anh thôi à? Tôi phải đưa thực phẩm tới đâu, đồng chí trung úy? Đrô-dơ-đốp-xki đâu? Đại đội trưởng đâu?...
-Ở đài quan sát. Còn ba người đằng ấy. Anh em thương binh hãy còn ở trong hầm đất. Anh hãy ghé lại chỗ họ, chuẩn uý ạ.-Cu-dơ-nét-xốp đáp, lưỡi cứng đơ. Anh ngồi trên càng pháo, run bần bật vì rét, dửng dưng với tất cả những món thực phẩm thừa thãi đó cũng như với những tiếng la thét đó của chuẩn uý.
-Có lẽ phải nhóm tí lửa lên, trung úy ạ,-U-kha-nốp nói.-Không có lửa khép chúng ta chết cóng hết. Cậu đang run dế kia kìa. Có hòm gỗ đựng đạn. Nhờ trời chúng mình có thể tợp Vốt-ca đến bí tỉ, trung úy ạ! Hình như quân ta thắng to rồi.
-Rượu Vốt-ca ấy à?-Cu-dơ-nét-xốp dửng dưng đáp.-À phải rồi, chia rượu Vốt-ca cho tất cả mọi người…
Trong lúc chuẩn uý chạy vội vào hầm đất với anh em thương binh, Nết-trai-ép và Ru-bin đập hòm ra để nhóm lửa trên bãi đặt pháo, U-kha-nốp gạt đống vỏ đạn sang một bên, trải tấm vải bạt xuống giữa các càng pháo và bày bình rượu Vốt-ca cùng những thực phẩm phong phú chưa từng thấy trong hố chiến đấu, dốc lương khô ở trong túi ra. Rồi anh ngồi xuống cạnh Cu-dơ-nét-xốp trên càng pháo, đưa cho Cu-dơ-nét-xốp cặp lồng rượu.
-Uống tí cho ấm người, trung úy, kẻo bọn mình cứng ra thành ông phỗng hết. Cứ uống đi. Hiệu nghiệm lắm.
Cu-dơ-nét-xốp đưa hai tay đỡ chiếc cặp lồng, cảm thấy mùi rượu cay cay, nín thở vội vã uống vài ngụm một cách thèm khát với hy vọng rượu sẽ sưởi ấm làm cho anh hết run, làm giảm chiếc lò xo bằng thép đang quắp chặt cái gì đó trong người anh. Rượu Vốt-ca lạnh ngắt thiêu đốt anh, bỗng chốc dìm anh trong làn sương nóng hổi và khi gậm mẩu lương khô cứng như đá, Cu-dơ-nét-xốp nhớ lại cái cảnh hành quân tưởng như đã diễn ra từ lâu lắm, trên thảo nguyên bất tận rực rỡ dưới ánh mặt trời, lúc U-kha-nốp đem rượu Vốt-ca thiết Dôi-a và cô nhắm mắt lại, vẻ ghê sợ uống một ngụm trong chiếc bi đông, cười ngất và nói rằng rượu Vốt-ca này làm cho cô khó chịu, y như thể có một ngọn đèn đang cháy sáng trong bụng cô vậy… Chuyện ấy xảy ra khi nào nhỉ? Một trăm năm rồi, lâu đến nỗi con người không còn đủ sức nhớ được nữa.
Nhưng anh đã nhớ tới chuyện dường như mới xảy ra một giờ trước đây: đôi mắt ướt mọng của Dôi-a sáng lóa sát mặt anh và tiếng cười khe khẽ của cô còn vang bên tai anh rõ rệt đến mức tưởng chừng như sau đó chẳng xảy ra chuyện gì cả… Ấy thế mà sau đó mọi sự đối với anh tưởng chừng như là cả một đời người lớn lao, suốt một trăm năm dằng dặc. Tưởng chừng như chẳng bao giờ có chuyện đó cả… Bởi có xảy ra chuyện gì đâu, cô ấy đi đến trạm quân y để xin thuốc lá và lát nữa thôi sẽ trở về ngay với đơn vị trong chiếc áo choàng ngắn thắt dây lưng rõ chặt của mình, như lúc ở trên tàu: “Các chú mình đáng yêu ơi, không có tôi các chú sẽ sống thế nào?”.
