Có một người khách lạ trong phòng! -Đó là ý nghĩ đầu tiên của Toàn khi anh bước vào “phòng họp”. Đã có ba người ngồi xuống chiếu, hộp đựng bài nằm đó lặng lẽ chờ đợi, hai cái gạt tàn thuốc rỗng không, con bài Roker chưa đục lỗ dành cho anh nằm ngửa ở một góc chiếu… Thây kệ hắn ta là ai! Toàn nghĩ vào tháo giày ngồi xuống chỗ ngồi của mình. Ở ba góc chung quanh vẫn là ba đối thủ quen thuộc đang lạnh lùng hút thuốc. Toàn mồi một điếu Camel, chăm chăm nhìn hộp đựng bài. Chợt anh nghe thấy tiếng vào chạm nhẹ của thủy tinh. Anh ngước lên. Chủ nhân ngôi biệt thự Hoàng Hôn đồng thời là chủ sòng bạc đang rót rượu vào sáu chiếc ly nhỏ - rượu Johnny Walker. Toàn hiểu ngay ông đang làm thủ tục đưa một tay mới vào cuộc đêm nay. Khi mỗi người đã có trong tay một ly rượu, ông đến bên cạnh người khách lạ, quàng vai ông ta: - Đây là anh Bằng, bạn thiếu thời của tôi, công dân mới của Sài Gòn. Anh vừa từ Hà Nội vào. Toàn ném một cái nhìn lướt nhanh lên khuôn mặt người khách lạ và cảm thấy an tâm với nhận xét đây là một đối thủ xứng đáng. Người khách trạc độ năm mươi tuổi, lên tiếng bằng một giọng Bắc sắc nét và trầm ấm: - Xin cám ơn anh Hoàng đã cho tôi dịp may được gặp gỡ. Lần đầu tiên tôi đến thành phố của các bạn và muốn thử thời vận. Một loạt những cái bắt tay vừa như chúc mừng vừa như thăm dò. - Bây giờ xin mời các bạn vào cuộc! - ông Hoàng tuyên bố. Toàn chỉ chờ có vậy. Anh rất nóng lòng và anh rút ngay con bài đầu tiên: Xì cơ! Toàn thở phào: Điềm may đây! Đêm nay, anh không được phép thua; anh đã thua nặng nề một tuần nay rồi. Toàn rút con bài thứ hai-con tẩy. Qua cái lỗ nhỏ xíu của con Roker, Toàn thấy: Xì Bích! Với những con Tám, con Mười, con Ri, con Đầm, bốn nhà kia đều bỏ cuộc. Tiếc thật, chưa ai thật sự hăng máu mà bài mình đã quá mạnh, quá áp đảo. Thế này không hẳn là tốt. Nhưng đêm nay Toàn phải thắng, phải thắng lớn để củng cố tinh thần đã đến bờ vực sụp đổ. Anh đã hẹn với Phương một chuyến đi Đà Lạt, nhưng những mất mát liên tiếp về tiền bạc khiến anh thất hứa với nàng và thành ra kẻ nói dối quanh co nhiều lần qua điện thoại. Anh sợ đến một lúc nào đó nàng sẽ không còn tin anh nữa…Cần thiết phải chấm dứt chuỗi thất bại này, thoát được khỏi cơn khủng hoảng tài chính để đến với Phương một cách nhẹ nhõm và tự tin. Đêm nay, chỉ còn một đêm nay, nếu như trắng tay, anh phải chờ đến hai tháng sau mới nhận được tiền từ Mỹ gởi về. Trong thời gian đó, dĩ nhiên anh không thể thực hiện được lời hứa với Phương. Từ lâu anh đã quen đóng vai một người đàn ông lịch sự bên cạnh nàng. Dù hiểu rõ số tiền anh mang theo hôm nay thừa trang trải cho một chuyến đi vài ngày Đà Lạt, nhưng cơn khát đã xô đẩy anh đến ngôi biệt thự này, ngồi vào chỗ này…Vả lại, khuôn mặt anh, thân xác anh suốt tuần lễ nay hằn rõ dấu vết của kẻ thua bạc phờ phạc; anh thấy mình chưa sẵn sàng chuyện trò vui vẻ với nàng, chưa háo hức được làm tình với nàng. Diễn tiến của cuộc chơi dường như chiều theo ý Toàn. Anh thắng trong hầu hết các cuộc đấu tay đôi, tay ba. Các đối thủ của anh thay nhau móc vàng ra đưa cho chủ nhà để đổi tích-kê, trong đó có một người hình như sắp cạn kiệt, chỉ đánh cầm chừng, dè dặt. Người đàn ông tên Bằng ngồi không nhúc nhích, trừ đôi tay, nhưng cũng tỏ thái độ gì rõ rệt mặc dù ông ta là người thua đậm nhất từ đầu hôm tới giờ. Và ván bài nghẹt thở giữa Toàn và Bằng đã đến khi ba nhà kia đồng loạt xoay bài từ sau nước thứ ba. Trước khi rút con bài cuối cùng, Toàn đã có sẵn hai đôi Xì và Già với con Già là tẩy. Trong lúc đó, trên mặt chiếu, Bằng chỉ có con Ri, con Đầm và con Mười. Toàn nhận định: “Hắn đang định mua suốt, nhưng chỉ mua được một đầu vì Xì đã ra đủ bốn con. Hắn đang cầm một trong hai con: Già hoặc Chín. Già cũng đã ra ba con (một là con tẩy của Toàn); Chín cũng chỉ còn một lá duy nhất. So với Toàn, cơ hội của hắn rất ít. Nhưng sao hắn chưa chịu xoay bài? Khuôn mặt giá băng của hắn thật đáng ghét. Phải đuổi hắn thôi!” Toàn dụi điếu thuốc vào cái gạt tàn. Anh xếp gọn gàng đống tích kê theo từng loại, khi đã thành cuốn tự điển cỡ lớn, anh đẩy nhẹ ra giữa chiếu: - Ta-pi! Toàn