Eugenie Marlitt (1825 - 1887)
Sáng hôm ấy, ở khắp các góc phố trong thành phố X đều dán những tờ quảng cáo đỏ báo tin nhà ảo thuật trứ danh Ooclôpxki đã đến cùng các tiết mục kỳ diệu của anh. Một thiếu phụ đến từng nhà bán vé. Nàng rất đẹp. Bộ tóc vàng hung lộng lẫy, dáng dấp kiều diễm và quý phái, nhưng bộ mặt dịu dàng của nàng xanh, nhợt nhạt như xác chết – người ta thường nói thế và những lúc hiếm hoi nàng ngước cặp lông mi vàng óng lên, đôi mắt xám sẫm chất chứa vẻ êm dịu gần như thê thảm làm xúc động lòng người. Nàng vào cả nhà ông Hêluy, ngôi nhà sang trọng nhất ở phố chợ. - Thưa bà, – Hăngri, người đầy tớ ở tầng dưới gọi, – vợ người làm ảo thuật đến. - Chị ta muốn gì? – Một giọng đàn bà nghiêm khắc hỏi. - Chồng chị ấy biểu diễn ngày mai, chị ấy muốn mời bà mua một vé vào xem. - Chúng ta là những tín đồ lương thiện, và cũng không có tiền để tiêu cho những trò hề ấy. Đuổi họ đi, Hăngri! Người đầy tớ đóng cửa phòng lại. Bác gãi tai, nét mặt bối rối, vì người biểu diễn chắc đã nghe thấy hết. Nàng đứng sững sờ trước mặt bác một lúc: mặt nàng thoáng đỏ lên và một tiếng thở dài nặng nề từ trong ngực thốt ra... Ngay lúc ấy, một cánh cửa nhỏ trổ trên cửa lớn hé ra, có tiếng đàn ông khẽ hỏi mua một vé, vé đưa ra, một đồng êquy nhẹ đưa vào tay thiếu phụ. Trước khi nàng kịp ngước mắt lên, cánh cửa nhỏ đã đóng lại. Tấm rèm xanh rủ những nếp mờ che sau cửa kính. Hăngri mở cửa và mỉm cười vui vẻ, người đàn bà đi ra với những bước chân ngập ngừng để tiếp tục con đường chông gai của mình. Hôm sau, phòng khánh tiết ở thị sảnh chật ních người xem. Hăngri lọt vào giữa đám đống, phải chen chúc mới thoát ra được để đến gần chủ. Ông ngồi cạnh một người bạn là bác sĩ Buêơm trên khán đài, giữa những người có địa vị trong tỉnh. Người xem tuôn đến cũng dễ hiểu. Chương trình hứa hẹn những tiết mục tuyệt diệu và tiết mục cuối cùng được viết như sau: “Bà Ooclôpxca sẽ xuất hiện trong vai Vankiri (1). Sáu người lính sẽ nổ súng vào bà, bằng một nhát kiếm, bà sẽ chém đứt ngang sáu viên đạn đang bay”. Dân chúng ở X đến đây chủ yếu để nhìn thấy điều phi thường này. Người đàn bà trẻ và đẹp đã làm cho mọi người chú ý, ai nấy muốn thấy nét mặt của nàng sẽ như thế nào khi các nòng súng chĩa vào nàng... Nhà ảo thuật cũng thu hút được sự chú ý của công chúng bằng các trò nhanh tay. Anh là người mà các bà thường gọi là một nhân vật lý thú. Người vừa phải, mềm mại dong dỏng cao, anh có nét mặt đều đặn, tóc đen, hai mắt đầy tình cảm, cử chỉ lịch sự và cách nói tiếng Đức nhấn mạnh giọng càng làm cho anh thêm hấp dẫn. Nhưng mọi giá trị ấy đều bị quên ngay khi sáu người bồng súng do một viên đội chỉ huy bước vào. Cử toạ bỗng náo nhiệt. Có thể nói đây là tiếng ầm ĩ của các ngọn sóng vỗ vào đá. Rồi tiếp đến là sự lặng lẽ đột ngột như lo sợ. Người Ba Lan tiến đến gần một cái bàn và đóng thuốc súng vào vỏ đạn trước mặt công chúng. Anh lấy búa nện lên