Nhưng cùng lúc đó qua ý thức mờ nhạt của mình, anh hiểu rằng anh đang lừa dối mình, rằng cô chẳng từ đâu trở về cả, chẳng từ một trạm quân y nào trở về cả, cô hiện ở đây, bên cạnh, sau lưng anh, cô ở đây, gần bên khẩu pháo và đã được anh, U-kha-nốp, Ru-bin và Nết-trai-ép vùi trong hốc đất giữa đêm qua. Mình phủ tấm vải bạt, cô mãi mãi nằm một mình ở đó, toàn thân bị đất lấp kín và trên nấm đất cong cong, chiếc túi cứu thương của cô đã bị tuyết phủ một nửa sáng lấp loáng.
Sau khi chôn cất cô chu tất, Ru-bin đặt tất cả mọi thứ còn lại của cô, chiếc túi cứu thương nhỏ lên nấm mộ nhỏ, tươi màu đất mới và rầu rĩ nói bằng giọng hiểu biết: “Sau này ta phải đề: Dôi-a Ê-la-ghi-na, cứu thương”. Còn đối với Nết-trai-ép thì lúc ấy đã xảy ra một chuyện lạ lùng: đúng lúc mọi người ném đất xuống huyệt chôn Dôi-a, anh bất chợt cắm xẻng vào lũy đất, khom người lùi lũi bước ra cách ba bước, tức tối rút một vật gì đó ở trong túi áo choàng ra, quẳng xuống chân, dùng ủng ấn mạnh nó xuống tuyết đến nỗi vạt đó kêu răng rắc. Chẳng ai hỏi anh làm gì và tại sao làm thế. Đó là chiếc đồng hồ nữ với sợi dây chuyền vàng tìm thấy trong chiếc sắc chiến lợi phẩm…
Giờ đây ba người còn lại trong trung đội anh, những người gần gũi nhau như anh em ruột thịt, ngồi bên càng pháo gần đống lửa bập bùng. Làn khói hăng hắc bốc lên từ ngọn lửa leo lét. Họ đã vui vẻ hơn sau khi uống rượu Vốt-ca, được ngọn lửa nhỏ sưởi ấm, nhai bánh lương khô, họ nói oang oang phấn khích về việc bọn Đức rút chạy, họ nhìn đám cháy ở trong làng, nghe tiếng súng đang xa dần về phía sau làng, chìm sâu trong thảo nguyên, về phía Nam của đơn vị.
U-kha-nốp tỏ ra kiên quyết và đầy quyền hành, anh phết mỡ tổng hợp lên bánh lương khô, rắc đường lên trên, rót rượu Vốt-ca từ bình vào cặp lồng và khoản đãi tất cả mọi người một cách vô cùng hào phóng, không theo tiêu chuẩn. Bản thân anh không say, mặt chỉ tái nhợt đi, đưa mắt nhìn các pháo thủ hãy còn sống của mình là Ru-bin, Nết-trai-ép. Rượu Vốt-ca không có tác dụng gì đối với Cu-dơ-nét-xốp, không làm giãn được chiếc lò xo thép trong người anh, cơn rét vẫn không qua đi, tuy sặc sụa vì hơi rượu cày sè, ghê sợ, anh vẫn cứ uống từng ngụm to theo lời khuyên của U-kha-nốp.
-Trung úy, hình như cấp trên đến chỗ chúng mình!-U-kha-nốp là người đầu tiên nhận ra tốp người đang đi ở phía bên phải của trận địa pháo.-Họ đi trên bờ công sự… trông kìa, trung úy!