đã đánh tới đồng bạc cuối cùng. Anh nghĩ rằng đối thủ của anh sẽ sợ và chạy. Nhưng không. Hắn đã theo anh, nhẹ như không. Toàn rút một lá bài vô nghĩa. Hắn rút được lá bài hắn cần để có suốt. Toàn nhìn xoáy vào đôi mắt ẩn sau cặp kính trắng của hắn để xem có biểu hiện gian manh nào trong đó không. Và anh thất vọng. Đó chỉ là một đôi mắt tinh anh và đẹp tuyệt. Thua một bậc cao thủ như thế này thì không có gì phải ân hận. Toàn bắt tay kẻ hạ nốc ao mình, nói: - Hẹn gặp lại! Anh đứng dậy, đến bên tủ rượu lấy chai Jonny Walker dở dang ngửa cổ nốc cạn rồi lảo đảo buông người xuống xa-lông. Ông chủ nhà ngồi xuống bên cạnh:- Sao ông đen lâu vậy? Xả xui nghen? Đầu óc Toàn rỗng không nặng nề, cặp mắt vô hồn nhìn sững lên trần nhà. Mãi một hồi lâu anh mới lờ mờ hiểu ra cái tiết mục xả xui trong ngôi biệt thự Hoàng Hôn dành cho những kẻ thua bạc. Anh gật đầu. - Loại nào? Toàn trả lời máy móc: - Thật vâm. Đêm ấy, Toàn như một khối lửa cuồng nhiệt; bao nhiêu sức lực anh dành hết vào cuộc hành lạc nhưng không thể nào đến độ cực khoái dù cho cô gái khỏe khoắn đã giở hết mọi thứ nghề. Xong việc, cô gái tìm cách trốn thoát ngay cái khối lửa là anh đang ngày càng cháy bừng hung tợn. Toàn nằm đó một mình, ê chề và cay đắng. Những ý nghĩ về thân phận hiện ra trong đầu anh, lộn xộn và đứt đoạn. …Cái truyện ngắn đầu tay viết năm mười bảy tuổi đưa anh vào làng văn chương Sài Gòn một cách thuyết phục…Một người đàn ông và một người đàn bà không quen biết nhau tình cờ ngồi cạnh nhau trên một chuyến xe đò từ Sài Gòn về Cần Thơ. Họ trò chuyện nhạt nhẽo, vu vơ suốt nửa đoạn đường, có lẽ do chiếc xe thường xuyên bị hỏng và buộc phải chạy chậm. Đột nhiên, chiếc xe tăng tốc độ và hai hàng cây bên đường lao vun vút về phía sau. Hai kẻ đồng hành bỗng thấy lo sợ vì sắp rời nhau. Từ nỗi lo sợ đó, câu chuyện của họ bắt đầu đậm đà, thú vị và càng lúc càng thắm thiết…Cuối cùng họ cũng phải chia tay nhau ở bến xe. Và vì những hoàn cảnh riêng tư tế nhị, không ai cho ai địa chỉ của mình. Câu chuyện chấm dứt trong không khí oi bức, ngột ngạt của một mùa hè chiến tranh. Người đàn ông lặng yên đứng nhìn người đàn bà lầm lũi bước đi, tấm lưng đẫm mồ hôi hằn rõ sợi dây nịt ngực… Toàn rời Cần Thơ lên Sài Gòn học Triết. Vừa học vừa viết truyện ngắn. Những truyện ngắn khô khăn, nặng nề suy ngẫm, đầy những cảm giác hụt hẫng, chơi vơi, bất toàn…Chúng được đón nhận không ồn ào nhưng chắc chắn và buộc các nhà phê bình để ý tới một hiện tượng. Toàn tìm được một chân dạy học ở trường tư Sài Gòn sau khi tốt nghiệp đại học. Anh bớt sáng tác và dành nhiều thời gian nghiên cứu triết học Tây phương và văn học hiện đại Pháp. Những bài viết nhỏ của anh về hai lĩnh vực này có gây được sự chú ý, nhưng chỉ là sự chú ý với một cái tên lạ. Người ta nghi ngờ, dè dặt và chờ đợi. Rồi khi anh tập hợp và in thành sách, từng vấn đề được xâu chuỗi thì thấy hiện ra một hệ thống tư duy mới của một cái nhìn mới, tuy còn đôi chỗ cực đoan và võ đoán nhưng không thấy dấu vết ảnh hưởng của ai. Đến lúc này, ngoài một chỗ đứng yên trên bục giảng, Toàn còn thêm thấy chỗ đứng khác trong nền văn học và báo chí của Sài Gòn. Thế rồi, trong thời gian dạy học, đã xảy ra một chuyện làm biến đổi sâu sắc những quan niệm về cuộc sống và cả cuộc đời anh sau này. Một buổi chiều Sài Gòn. Toàn đạp xe chầm chậm về nhà, không để ý đến dòng người xe bất tận đang trôi ngược, trôi xuôi, thỉnh thoảng anh ngước nhìn lên những ngọn đèn xanh đỏ. Bất chợt anh nghe thấy một tiếng nói quen thuộc vang lên ngay phía sau lưng mình: “Thưa thầy!” Anh dừng xe, ngoái lại và nhận ra Hiến, một nam sinh giỏi nhất môn Triết của lớp 12C trường X. Anh ta đang ngồi trên chiếc xe ba gác chất đầy những két bia la-ve. “Thưa thầy, sáng nay em không kịp xin phép vắng mặt.” Toàn đến đứng bên cạnh anh ta: “Em có thêm nghề này?” “Dạ, cũng đỡ. Nhưng phải giành giật dữ lắm, thưa thầy.” Bỗng nhiên, Hiến la lên: “Thầy nhảy lên lề!” Toàn ném xe đạp, vọt lên lề. Từ phía ngược chiều, một chiếc xe Dodge chở đầy lính Mỹ đang lao thẳng về phía hai người. Khi chạy đến gần sát chiếc xe ba gác