từng viên đạn, để bằng tiếng động ấy, làm cho khán giả đang hồi hộp tin rằng đấy là những viên đạn thật. Rồi anh đưa cho mỗi người lính một viên và bảo họ nạp đạn. Nhà ảo thuật giơ chuông lắc. Một người đàn bà từ sau bức màn rộng bước ra. Nàng thong thả tiến lên dọc theo sân khấu và đến đứng trước mặt những người lính. Sự xuất hiện thật tuyệt diệu! Một chiếc mộc che trên cánh tay trái, tay phải nàng cầm kiếm. Chiếc áo dài trắng rủ thành nhiều nếp rộng xuống tận chân, chung quanh hông buộc các vảy bạc. Và tấm thân tuyệt đẹp được bảo vệ bằng chiếc áo giáp lóng lánh. Nhưng trang phục rực rỡ ấy so làm sao được với ánh vàng lóng lánh của bộ tóc luôn như sóng từ chiếc mũ sắt xuống tận gần gấu áo dài. Khuôn mặt xanh xao và buồn rầu hướng về phía các họng súng gây chết chóc. Không một sợi lông mi rung động. Không thấy một xao động nào ở bộ áo bồng bềnh... Nàng đứng đấy như một pho tượng đá... Tiếng hô cuối cùng vang lên trong gian phòng lặng lẽ, sáu tiếng súng nổ cùng một loạt... Thanh kiếm chém vào không khí rít lên, và những nửa viên đạn rụng xuống sàn. Mọi người còn thấy nàng Vankiri đứng bất động... Khói thuốc súng làm cho không thấy rõ nét mặt nàng và áo giáp của nàng như mờ đi qua đám mù... rồi bỗng nhiên nàng loạng choạng, chiếc mộc, thanh kiếm rơi loảng xoảng xuống đất. Nàng giơ tay phải ra như để tìm chỗ bám rồi ngã gục vào tay người chồng vừa chạy đến cùng tiếng kêu như xé lòng thốt lên: “Ôi, tôi trúng đạn...”. Anh ôm nàng ra phía sau bức màn, rồi như một người điên đang thịnh nộ lao đến chỗ mấy người lính. Mấy người lính đã được lệnh dùng răng cắn rút đầu đạn khi nạp đạn và giữ lại ở miệng, tất cả phép màu là ở chỗ ấy. Tuy vậy vẫn có một người vốn là nông dân vụng về – nên rất lúng túng khi nhìn thấy đám đông và mất bình tĩnh đúng vào lúc hiểm. Khi năm người kia theo lệnh nhà ảo thuật lấy ngay đầu đạn ở miệng ra, thì anh ta hoảng hốt thấy mình chỉ nhả ra vài hạt thuốc súng.... Viên đạn của anh ta đã xuyên qua người đàn bà bất hạnh kia. Thấy thế, người Ba Lan thất sắc vì đau đớn và thất vọng, mất bình tĩnh, đấm ngay vào mặt người vô ý thức mà trở thành tội phạm. Ngay lúc ấy, gian phòng bỗng rối loạn hẳn lên. Nhiều bà ngất đi, nhiều tiếng hét lên gọi thầy thuốc. Bác sĩ Buêơm là người đầu tiên hiểu rõ sự việc đã có mặt ở sau bức màn, bên cạnh người đàn bà bị thương. Khi ông bước ra, mặt tái đi vì xúc động, ông nói nhỏ với Hn gần giáo sư, điệu bộ rất cung kính. - Thưa giáo sư, cháu Guyôm nhà tôi đã nhìn thấy rồi, cháu nhìn rõ cũng như tôi nhìn vậy, – bà ta nói giọng run run, nước mắt chảy ròng ròng. – Nào ai ngờ được như thế! Trước kia cháu khổ biết chừng nào, và chúng tôi cũng khổ như nó! Bây giờ nó lại tự mình kiếm sống được rồi, thế là tôi có thể chết cũng yên tâm, vì tôi không để lại một đứa con mù loà không người giúp đỡ... Ôi, thưa giáo sư tất cả kho tàng trên thế giới này cũng không đủ để đền ơn ông! Nhưng