-Có lẽ họ tới đây đấy,-Ru-bin xác nhận, anh bắt đầu say, mặt đỏ ửng như quả bồ quân và đưa bàn tay sần sùi đẩy cặp lồng rượu vào bánh xe khẩu pháo để phòng xa.-Hình như là vị tướng chống gậy ấy…
-Đúng, mình trông thấy rồi,-Cu-dơ-nét-xốp nói bình thản lạ lùng.-Không cần phải giấu cặp lồng rượu, Ru-bin ạ.
Bét-xô-nốp bước dọc theo các bãi đặt pháo, đi ngang qua những lũy đất bị những bánh xe bằng thép đè nát và san phẳng, ngang qua những khẩu pháo bị gẫy nát, những đống đất chồng chất, những miệng hố đan đen ngòm, ngang qua chiếc xe tăng Đức nặng nề đổ nghiêng trên trận địa pháo bị cày nát của Tru-ba-ri-cốp. Mãi đến bây giờ trí nhớ của ông mới hồi phục được cảnh tượng ngày hôm qua, nơi đây còn là một đại đội pháo nguyên vẹn và khi ông tới đây trước lúc địch ném bom, cuộc nói chuyện ngắn ngủi của ông với người chỉ huy đại đội pháo, anh chàng đứng thẳng tắp y như trong những buổi diễn tập ở nhà trường, vẻ mặt kiên quyết, mang cái họ của một vị tướng quen biết.
“Thế nghĩa là đại đội đã bắn cháy xe tăng địch từ những hỏa điểm này và chính anh chàng đó chỉ huy đơn vị này?”.
Do sự liên tưởng nhanh chóng, ông nghĩ tới con trai mình, cuộc gặp gỡ cuối cùng với nó ở viện quân y, lời trách móc không tha thứ của vợ ông sau khi ông xuất viện, rằng ông đã dửng dưng, không làm gì để giữ nó phục vụ trong tập đoàn quân của mình vì dường như thế sẽ tốt hơn, ông tưởng tượng con trai mình là người chỉ huy cái đại đội ở trong những chiến hào bộ binh với hai người lính còn sống sót hoặc con mình ở trên trận địa pháo này, nơi mỗi tấc đất đều bị cơn bão thép, xới tung đến mức khó nhận ra được. Ông bước thong thả cho dễ thở hơn. Ngực ông vẫn cay đắng thắt lại và ông bắt đầu tháo móc ở cổ áo choàng ngắn ra để khỏi ngạt thở.
“Bây giờ mình dễ thở rồi… Mọi việc sẽ qua đi chỉ cần đừng nghĩ tới con trai”,-ông kiên nhẫn tự nhủ, vẫn nặng nề tựa người trên chiếc gậy.
-Nghiêm! Báo cáo trung tướng…
Ông dừng lại. Trước mắt ông là bốn chiến sĩ pháo binh mặc áo choàng nhầu nát, ám khói lấm láp đến không nhận ra được, đứng thẳng trước mặt ông gần Khô-khơ-lốp cuối cùng của đơn vị. Đống lửa nhỏ đang lụi tắt vẫn leo lét ngay trên bãi đặt pháo, bình rượu và hai chiếc ba lô để trên tấm bạt, thoang thoảng mùi rượu Vốt-ca.
Trên những khuôn mặt lỗ chỗ vì khói súng của bốn người, mồ hôi đen nhẻm đông cứng lại, ánh mắt lừ đừ mệt mỏi; những vệt thuốc súng hằn trên ống tay áo và trên mũ lông.