chở bia của Hiến, tên tài xế da đen thò đầu mở toang cánh cửa xe có gắn một cái càng lớn hình chữ U. Chiếc xe Dodge khựng lại, rồi đột tăng tốc độ lao tới. Chiếc xe ba gác xoay tròn rồi lộn nhào. Toàn không hay rằng anh bị những mảnh vỡ găm đầy trên ngực, anh chỉ thấy một hình ảnh duy nhất là đứa học trò thân yêu của mình đang nằm bất động trên đống vỏ chai đổ nát, máu chảy loang đỏ trong vũng nước bia lênh láng. Những tràng cười khoái trá ghê rợn của những tên lính Mỹ trên chiếc xe Dodge xa dần, xa dần…Lần đầu tiên trong đời mình, Toàn khóc. Anh ôm thân thể người học trò nát bấy trong tay. Anh kêu lên những tiếng vô nghĩa. Anh chạy. Anh khóc. Anh vừa chạy vừa la hét. Cho tới khi một chiếc xe honda cập sát bên anh và người đàn ông quát tháo bảo anh ngồi lên xe…Nhưng đã quá muộn. Hiến đã chết trên tay anh… …Một căn phòng tối om nhưng Toàn cảm thấy hơi thở nóng hỏi của ít nhất bốn người đứng quanh mình. - Anh Toàn, tại sao anh lại xách động biểu tình? - Không, tôi không xách động biểu tình. Tôi tham gia với tư cách cá nhân. - Anh nói láo. Học trò anh bị bắt rất nhiều trong cuộc biểu tình sáng nay. - Tôi không biết. - Ai xúi giục anh biểu tình? - Tôi xúi giục tôi! - Làm thịt nó! Toàn lãnh trọn một trận bè hội đồng. Anh khỏe quá, chịu đựng giỏi quá nên gần ba mươi phút sau mới thực sự không còn biết gì. Đến khi thức dậy, anh thấy mình nằm trên một băng ghế đá trong công viên vắng vẻ. Anh nhớ lại lúc cảnh sát dã chiến đến giải tán đám biểu tình thì hai thanh niên mặc quần xanh, áo trắng chạy honda đến đón đường anh. “Thầy lên xe nhanh, tụi em đưa thầy về nhà.” Anh vừa ngồi lên xe thì tên ngồi sau khóa tay anh lại, bịt mắt anh, đánh vào gáy anh một cái thật mạnh và anh ngất đi… …Sau ngày giải phóng, anh vẫn dạy học bình thường, chỉ khác một điều là giờ đây anh chuyển sang dạy môn Văn. Vợ anh, bắt đầu có những toan tính cho việc sang định cư tại Mỹ, bên đó nàng có người anh ruột đang làm giám đốc một hãng sản xuất đồ điện tử. Toàn biết trước là mình sẽ không có mặt trong chuyến bay rời xa đất nước. Anh rất thương con, đứa con gái duy nhất. Anh không muốn xa con chút nào. Nhưng mẹ nó đã không còn yêu anh nữa không lâu sau ngày cưới. Sự mến mộ dành cho một tài hoa đã sớm bị thực tế phũ phàng dập tắt. Nàng không chịu đựng nổi một cuộc sống trong đó chồng mình thường xuyên bị rình rập, đe dọa, săn lùng. Tổ ấm gia đình trở thành nơi tụ họp lén lút của đám học sinh dấy loạn cực đoan, nơi chất chứa chấp những ấn phẩm bị cấm…Hôm anh lê cái thân xác rã rời, đau đớn về đến nhà là hôm mà giọt nước cuối cùng đã làm tràn ly nước. Thái độ khó chịu và miễn cưỡng của vợ khi băng bó vết thương và săn sóc anh những ngày anh nằm dài trên giường báo cho anh biết tình nghĩa giữa hai người đã thật sự hết rồi. Từ đó là những chuỗi ngày khổ sở, ngột ngạt và mỗi người rắp tâm tìm cho mình một lối thoát êm ả nhất. Và cơ hội của nàng đã đến: một người đàn ông mạnh mẽ, ngọt ngào vừa tìm đến với nàng. Họ thật hạnh phúc bên nhau. Anh thấy nhẹ nhõm với ần anh khăng khăng trong suy nghĩ đòi được cải tạo nó, làm cho nó tốt đẹp, công bằng hơn. Anh đã thành kẻ xa lạ ngay trên thành phố yêu dấu này. Anh đã đánh mất niềm vui lòng vòng qua các đường phố mỗi sáng tinh mơ, mỗi đêm khuya khoắt. Chợt nghĩ về đám học trò cũ của anh, nghe nói có đứa làm lớn, có đứa lang thang, có đứa đi kinh tế mới bị sốt rét ác tính, chết. Nghe nói những tệ nạn cũ của ngày trước giờ đã phục hồi và hoành hành dữ dội trong thành phố này…Khu nhà ổ chuột ngày càng xập xệ, rách nát, ở đó vẫn còn chui ra chui vào một thằng bạn học của anh…Công viên có cây đa trăm tuổi vẫn lởn vởn những hình ma bóng quế, vẫn là cái túi đen ngòm chứa chất thú tính con người. Xóm Âm Hồn ngày xưa là lãnh địa của một băng cướp khét tiếng, bây giờ vẫn vậy và còn rùn rợn hơn…Những số phận bị bỏ mặc cho dòng đời. Những tâm hồn lương thiện bị dập vùi. Những khát vọng sống, làm người không được biết tới. Tất cả vẫn còn đó. Và còn đó trong anh những câu hỏi về cuộc nhân sinh phi lý, còn nguyên một vết thương chưa bao giờ được xoa dịu vì đã từng chạm đến