chúng tôi nghèo lắm, nghèo quá, chúng tôi không dám nghĩ đến việc đền đáp công ơn ông đã mang lại cho chúng tôi... Xin ông đừng giận, ông giáo sư, tôi nghĩ ít ra cũng phải có một tý gì... - Bà muốn gì thế? – giáo sư thốt lên gay gắt và lùi lại một bước. Trong khi nói mấy lời cuối, bà ta vén vạt áo khoác lên: một cuộn vải lộ ra. - Đây là một tấm vải, không mịn nhưng bền, tôi tự kéo sợi... Nếu bà Hêluy chiếu cố dùng làm khăn giường... Giáo sư gắt lên: - Bà điên đấy ư, bà tưởng có nhiệm vụ cung cấp vải cho chúng tôi hay sao?... Bà đem cái của ấy về đi cho tôi nhờ, và bà về đi! Người đàn bà ngượng ngùng đứng im trước mặt anh. - Bà có thể loại bỏ việc này, bà Gôchiô ạ! – anh nói tiếp, giọng nhẹ nhàng hơn. – Tôi đã nói lại với bà rằng tôi không chấp nhận như thế... Còn bây giờ thì bà về đi, bà bảo với con bà tôi gửi lời chào, ngày mai tôi sẽ còn đến thăm anh ta một lần nữa. Anh chìa tay cho bà ta và kéo vạt áo khoác phủ lên tấm vải. Người đàn bà cúi chào rồi đi ra, mắt nhìn xuống. Bà Hêluy và bà nghị là những người lặng lẽ chứng kiến cảnh này. Nét mặt của bà Hêluy lộ rõ vẻ phản đối nghiêm khắc, có lúc bà đã định can thiệp. - Mẹ không hiểu được con, Giôhanex, – bà nói giọng trách móc sau khi người đàn bà kia đi khỏi. – Khi nghĩ đến việc học của con tốn kém ra sao mẹ không biết vì lẽ gì con lại từ chối sự đền bù, dù như thế nào đi nữa. Nếu điều ấy tùy thuộc mẹ, người kia sẽ để tấm vải lại đây. Không ai vứt qua cửa sổ thứ vải tốt ấy mà không biết phải trái gì cả! - Bác ơi, thế thì chắc cháu sẽ không được hoan nghênh với những ý nghĩ từ thiện đã đến với cháu! – bà nghị nói giọng bông đùa. – Anh Giôhanex, anh có hình dung được không, – bà nghị nói tiếp, trịnh trọng hơn, – sáng hôm nay chúng tôi đã nghe nói đến một gia đình cùng khổ nhưng lương thiện, mấy đứa bé tội nghiệp không có đến cả áo lót mặc bên trong đồ rách rưới của chúng nữa, em buồn quá, bác và em đã nghĩ đến việc đi quyên tiền. Nếu anh nhận tấm vải kia thì em đã đến gặp anh để xin rồi, dù thế nào thì anh cũng phải cho em, vải ấy sẽ may được bao niêu sơ mi cho lũ trẻ, em sẽ tự tay mình khâu lấy... - Ôi, lòng nhân ái của người ngoan đạo mới sâu sắc làm sao chứ! – Giáo sư kêu lên và cười gằn. – Phải lấy đến đồng tiền cuối cùng của một gia đình bần cùng để giúp đỡ cho những kẻ cùng quẫn khác, và bên trên cái việc làm đầy tình thương ấy, người trung gian độ lượng đứng lồng lộng chỉ cho đang day dứt thấy vòng hào quang của lòng từ thiện của phụ nữ chung quanh những búp tóc vàng hoe. - Anh ác lắm! – Bà góa trẻ phật ý nói. – Em muốn thấy... - Nhưng vịêc ấy không được tốn của cô một đồng xu nào, phải không Ađen? – Anh châm biếm nói. – Tại sao bà nội trợ từ thiện không rút từ trong tủ đầy ắp vải của mình ra nhỉ? - Không được, anh đùa đấy à! – Bà nghị phản đối. Giáo sư quay về phía mẹ: - Mẹ vừa trách con không làm cho kết quả của việc học hành tốn kém có giá trị như