Người hô “nghiêm!” khi thấy Bét-xô-nốp tới là một trung úy tầm thước, vẻ bình thản rầu rĩ, anh bước qua càng pháo và hơi ưỡn thẳng người ra, đưa tay lên mũ, chuẩn bị báo cáo. Bét-xô-nốp đưa mắt nhìn anh với vẻ tò mò ngạc nhiên, ông thoáng nhớ lại và nhận ra anh. Đây không phải là người chỉ huy đại đội trẻ tuổi mà ông vẫn còn nhớ họ, mà là một trung úy khác trước đây ông đã từng gặp, hình như đây là người trung đội trưởng, chính cái anh chàng đi tìm khẩu đội trưởng của mình sau đợt oanh kích của máy bay địch tại nhà ga, cái anh chàng do bối rối nên chẳng biết tìm người của mình ở đâu.
Sau khi đưa tay ra hiệu đừng báo cáo, Bét-xô-nốp nhận ra anh, chàng trung úy với đôi mắt màu xám ủ rũ, đôi môi sưng mọng, chiếc mũi nhọn hoắt trên khuôn mặt gầy gò, chiếc áo choàng bị đứt mấy khuy, tà áo đầy những vết mỡ bọc đạn màu nâu, những khối vuông trên đôi quân hàm bị bong men và phủ đầy sương giá. Ông nói:
-Không cần báo cáo… Tôi hiểu cả, Tôi đã trông thấy anh ở nhà ga. Tôi nhớ họ của người đại đội trưởng nhưng quên mất họ của anh…
-Trung đội trưởng trung đội một, trung úy Cu-dơ-nét-xốp…
-Thế nghĩa là đơn vị của anh đã hạ những chiếc xe tăng kia?
-Thưa trung tướng, đúng thế. Hôm nay chúng tôi đã bắn vào xe tăng địch nhưng chúng tôi chỉ còn lại có bảy quả đạn… Đây là những chiếc xe tăng bị chúng tôi diệt hôm qua…
Giọng anh nói theo đúng điều lệnh vẫn cố gắng giữ vẻ cứng rắn đều đều và không sợ hãi; trong giọng nói và trong cái nhìn của anh có cái vẻ nghiêm túc rầu rĩ, không trẻ con không có chút bóng dáng sợ sệt trước vị tướng, dường như anh chàng trẻ tuổi này, người chỉ huy trung đội này đã trả giá cả cuộc đời của mình để bước qua một cái gì đó và giờ đây cái điều anh ta đã hiểu được đó sững lại, khô cứng trong ánh mắt anh, không tràn ra ngoài. Bét-xô-nốp cảm thấy họng mình nghèn nghẹn, nhoi nhói khi nghe giọng nói đó, khi bắt gặp cái nhìn của người trung úy và vẻ mặt giống hệt thô sần đỏ nhợt như lặp lại của ba chiến sĩ pháo binh đứng giữa các càng pháo, đằng sau lưng người trung đội trưởng của họ, ông muốn hỏi xem người đại đội trưởng còn sống không, anh ta ở đâu, ai là người trong số họ đưa người chiến sĩ trinh sát và tên Đức đi; nhưng ông đã không hỏi, ông không thể…
Ngọn gió quất như chích vào người, điên cuồng ùa vào trận địa pháo, làm quặn cổ và tà chiếc áo choàng ngắn, khiến cho những giọt lệ ứa ra từ mí mắt mọng lên của Bét-xô-nốp, ông không chùi những giọt lệ biết ơn, cay đắng và nóng bỏng đó, ông cũng chẳng ngượng ngùng trước sự chú ý của các sĩ quan tuỳ tùng im lặng đứng xung quanh. Nặng nề tì mình trên chiếc gậy, ông quay về phía Bô-gi-scô.
Sau khi trao huân chương Cờ Đỏ cho tất cả bốn người, nhân danh chính quyền tối cao đã cho ông cái quyền lớn lao và nguy hiểm là chỉ huy và quyết định số phận của hàng chục nghìn người, ông gắng gượng thốt lên:
-Đó là tất cả những gì cá nhân tôi có thể làm được. Tất cả những gì tôi có thể… Cám ơn vì các đồng chí đã diệt được xe tăng địch. Điều chủ yếu là các đồng chí đã diệt được xe tăng của chúng. Đó là điều chủ yếu…
Rồi ông đeo găng tay đi nhanh theo hào giao thông về phía chiếc cầu.