đáy sâu của những kiếp người trầm luân. Còn nguyên một ý thức phản kháng! Một tiếng thét phẫn nộ! Vậy mà trong bao nhiêu năm qua, anh chỉ là một con bạc không hơn không kém, tự nhốt mình giữa căn phòng nhỏ hẹp, chạm mặt đến nhàm chán với dăm bảy con người đã thành người máy, lấy những ván thắng ván thua làm thước đo cách thế và giá trị tồn tại của mình. Giờ trước còn xôn xao, háo hức, giờ sau đã chán chường cùng cực. Lấy ấy một vài tin tức nóng hổi, giật gân trong thành phố, trong nước do chủ nhà thông báo cũng không lọt được vào tai anh. Lúc ấy, kẻ bàng quan số một là anh. Nhưng kẻ đòi dấn thân mạnh mẽ số một cũng là anh mỗi khi trên đường khuya về, canh bạc đã bỏ quên hoàn toàn sau lưng, anh chợt nhớ ra anh là ai, đang trôi đến đoạn nào của dòng sông lịch sử, đang đi trong thành phố thân thương chưa ngủ ngon giấc… Phương ngồi thẳng dậy, lay mạnh vai Toàn: - Anh đang nghĩ gì vậy? Có nghe em nói không? Toàn lắc đầu: - Chuyện gì vậy? - Tức thiệt. Về chuyện dạy kèm của anh, em tính tìm thêm vài chỗ cho anh. - Từ từ đã. Lúc nào cần anh sẽ nhờ đến em. - Anh phải làm việc thật nhiều để đầu óc khỏi nghĩ lung tung. Toàn tròn mắt nhìn Phương muốn thốt lên: “Hôm nay em thật dễ thương!” Những lúc êm đềm như thế này bên Phương, nếu không phải ở giữa quán xá, Toàn sẽ yêu cầu Phương hát cho anh nghe những ca khúc của Cung Tiến… Trước giải phóng, Phương là học trò của anh ở lớp 12A1, trường B. Nàng học xuất sắc ở tất cả các môn, nhưng với môn Triết của anh thì chỉ vào loại trung bình. Toàn bắt đầu để ý đến nàng từ sau những phút văn nghệ cuối giờ dạy của anh. Anh này hát Phạm Duy, cô nọ Trịnh Công Sơn, cô khác Vũ Thành An…Toàn nghe nhưng không thích lắm. Nhạc Việt Nam anh chỉ thích nhất là Cung Tiến, mặc dù ông sáng tác không nhiều. Khi anh hỏi có ai biết hát nhạc Cung Tiến không thì ở dãy bàn cuối lớp có một cánh tay nhẹ nhàng giơ lên: Nguyễn Thị Kim Phương. Toàn vụt nhớ ngay. Đây là cô bé ưa thích dẫn thơ, ca dao, tục ngữ vào những bài luận của mình, rất nhiều khi không chính xác. Thế nhưng có một lần, khi cả lớp bí tắc không tóm gọn được nội dung của “tình cảm đam mê” thì cô ta nhanh nhảu xin trả lời: “Khi yêu trái ấu cũng tròn-Khi ghét trái bồ hòn cũng méo”. Tuyệt! Toàn thầm khen. Bữa đó, Phương còn làm anh ngạc nhiên về giọng hát khá truyền cảm và kỹ thuật. Nàng hát “Thu Vàng”. Những hôm sau là “Nguyệt Cầm”, “Hương Xưa”, “Lệ Đá Xanh”… Đến khi nàng hát bài “Đêm Hoa Đăng”- bài hát này anh chưa hề nghe, nhưng theo nàng là của Cung Tiến- thì anh buộc phải thừa nhận là anh thích nghe nàng hát mãi… Những cô gái tinh nghịch trong lớp mở chiến dịch gán ghép anh với nàng, với cái chứng cớ rõ ràng là hai người đều có chung một cầu nối là âm nhạc Cung Tiến. Nhưng Toàn không đi xa hơn được. Anh chủ động cắt bớt những chương trình văn nghệ mini cuối giờ dù trong thâm tâm không muốn vậy. Từ đó anh không còn được nghe nàng hát nữa. Rồi cùng với hàng trăm học trò khác của anh, cuối niên học đó Phương rời khỏi trường và biệt tăm hẳn. Đúng mười năm sau, tình cờ anh gặp lại nàng ngay trước cổng ngôi trường cũ. Nàng đã là cô giáo, dạy học ở đây gần năm năm rồi. Vậy nghĩa là hai năm sau khi anh bỏ dạy nàng mới về trường. Cuộc gặp gỡ bất ngờ làm thức dậy trong anh những xao xuyến cũ tưởng đã chết hẳn từ lâu. Và, sau mười năm, anh lại được nghe nàng hát, không phải trong lớp học mà ngay trong căn phòng xinh xắn của nàng. Có thêm tiếng đàn gui-tare và một không gian ấm cúng, giọng hát nàng như được chắp cánh. Có anh là thính giả duy nhất gần gũi, nàng hát mà anh như muốn thổ lộ những tâm sự thầm kín. Anh cảm nhận được điều gì còn ẩn sau những giai điệu…Nhẹ nhàng nhưng không cưỡng lại được, lời-Phương-không-nói-ra cứ từng ngày thấm sâu trong anh… - Về đi anh, trưa rồi-Phương nói. - Em về một mình nghe. Anh ngồi lại chơi với anh Ngữ chút xíu. Lâu quá hai anh em không gặp nhau… - Còn đêm nay? - Anh thề sẽ không đến “chỗ ấy” đâu! - Vậy đến với em đi! - Cũng có thể… - Hay mình gặp nhau ở quán cà phê nào đó? - Ừ. Anh sẽ phôn cho em. Khi tà áo dài trắng của Phương khuất ở cuối đường Toàn còn đứng hút thuốc tần ngần hồi lâu. Anh vừa nhận ra một phần tâm hồn mình nơi cô gái ấy. - Tôi vừa nhận được thư của bà Thương (Thương là tên người vợ cũ của Toàn)- ông Ngữ nói. - Chắc là vì nhớ thèm các món ăn Việt Nam của anh chứ gì?