cần thiết... Con có thể đảm bảo với mẹ rằng con là người thực tiễn và coi như con người phải có nhiệm vụ làm việc tốt, nhưng bên cạnh việc đó con còn nghĩ cao hơn về nghề nghiệp của con, nghề này có phạm vi hoạt động rộng hơn mọi hoạt động khác – không loại trừ phạm vi của tôn giáo – trong lĩnh vực nhân ái rộng lớn đối với con người. Côn sẽ không bao giờ là người thầy thuốc một mặt giúp cho người bệnh bần cùng thoát khỏi giường bệnh, mặt khác lại đẩy họ ngập trong lo âu vì phải trả tiền cho sự giúp đỡ kia. Cho đến bấy giờ anh không để ý đến sự có mặt của Fêlixitê. Đến lúc ấy anh vẫn còn đưa mắt nhìn cô một cách vô thức, nhưng cái nhìn này đã không rời bộ mặt rạng rỡ vì sự hài lòng trong nội tâm, mắt họ gặp nhau lần đầu tiên với vẻ hài hoà trong ý nghĩ, thì ra chỉ trong khoảnh khắc của một ánh chớp; cô gái hoảng hốt nhìn xuống, và giáo sư ấn mạnh mũ xuống trán bằng một cử chỉ bực bội, làm cho bộ mặt đỏ gay của anh bị khuất một nửa dưới vành mũ rộng. - Tùy ý con thôi, Giôhanex, đấy là việc của con, – bà Hêluy lạnh lùng nói. – Nếu ông con còn sống chắc không chấp nhận cách nhìn này; hành nghề thầy thuốc là việc riêng của con, nhưng trong công việc, cụ thường nói, không nên dung nạp những tình cảm nhỏ mọn. Bà hầm hầm di chuyển thân hình đồ sộ của mình ra phía cửa sân. Bà nghị theo bên cạnh giáo sư. Đến phòng trước nhà, anh quay đầu về phía sân một lần nữa, Fêlixitê đã nhấc Annet ra khỏi xe để bế nó trên tay đi dạo chơi theo yêu cầu của nó. Có thể tưởng rằng thân hình mảnh khảnh của cô gái sẽ gãy gục lúc con bé quàng tay ôm cổ cô với tất cả trọng lượng của nó. Giáo sư trở lại sân ngay. - Tôi đã nhiều lần cấm cô không được bế con bé này... nó nặng quá mức với sức cô! – Anh nói – Vêrônic không dặn cô gọi Hăngri giúp ư? - Bà ấy quên và bác Hăngri không có nhà. Giáo sư nhấc nó khỏi tay cô đặt lại vào xe và mắng nó. Nét mặt anh nghiêm khắc và u ám hơn bao giờ hết; nếu lúc khác, Fêlixitê đã quay lưng đi rồi, nhưng hôm nay cô đã gây ra sự bực bội này, vì tiếng hát của cô, cô đã làm ngắt quãng các suy tư sâu sắc và quan trọng của người thầy thuốc và có lẽ làm mất đi một tia sáng mới đang hình thành. Bằng bất cứ giá nào, dù anh có bực bội như thế nào, cô cũng phải giải thoát được sự nặng nề đang đè nén cô, và anh cần biết rằng cô mắc lỗi vì vô tình. Thời cơ thuận lợi, hơn nữa cô lại không phải nhìn vào anh; cúi xuống xe, anh vẫn đang nói chuyện với con bé. - Tôi phải xin lỗi ông vì đã làm phiền ông do tôi hát.Giọng năn nỉ hoà nhã ấy, hoàn toàn mới đối với anh, tạo ra một tác dụng kỳ lạ. Anh đứng thẳng lên và nhìn cô một cách sâu sắc. - Xin ông hãy tin, – cô nhấn thêm – tôi thật không ngờ rằng ông có nhà. Tiếng “hát” có lẽ làm cho con bé nhớ đến nước mắt của Fêlixitê: - Bác ác lắm! Làm cho Carôlin khóc! – Nó lầu bầu và giơ nắm tay lên doạ giáo sư. - Con bé nói có đúng không? – anh vội vã hỏi Cô tránh trả lời thẳng câu hỏi