Cu-dơ-nét-xốp vẫn còn rầu rĩ, nắm chặt chiếc hộp nhỏ đựng huân chương bằng những ngón tay lạnh cóng anh vẫn còn sửng sốt khi trông thấy những giọt lệ trên mi mắt của tư lệnh tập đoàn quân, điều mới mẻ mà anh không ngờ lại thấy ở vị tướng này, con người hôm trước đây đã gặp anh tại nhà ga và sau đó đã gặp anh vào buổi sáng trên trận địa pháo, anh nhớ tới ông do tài quan sát sắc sảo và giọng nói rin rít, lạnh lùng của ông; anh im lặng.
Vừa lúc ấy, chuẩn uý Xcô-rích và trung úy Đrô-dơ-đốp-xki xuất hiện trên dải bờ sông cao và khi từ xa nhận ra cấp trên đang ở cạnh khẩu pháo, họ vội vã chạy tới chỗ đó.
Chưa tới chỗ đặt pháo, chuẩn uý Xcô-rích chẳng hiểu sao quay mình khỏi khẩu pháo, bắt đầu trèo lên dốc cao về phía xe nhà bếp; còn Đrô-dơ-đốp-xki thì chạy về phía nhóm sĩ quan đã kịp rời khỏi đó chừng ba trăm mét, đi dọc theo bờ sông. Đrô-dơ-đốp-xki đứng thẳng đuỗng trước mặt Bét-xô-nốp, áo choàng cài khuy kín mít, dây lưng da căng chéo qua ngực, trông anh thanh mảnh như một sợi dây đàn, cổ băng bó, mặt tái nhợt trắng bệch, bằng động tác dứt khoát của một quân nhân anh vung tay lên thái dương. Không nghe rõ Đrô-dơ-đốp-xki báo cáo cái gì. Nhưng đứng ở trận địa pháo có thể trông thấy trung tướng ôm hôn anh và trao cho anh chiếc hộp nhỏ giống như chiếc hộp ông đã trao cho bốn người ở cạnh khẩu pháo và hai người trong chiến hào.
-Họ chia đều cho mọi người!-Ngồi trên càng pháo, U-kha-nốp cười vang lên không có chút ác ý nhưng Ru-bin vốn là tay lắm điều, văng tục rất dữ đến nỗi U-kha-nốp phải nheo mắt tò mò nhìn anh.-Này ông coi ngựa, ông cứ vặn vẹo như cưỡi trên mình ngựa ấy! Sao lại thế hả?
-Làm thế cho lòng dạ nó nhẹ bớt đi, thượng sĩ ạ! Ngực tôi cứ đau thắt như là…
-Thế nào, anh em,-U-kha-nốp nói,-ta uống một chầu rượu mừng huân chương thật ra trò vào nhé. Uống để mừng quân ta nện cho bọn Đức một trận tơi bời! Vì ta đã làm cho bọn quỉ phải chạy cong đuôi! Bây giờ thế là xong! Đúng không trung úy? Cậu thấy thế nào? Ngồi đây với mình. Ru-bin, đưa cặp lồng rượu đây. Ổn thôi, trung úy ạ… Giã đi giã lại mãi cũng phải ra bột chứ. Cánh mình có sứ mạng phải sống.
-Bột à?-Cu-dơ-nét-xốp khẽ hỏi, mặt anh bỗng biến sắc.