- Toàn nói. - Ừ. Bà Thương có ý định mở một quán cơm Việt Nam ở bên ấy. Bà viết thư xin tôi một số kinh nghiệm và bí quyết. Toàn cố giữ để không bật ra một tiếng cười rẻ rúng. Có lẽ nàng đã nghĩ tới chuyện ấy từ lúc còn ở bên này, từ lúc đưa chồng mới của nàng đến quán ông Ngữ. - Bà Thương có than phiền về ông- Ông Ngữ nói. Toàn giật mình: …Khi đã nhận được sự bảo lãnh từ phía người anh ruột, vợ anh như phát rồ, và điều gì đến phải đến như anh tiên liệu: nàng chủ động đề nghị ly hôn. Anh không có lý do gì để từ chối đề nghị này, bởi từ trước ngày giải phóng một năm đến giờ anh đã phớt lờ cuộc tình vụng trộm của nàng và người đàn ông nọ, đã coi như nàng hoàn toàn không lệ thuộc gì vào anh nữa, đã chấp nhận cho nàng được tự do vô giới hạn. Anh có thử đưa ra một điều kiện mặc dù biết chắc là sẽ không được nàng chấp nhận và tệ hại hơn nữa, có thể bị nàng cho là anh ích kỷ, đớn hèn: anh xin được nuôi đứa bé, lúc đó đã được năm tuổi. Quả nhiên, điều đó đã xảy ra. Thật là khủng khiếp. Anh có thể bẻ gãy những lý luận vững chãi về triết học nhưng trước cơn cuồng loạn chữ nghĩa và giọng điệu của nàng, anh đành lặng im…Nàng cho anh một ân huệ cuối cùng: được liên lạc thư từ với con và được nàng trợ cấp nếu có thể… Trước ngày lên máy bay, nàng đưa con đến chơi với anh trọn một ngày, còn nàng cùng với người chồng mới cưới đi chia tay bà con, bạn bè. Trong nhà không có gì cho con chơi, anh dẫn con đi sở thú, vào nhà thờ Đức Bà (anh cầu nguyện cho con được lớn lên yên lành nơi xứ người), anh lang thang qua các phố xá cho đến khi con bé mệt quá, thiếp ngủ trên vai anh thì chiều cũng vừa xuống… …Anh về quê thăm má và em, để đỡ buồn. Nhà đông đủ cả, chỉ thiếu con Út. Bữa cơm trưa không có nó. Buổi tối cả nhà quây quần đọc kinh, lần chuỗi, cũng không thấy nó về. Nó là con bé ngoan đạo nhất nhà mà, tại sao vậy? Toàn cảm thấy một không khí buồn tủi, u uất bao trùm khắp nhà. Anh linh tính có điều gì chẳng lành xảy ra. Anh gặng hỏi mẹ: - Con Út đâu cả ngày không thấy, hả má? Hỏi mấy bà cũng không trả lời, chỉ tấm tức khóc. Thằng Ba, con Tư, con Năm lẩn đi đâu hết rồi. Toàn hét to: - Con Út làm sao rồi? Lúc này, má mới quay nhìn lên bàn thờ Chúa Giêsu và Đức mẹ Maria, rồi nhìn anh: - Lạy chúa, con Út được ơn kêu gọi, nó đi tu rồi, Hai mà. Toàn bàng hoàng. Trong nhà, người anh thương nhất là con Út; nó xinh đẹp, ngoan ngoãn và thánh thiện. Bây giờ, nó đã mười tám tuổi, nó đã lớn nhưng có nó đây anh sẽ ôm nó vào lòng như ôm đứa con gái của anh. Con Út đi tu thật rồi sao? Ai sẽ mang lên Sài Gòn cho anh những giỏ cam vườn? Ai sẽ thường xuyên viết thư cho anh kể chuyện quê nhà? Toàn thấy trước là trong những ngày tới anh sẽ phải trăn trở, xót xa biết chừng nào khi nghĩ về con Út. Nó đã hiến dâng linh hồn và cả cuộc sống cho Chúa; đó là một thử thách nghiệt ngã nhất trên đời dành cho con người mà anh biết. Em sẽ không còn được nô đùa, chạy nhảy tùy thích. Em sẽ thôi không được ăn ngon, mặc đẹp tùy thích. Đối với mẹ và các anh chị, em cũng không được nhớ tưởng đến nhiều mà phải toàn tâm toàn ý hướng về Chúa…Phải chăng em mong muốn đáp lại ước nguyện cháy bỏng ruột gan của cha con mình cho đến nhắm mắt là mong trong nhà có được một người con được ơn kêu gọi Chúa? Đột nhiên, trong đầu Toàn dậy lên một mối hồ nghi: giọng khóc của má chứa đựng nhớ thương thì ít mà tức tưởi, đau đớn thì nhiều. - Có điều gì má còn giấu con? Cuối cùng, sự thật đã được thằng Ba nói ra: Có một đơn vị bộ đội về đóng quân trên xóm Dừa, phía sau nhà thờ. Theo như con Út kể lại trong đơn vị có một cậu bộ đội tên Tuấn rất ngoan đạo nhưng bỏ đi lễ, bỏ xưng tội đã lâu. Vì vậy được đóng quân cạnh nhà thờ cậu ta mừng lắm, lại đi lễ hằng ngày. Rồi nó nghe con Út hát thánh ca, nó để ý thương. Con Út phải lòng cậu ta. Tình cảm nhẹ nhàng thôi nhưng ai cũng biết. Vậy rồi xảy ra một chuyện động