này: - Tôi rất khổ tâm khi nghĩ rằng... - Rằng người khác có thể tưởng cô muốn người ta nghe thấy cô hát phải không? – anh ngắt lời Fêlixitê và thoáng mỉm cười. – Cô cứ yên tâm về điểm này, dù tin rằng cô hiếu thắng và cố chấp, tôi còn xa mới nghĩ được rằng cô muốn phô trương mình... Tôi bảo họ yêu cầu cô đừng hát nữa không phải vì cô làm phiền tôi mà bởi vì... giọng cô làm tôi khó chịu... Có lẽ điều đó làm mếch lòng cô chăng? Fêlixitê lắc đầu mỉm cười. - Như thế mới đúng chứ... Hơn nữa, tôi cần nói với cô điều này – Anh cúi gần cô và nhìn như dò xét. – Giọng hát của cô hôm nay đã bộc lộ cho tôi một bí mật vẫn được giữ rất kín. Fêlixitê giật mình. Anh đã theo dõi được mối quan hệ của cô với bà Coocđula. Cô cảm thấy mình đỏ mặt lên và nhìn anh bối rối vì lo lắng. - Bây giờ tôi đã hiểu tại sao cô từ chối mọi sự giúp đỡ của chúng tôi trong tương lai. Đúng thế, tay chúng tôi không với tới phạm vi cô dự định sẽ sống và hoạt động sau này... Cô sẽ lên sân khấu. - Thế thì ông nhầm rồi! – Cô trả lời không lưỡng lự. Cô thấy nhẹ nhõm hẳn – Dù cho việc trình bày trước đồng bào các sáng tạo của những trí tuệ lớn là một trong những việc làm tốt đẹp, tôi vẫn không đủ can đảm. Tôi vô cùng nhút nhát trước công chúng và tất sẽ không vượt quá được mức bình thường, vì thiếu tự tin... Hơn nữa, tôi sẽ không bao giờ có đủ kiến thức âm nhạc chuyên sâu cần thiết. - Điều đó chỉ phụ thuộc ở cô. - Chính thế. Ngay từ bé tôi đã hình dung thấy âm nhạc là một thứ không thể học được như tập đọc, tập viết; thứ ấy chắc phải từ trên trời rơi xuống gần như giáo lý Giatô, và ý nghĩ trẻ con ấy tôi vẫn giữ. Thứ làm cho tôi xúc động đến rơi nước mắt, làm cho tôi sôi nổi lên hơn mọi sự lộng lẫy trên thế giới, lại phải căn cứ vào các quy luật cứng nhắc và diệu vợi rồi ghi lại trên giấy bằng những ký hiệu to tướng và xấu xí mà lại phải đếm tỉ mỉ, chỉ ý nghĩ ấy cũng làm tôi ghê sợ, như bộ xương người... Vì thế, về nguyên tắc, tôi không nhìn đến cái thứ máy móc đáng ghét ấy. - Thế là chúng ta lại có một nét cơ bản về tính cô, nó ngược lại với tất cả những gì là quy luật, quy tắc, – anh nhận xét bằng giọng châm biếm, dù anh đã thích thú nghe cách định nghĩa kỳ lạ về âm nhạc. – Vậy là tôi đã kết luận nhầm và lúc nãy cô đã lúng túng rất lạ lùng cũng là thừa. – Anh nói thêm, giọng sắc bén. – Có lẽ đấy là một bí mật đặc biệt!... Tôi gần như bị cám dỗ là cố nài để cô nói rõ dự kiến về cuộc sống của cô như thế nào, nhân danh người bảo trợ. - Ông sẽ mất công, – cô đáp lại bình tĩnh và cương quyết. – Tôi sẽ không nói... Ông đã cho tôi được tự do hành động theo ý muốn trong thời hạn hai tháng nữa. - Đúng thế, tôi đã rủi ro mắc lỗi ấy, – anh nói tiếp vẻ khó chịu. – Tuy nhiên tôi cho rằng như thế là mạo hiểm, nếu không nói quá hơn, khi ở tuổi cô, muốn giải quyết các vấn đề sống còn theo ý muốn không có lời khuyên hay sự giúp đỡ của một người chín chắn và hiểu biết