-Hình như đại đội trưởng có điều gì không ổn ấy,-Nết-trai-ép nói, tay dứt dứt ria mép, mắt vẫn nhìn về phía gò cao.-Anh ấy đi tựa như người mù ấy…
Trung tướng và các sĩ quan tuỳ tùng đã đi xa khỏi trận địa pháo về phía chiếc cầu Đrô-dơ-đốp-xki đi trên bờ sông cao cao, men theo các bậc xuống hầm đất, chỗ anh em thương binh. Giờ đây trông anh chẳng giống chút nào với Đrô-dơ-đốp-xki thường ngày, cân đối, thẳng tắp như một cây sào, có lẽ anh đã phải cố gắng nhiều lắm mới chạy lại được chỗ trung tướng và vẫn cố giữ vẻ nhẹ nhõm trước đây, đưa tay lên mũ chào, báo cáo. Lúc này anh bước đi với dáng đi yếu ớt, uể oải, rã rời, đầu cúi gục, vai trễ xuống, không nhìn về phía khẩu pháo một lần nào, y như thể xung quanh anh không có ai vậy.
-Quả thật sau khi Dôi-a chết anh ấy có điều gì đó…-U-kha-nốp nói.-Thôi được,-thế là xong. Bây giờ chúng ta sẽ không nhớ lại nữa. Mà nhất định là ta phải uống rượu mừng huân chương, anh em ạ.
Rồi anh đặt cặp lồng rượu vào giữa tấm vải bạt, nghiêng bình rót rượu đến lưng cặp lồng, mở hộp nhỏ, dùng hai ngón tay thả tấm huân chương như thả một cục đường xuống đáy cặp lồng, sau đó anh lần lượt thả huân chương của Ru-bin, Nết-trai-ép và Cu-dơ-nét-xốp.
Mọi người lần lượt uống. Cu-dơ-nét-xốp là nưgời cuối cùng cầm lấy cặp lồng rượu. Trong lúc ấy Đrô-dơ-đốp-xki lắc lư yếu đuối như một người say rượu, men theo các bậc đi xuống phía dưới, không còn trông thấy rõ bóng dáng nhỏ lại, lom khom khác thường của anh trên bờ sông cao cao nữa.
Gió thổi từ mặt sông lên và Cu-dơ-nét-xốp chợt nghe thấy tiếng những hạt tuyết rào rào ở sau lưng, giống như lúc tuyết rơi trên tấm vải bạt ở sâu trong hõm đất khi họ đặt Dôi-a vào đó và chiếc cặp lồng rung lên trong tay anh, tiếng huân chương chạm vào đáy lanh canh như những mảnh băng. Vừa uống tiếp anh vừa đưa đôi mắt dò hỏi ngoái nhìn về phía đằng sau, về phía chiếc túi cứu thương bị gió tuyết vùi lấp trông như một mô đất trăng trắng. Anh quay hẳn người lại nghẹn ngào, đặt cặp lồng xuống và đứng dậy, rời khẩu pháo, bước vào hào giao thông, đưa tay xoa cuống họng.
-Làm sao thế, trung úy? Trung úy đi đâu đấy?-U-kha-nốp gọi với theo ở sau lưng.
-Thường thôi, chả sao cả…-Anh khẽ đáp lại,-Tôi quay lại ngay. Chỉ có điều là… tôi đi quanh trận địa pháo.
Tiếng gầm rít rất thấp vang lên ở trên đầu, những chiếc máy bay cường kích bay ngang qua, sà xuống phía sau làng. Thân máy bay lóe lên hồng rực, tắm mình trong những tia nắng lạnh lẽo hắt lên từ phương Đông, đoàn máy bay lao về phía chân trời, bổ nhào xuống những mục tiêu bị che khuất, làm rung chuyển không trung buổi sớm mai bằng những loạt đạn khô khốc.
Và ở phía trước, trên những mái nhà trong khu làng đang bốc cháy, bầu trời tỏa rộng, làn khói đen đặc quyện lẫn ánh hồng bốc lên mù mịt, vươn về phía Tây, nơi mảnh trăng lưỡi liềm trong suốt đang lặn dần.
HẾT

Xem Tiếp: ----