trời: cậu Tuấn đào ngũ. Cậu ta trốn đi ngay trong đêm đơn vị liên hoan với thanh niên địa phương để sáng hôm sau chuyển quân đi nơi khác. Con Út không hay biết chuyện người yêu nó đào ngũ. Nó chỉ nghe nói mai đơn vị bộ đội chuyển đi là lật đật chạy xuống thăm và chia tay với Tuấn. Khi con Út tới thì thấy đám thanh niên địa phương đã say khướt, cùng với đa số bộ đội. Thấy con Út, người ta đột ngột nhận ra sự vắng mặt của cậu Tuấn. Vậy là đổ xô nhau đi tìm, đồng thời con Út bị giữ lại để tra hỏi. Người ta một mực cho rằng con Út rủ rê cậu Tuấn đào ngũ. Con nhỏ khóc lóc mấy cũng không ai tin. Người ta yêu cầu con nhỏ dẫn đường cho bốn thanh niên địa phương đi tìm cậu Tuấn. Con nhỏ không chịu đi thì bị lôi kéo. Con nhỏ phản ứng thì bị hăm dọa. Và bốn tay thanh niên đó đã lợi dụng bóng tối… - Út ơi… Đêm ấy, nếu có thể đổi được mạng sống của mình để lấy sự trinh trắng hồn nhiên của đứa em gái Toàn sẽ không một chút do dự. Đêm ấy, lần đầu tiên anh có ý nghĩ rằng giáo hội Thiên Chúa giáo đã rất sáng suốt khi cho thành lập các nữ tu viện. Giáo hội đã làm sáng danh Chúa trong việc xây dựng một thế giới thứ hai trên trái đất này…Nghĩ vậy, nhưng nước mắt Toàn cứ chảy đầm đìa vì thương em… Sau thảm kịch của đứa em gái, Toàn đâm ra chán nản cùng cực và bỏ nhiệm sở. Và để có thể sống qua ngày anh phải đi dạy kèm Anh văn cho những người sắp xuất cảnh, trong đó có mấy đứa của của ông chủ ngôi biệt thự Hoàng Hôn; rồi chính trong ngôi biệt thự này, nơi có một sòng xì-phé sang trọng và kín đáo, Toàn trở thành con bạc khét tiếng. Thoạt đầu, sau những giờ dạy, anh lân la tới ngồi xem. Không khí đối đầu căng thẳng, hồi hộp và cuộc đấu trí quyết liệt một mất một còn giữa các tay chơi dần dà quyến rũ anh. Một trò chơi tâm lý cao cấp rất thích hợp với đầu óc ưa xét đoán của anh. Anh hẹn với mình sẽ có ngày ngồi xuống bên cạnh họ. Ngày đó đã tới: anh nhận được đô la từ Mỹ gởi về. Lần chơi đầu tiên anh gặp may, vét sạch tiền vàng trong túi các “đồng sòng”. Được kích thích, anh chơi tiếp và lại gặp may. Anh trở thành kẻ đam mê lúc n một ít tiền làm vốn liếng, Bằng, không còn cách nào khác, xông thẳng vào trận chiến buôn bán của Hà Nội. Sự tồn tại được tính từng ngày và từng thương vụ lặt vặt. Nhưng rồi chỉ nhờ một lần liều lĩnh, một lần may mắn, với cả một lần ngốc nghếch nữa…Bằng đã phất lên thật nhanh, nghiễm nhiên trở thành tay buôn hàng cao cấp có cỡ. Bấy giờ Bằng mới sắp xếp thời gian, sắp xếp nhân sự đàn em vào guồng máy làm ăn để tránh xuất đầu lộ diện nhiều, để hình ảnh nhem nhuốc bụi bặm của anh ngày nào có thể biến mất đi trong đầu óc của dân phố chợ. Bấy giờ Bằng bắt đầu làm quen với sinh hoạt, thói ăn chơi của giới có tiền, có máu mặt của Hà Nội…Một vài lần anh chạm trán thằng Quốc Vạn- trong quán bia, trong sòng bạc…-nhưng cả hai đều phớt lờ nhau. Con người ta ai cũng có số. Bằng nghĩ vậy như là tự trả lời mỗi khi anh sực nhớ rồi ngạc nhiên đến khó hiểu về tình trạng của mình. Duy chỉ có một điều anh quyết không thụ động ngồi chờ số phận đưa đẩy mà sẽ tự mình toan tính, thúc đẩy cho nó mau chóng trở thành hiện thực. Đó là ý định rời bỏ hẳn Hà Nội để vào hẳn Sài Gòn. Đó không phải là cuộc ra đi thuần túy tìm vùng đất mới. Bằng cho là mình hai lần gặp may khi vừa đặt chân lên đất Sài Gòn. Một là thắng đậm trong lần đánh bạc thử thời vận đầu tiên tại nhà ông Hoàng. Hai là gặp được nhà văn Nguyễn Toàn. Khởi đi như thế là tốt đẹp. Sài Gòn hình như đã sẵn sàng đón anh vào hội nhập. Nghe xong câu chuyện quá khứ của Bằng, như từ trong vô thức Toàn thốt lên một câu lạ lùng: - Tôi sợ nhất là lúc nhắm mắt xuôi tay mà vẫn chưa biết được một mùa thu Hà Nội. Bằng khẽ cười: - Anh vẫn còn mơ mộng lắm đấy! Toàn ngạc nhiên: - Sao lại vẫn còn? Không có gì có thể giết chết được tâm hồn mơ mộng của rồi cả. Nhưng điều tôi nói đâu phải là mơ mộng. Hà Nội, tôi hằng ước ao một lần được đến để tìm lại một mảnh tâm linh của chính mình. Bằng nói: - Có thể là Hà Nội cất giữ của mỗi người Việt chúng ta một mãnh tâm linh, nhưng theo thời gian nó đã đánh mất rất nhiều của người này người kia. - Vậy anh tưởng rằng ở đây, phương Nam này, thành phố Sài Gòn này có thể mang lại cho anh toàn những điều tốt lành chăng?