lẽ phải... Giả sử như khi phải cân nhắc việc quan trọng nhất trong đời sống của người phụ nữ... là gắn bó cuộc đời. - Trong trường hợp như thế, người bảo trợ của tôi sẽ là người tôi hỏi sau cùng! – Fêlixitê thốt lên với cặp mắt lấp lánh. – Có lẽ, tôi đã gửi gắm số phận mình cho con người khả ố, thất thường đó, nếu như tôi không sẵn có tính mạo hiểm muốn tự giải quyết những vấn đề sống còn của mình... Ông cũng có thể đã thản nhiên chấp thuận, tán thành lời đề nghị được coi là đáng tôn trọng của Vennơ, nếu tôi nhu nhược để cho mình bị khủng bố vì doạ nạt và ngược đãi. Lời trách móc ấy như một con dao hai lưỡi vì nó đúng. Giáo sư cắn môi, mắt anh do dự nhìn xuống nền đá lát dưới chân một lúc. - Đúng là tôi tưởng rằng như thế là kết thúc tốt nhiệm vụ thuộc phạm vi của tôi, – anh nói sau một lúc im lặng nặng nề. Giọng anh không còn vững vàng như mọi lúc. – Đấy là một sai lầm, vả lại tôi đã không cố chấp duy trì nó, cô biết đấy. Nếu theo ý kiến và bằng cớ của mẹ tôi, tôi đã đồng ý, không xem xét kỹ các mặt, tôi cũng không làm gì gây ảnh hưởng đến quyết định của cô bằng lời khích lệ hay sự nghiêm khắc... Hơn nữa, những lời nói khi ấy của tôi cũng sẽ là việc làm cuối cùng để tỏ ra tôi là người bảo trợ, – anh nói tiếp không phải không chua cay. – Tôi đành phải để mặc cô với số phận riêng tư... Cô có chờ đón với niềm vui và nguồn hy vọng không? - Có chứ! – Cô trả lời và mắt cô sáng lên. - Cô tin rằng cô sẽ sung sướng trong hoàn cảnh mới? - Tin vững chắc như tôi tin ở cuộc sống tốt đẹp sau này! Với câu hỏi sau anh đã nhìn cô bằng cái nhìn dò xét và sắc sảo chắc anh thường dùng với những bệnh nhân hay giấu giếm; nhưng nhìn thấy sắc diện cô rạng rỡ lên, anh quay đầu đi như bị mếch lòng hoặc tức tối. Anh không nói thêm một lời, đưa tay lên mũ chào rồi thong thả quay vào trong nhà... Chuông chín giờ buông đã từ lâu. Fêlixitê vào buồng đi ngủ. Trước hết cô mở toang cửa sổ cho thoáng, ngồi lên thành cửa, hai tay bó gối và nhìn vào sân. Trêêluy: “Người đàn bà diễm lệ thật đáng thương ấy sắp chết, không phương cứu chữa”. Một giờ sau, vợ người làm ảo thuật đã nằm trên một chiếc giường ở khách sạn Liông. Người ta khiêng nàng đến đây trên một chiếc ghế xôpha, Hăngri là một trong mấy người khiêng. Người đàn bà nằm bất động, hai mắt nhắm nghiền. Bộ tóc tuột xuống toả từng mảng rối tung trên gối và trên thành giường, tóc khoanh từng vòng trên tấm thảm sẫm màu... Người làm ảo thuật quỳ trước giường, bàn tay người bị thương đặt trên đầu anh đang gục xuống chăn. - Fê (2) ngủ ư? – Nàng thì thầm và cố mở mắt ra. Người làm ảo thuật ngẩng đầu lên: - Phải, – anh khẽ thốt lên qua đôi môi như đang co lại vì đau đớn, – con gái người chủ nhà đem nó về phòng cô ấy, nó ngủ trên một chiếc giường trắng nhỏ... con chúng ta được chăm nom chu đáo, ở nơi có thể yên tâm. Mêta, kho báu dịu hiền của anh ạ! Người đàn bà lộ vẻ đau đớn vô tả khi đưa mắt nhìn người chồng mắt đầy thất vọng. - Giaxcô, em chết mất! – Nàng rên lên. Người nghệ sĩ quỵ xuống thảm và quằn quại trong nỗi đau khổ tột cùng: - Mêta, Mêta ơi, đừng bỏ anh! – Anh kêu lên – Em là ánh sáng trên con đường tối tăm của anh! Em là vị thiên thần tự găm vào trái tim mình những chiếc gai của cái nghề đáng nguyền rủa của anh, để anh khỏi vướng phải chúng. Anh làm thế nào mà sống được nếu em không ở bên anh, nếu anh mất đi sự che chở của đôi mắt cẩn mật của em, của trái tim đầy tình yêu khôn tả của em? Anh khóc rất nhỏ. Một nụ cười đau khổ nở trên môi người đang hấp hối. Nàng đang cố gắng nhấc đầu lên, anh luồn tay xuống đỡ và bàn tay phải anh áp mặt vợ vào ngực mình như điên dại. - Giaxcô, bình tĩnh lại anh... hãy tỏ rõ là một người đàn ông! – Nàng rền rĩ. Đầu nàng tuột xuống như bất tỉnh, nhưng đôi mắt đã gần dại đi của nàng lại mở, có thể nói rằng sự sống sắp tắt hẳn nhưng còn cố bám lấy cái vỏ bọc đã suy nhược. Đôi môi sắp biến thành cát bụi ấy còn phải trăng trối thêm, trái tim ấy chưa thể ngừng đập ngay để đem xuống lòng đất những nỗi bứt rứt của tấm lòng một người mẹ đau khổ khôn tả: - Anh bất công đối với mình, Giaxcô ạ, – nàng nói sau một lúc im lặng để thu thập lại sức lực cuối cùng. – Anh đã làm cho em thành một người sung sướng nhất trong các người vợ. Ôi, Giaxcô. Nỗi lo âu về Fê đang hành hạ giờ phút cuối cùng của em. Em xin anh một hy sinh rất lớn, Giaxcô ạ... Anh hãy xa Fê... hãy giao con cho những người giản dị và nhân hậu chăm nom.... để cho nó lớn lên trong một gia đình yên tĩnh... hãy hứa với em điều ấy đi, chồng yêu quý của em. Người đàn ông ấy đã hứa bằng một giọng nghẹn ngào nước mắt. Khi rạng động lọt qua cửa sổ rắc những bông hồn ánh sáng lên thi thể đẹp đẽ của người đàn bà này, nét mặt nàng đã biến đổi, không còn mang một dấu vết kinh hoàng nào của lúc cuối cùng. Ooclôpxki lăn vào cái thi thể lạnh giá ấy, phải nhiều người mới gỡ anh ra được để lôi sang phòng khác. Ba ngày sau, vợ nhà ảo thuật đã được mai táng giữa đông đảo công chúng. Những tấm lòng trắc ẩn đã phủ đầu hoa lên quan tài, và trong những người có thế lực ở thành phố đi đưa đám có cả ông Hêluy... Nhà ảo thuật quỵ xuống khi những mảng đất đầu tiên rơi trên quan tài. Ông Hêluy đứng cạnh anh đã đỡ anh lên và đưa về thành phố. Ông ở lại rất lâu bên cạnh người chồng bất hạnh đang rũ rượu, trơ trơ trước mọi lời an ủi, có ý muốn huỷ hoại cuộc sống của mình... Những ai đi qua căn phòng tang tóc ấy đều nghe thấy từng cơn khóc nức nở của người đàn ông đau khổ, hay những lời âu yếm thiết tha, dồn dập, và trả lời lại là tiếng ríu rít ngọt ngào của một đứa trẻ thơ... Giọng nói thảm thiết và âm điệu trong như tiếng bạc kia của đứa bé tươi cười, cả hai tạo ra một bản hợp tấu xé lòng người. Chú thích: (1) Walkyrie: nữ thần chiến tranh, thần thoại Na Uy, Thuỵ Điển. (2) Nguyên văn: Fée – nàng tiên; vần đầu của Félicité: niềm hạnh phúc.