- Toàn nói mà không hay biết mình đã cất giọng và riết róng. - Không, tôi không kỳ vọng gì nhiều. Nhưng đơn giản là tôi muốn hoàn tất nốt phần còn lại của đời mình một cách êm thấm. Rất may cho tôi là tôi có một khoản tiền lớn và không có những mối liên hệ tình cảm sâu sắc. Cô đơn thật dễ chịu. Tự dưng Toàn nghĩ tới đứa em gái tu sĩ rồi thầm hỏi với một nội tâm như thế nào mà người ta có thể quay lưng trước một cuộc sống dồn dập muôn màu muôn vẻ này. Không lẽ có trên trần gian những cõi riêng tư bất khả xâm phạm, ở đó hết ngày này qua ngày khác một người ngồi đối diện với bóng mình, nói chuyện với chính mình? Người đàn ông này không có vẻ gì của một đạo sĩ hay thiền sư, vậy thì cuộc đời đầy sóng gió của anh ta chẳng lẽ dễ dàng thu xếp được qua một bên? Dường như anh không có ý thức trả thù đời, không để tâm oán giận ai, thản nhiên đi tiếp đoạn cuối hành trình một đời người. Nghĩ tới đó, trong tâm hồn Toàn chợt dậy lên những cảm xúc kỳ lạ- như là cảm thông vừa như là bức bối, như là xót thương vừa như là thảng thốt đến mức khó chịu. Bao trùm lên tất cả là niềm yêu mến. Phải rồi, không biết từ lúc nào, Toàn bắt đầu cảm thấy yêu mến người đàn ông xa lạ này. Bất ngờ với cả chính mình, Toàn hỏi: - Anh vẫn thường đến chơi chỗ ông Hoàng chứ? Bằng lắc đầu: - Không. Kể từ sau đêm gặp anh. Toàn không chờ đợi một câu trả lời như vậy. Anh rơi vào trạng thái mất thăng bằng. Và nỗi buồn, như có thể sờ thấy được đang ở trước mắt anh. Anh ngỡ như mình đang phạm tội đẩy một con người vào bóng tối hiu quạnh. Mặt khác, anh thấy tức giận con người đang tự làm mình trở nên trỗng rỗng, vô ích, tẻ nhạt. Anh quên rằng anh đã từng sống kiếp sống tầm gửi nhiều năm tháng qua. Toàn nóng nảy: - Còn ông Hoàng? - Ông ta ồn ào quá, tôi không gần được- Bằng điềm tĩnh trả lời. - Anh sẽ làm gì những ngày tới?- Toàn thấy mình thật vô lý ngay khi đặt câu hỏi này, nhưng một nỗi náo nức muốn tìm hiểu, khám phá đã không được dằn xuống. - Gần như không làm gì cả, anh Toàn ạ. Tôi đang tìm mua một căn nhà nhỏ ở một nơi yên tĩnh. Còn lại bao nhiêu vốn liếng tôi gửi vào tín dụng, lấy lãi sống qua ngày. Toàn tỏ vẻ không tin: - Vậy thôi à? Tôi nghe nói những người ngoài ấy vào đây đều mang theo những dự định to lớn. Họ có sự khôn ngoan thật đáng nể và hầu hết đều thành công. Bằng buồn bã nói: - Tôi thì không. Toàn có cảm giác như tiếng “không” được nhấn mạnh và rền rĩ. Bất chợt trong trí anh hiện lên một đoạn phim ngắn anh từng xem hồi nhỏ. Trên màn ảnh là cận cảnh đôi chân khẳng khiu đang lê từng bước khó nhọc, rồi viễn cảnh một nghĩa trang khổng lồ lô nhô những cây thánh giá, cận cảnh một đáy huyệt đen nhòm. Toàn còn nhớ lúc ấy anh hồi hộp tột độ, mồ hôi vã ra như tắm, úp mặt vào đôi tay, tuyệt vọng vì thấy giữa khoảng không rợn người không còn ai ngăn cản đôi chân kia đang lạnh lùng đi tới, mỗi lúc một gần nghĩa trang và lỗ huyệt. Cái gì nơi anh ta đã gây cho Toàn sự liên tưởng kỳ lạ đó? Phải chăng là từ tiếng “không” mạnh mẽ được thốt lên như một tuyên bố phủ định tất cả? Và như thế trước mắt và chung quanh anh ta chỉ còn có cái chết rình rập đợi chờ. Ý nghĩ đó làm Toàn nghẹn ngào. Bằng hỏi mượn một số sách báo cũ của các tác giả nước ngoài được dịch ở miền Nam trước 75. Toàn loay hoay tìm kiếm với nỗi mừng thầm là Bằng sẽ trở lại với anh để trả sách. Nhưng liền đó là sự hoang mang: không lẽ ông ta sẽ đốt hết quỹ thời gian còn lại của mình chỉ o không hay. Anh không còn quan tâm đến xã hội bên ngoài cánh cổng ngôi biệt thự Hoàng Hôn mặc cho ngày tháng trôi đi cùng với những canh bạc thâu đêm suốt sáng, những giấc ngủ mê mệt… Trong làng cờ bạc chuyên nghiệp, có lẽ chuyện xảy ra với Toàn sau cái đêm trắng tay đó là chuyện có một không hai. Nửa khuya Toàn về đến nhà và đánh một giấc đến chiều hôm sau. Thức dậy trong tâm trạng ê chề tuyệt vọng, đầu óc mê muội, tối ám của Toàn lờ mờ hiện lên một ý nghĩ tự sát, một ý nghĩ so sánh cuộc sống vô nghĩa rỗng tuếch của mình với miếng giẻ rách nằm ở góc nhà, một ý nghĩ giá như giấc ngủ cứ kéo dài vô tận. Không dự định gì cho buổi tối. Không chờ đợi gì ngày mai. Không tiếc nuối, buồn rầu vì túng bấn. Không thấy đói. Không thấy khát. Không biết phải bắt tay vào công việc gì bây giờ trong căn nhà trống vắng. Đúng lúc ấy có tiếng gõ cửa. Người đàn ông Hà Nội đêm qua ở sòng bạc xuất hiện trước mắt anh như một bóng ma. Anh thấy lạnh buốt ở sống lưng. Anh mất hết tự chủ, nói lắp bắp: - Anh tìm tôi? Người đàn ông trả lời, vẻ tươi tắn hiện trên khuôn mặt: - Tôi đến thăm anh và có một chút chuyện. Toàn sực tỉnh: - Mời anh vào nhà. Có khách đến, Toàn tự dưng ngửi thấy mùi ẩm mốc bốc lên nhà trong nhà, thấy rõ bụi bặm phủ dầy trên bàn ghế, ly tách và các loại sách báo, nhật trình bừa bộn khắp nơi. Anh lúng túng đến mức muốn phát cáu lên với chính mình. Rất may là người khách không để mắt tới bất cứ điều gì, ông tự tìm một chiếc ghế. Toàn bật điện, mở quạt và ngồi xuống trước mặt người khách. - Xin lỗi anh Toàn về sự đường đột này- ông Bằng nói sau khi nhận điếu thuốc từ tay Toàn - Tôi biết được địa chỉ của anh là qua anh Hoàng. Toàn ngước lên, nhìn sâu vào mắt người khách thay cho câu hỏi: Có chuyện gì vậy? - Tối qua sau khi tan sòng, tôi hỏi thăm anh Hoàng để biết qua danh tánh của anh, và tôi thật không ngờ đã gặp được anh là nhà văn mà tôi đã đọc khá nhiều trong một hoàn cảnh lạ lùng như thế. Toàn thở phào: - Trước giải phóng tôi có viết, nhưng cũng không nhiều lắm. Văn chương tôi thì khô khốc, nhọc nhằn…ít người đọc. Dường như không để ý đến điều Toàn nói, ông khách tiếp: - Tôi có một người em trai họ ở đây là độc giả trung thành của anh. Sau giải phóng ít lâu cậu ta có việc đi công tác ra Hà Nội, mang theo mấy cuốn sách của anh. Trao tất cho tôi, cậu ta bảo tôi phải đọc cho bằng được. Anh trở thành nhà văn Sài Gòn đầu tiên mà tôi được đọc… - Cám ơn. Anh cho tôi nghe câu chuyện để thú vị quá…- Toàn giấu không để lộ ra trong giọng nói của mình cảm xúc ngậm ngùi. Từ lâu anh đã quên mình là một nhà văn. Từ lúc nào không rõ anh đã thành kẻ đứng bên lề cuộc sống và văn chương…- Xin lỗi, chắc anh Bằng cũng là người trong làng văn ngoài ấy? Cuộc trò chuyện đã tự nhiên và thân mật hơn. Bằng vui vẻ: - Tôi học điện ảnh ở Nga về nhưng không có cơ hội nào để làm phim cả. Thế là tôi tọc mạch cây bút với trang giấy. Toàn bất giác thở dài: - Đã nhiều năm nay tôi gần như không quan tâm gì tới văn chương nữa, và cho đến giờ phút này anh là người đầu tiên còn nhắc đến những cuốn sách của tôi… Rồi Toàn thầm nghĩ: Người khách này thật lạ! Tuy vậy ông ta chưa làm gì khiến mình khó chịu. Ông ta tỏ ra thành thật. Anh hỏi ý kiến ông khách rồi lấy rượu ra. Rượu, những chai rượu dở dang, luôn có sẵn trong nhà anh. Hai người cụng ly, không nói gì, uống cạn. Rót đầy cho mỗi người một ly mới, Bằng nói, một hơi rành rọt: - Tôi lại phải xin lỗi anh về sự đường đột…Tối qua tôi thử thời vận và gặp may mắn quá lớn. Hôm nay tôi đến đây là để hoàn trả anh số tiền anh thua tôi trong ván bài sau cùng. Toàn sửng sốt, suýt làm đổ ly rượu. - Tôi thề là không hề có ẩn ý nào khác…Tôi đã quyết định làm thế này ngay từ tối qua lúc rời khỏi nhà anh Hoàng. Sẽ không có thêm một lần nào tôi và anh lại ngồi sát phạt nhau. Mong anh hiểu tôi. Trong lòng Toàn dậy lên một cảm giác nôn nao. Anh còn biết nói gì khi tất cả đã rõ ràng: trước mặt anh chỉ có thể là một người thành thực. Chai rượu vơi đi rất nhanh. Họ nói với nhau đủ mọi thứ chuyện từ Hà Nội đến Sài Gòn, từ điện ảnh tới văn học, từ chiến tranh tới hòa bình…Và khi đề tài đàn bà xuất hiện thì Bằng bỗng trở nên hào hứng, sôi nổi hơn lúc nào hết. - Phụ nữ Sài Gòn hiện đại lắm phải không?- Bằng hỏi. - Về mặt nào chứ? - Chăn gối ấy. - Hiện đại về mặt chăn gối à? Trời đất, chữ với nghĩa. Nhưng làm sao có thể khái quát nổi, hả ông? Lần nào cũng vậy, bà Thứ, mẹ Phương luôn luôn đón Toàn bằng thái độ vừa niềm nở vừa trách móc. Nhưng hôm nay, trong ánh mắt long lanh của bà chỉ có toàn là sự trách móc. - Lâu ngày mới gặp anh. Chắc anh bận công chuyện dữ lắm?- Bà nói mát mẻ. Toàn trả lời ngập ngừng: - Dạ. - Không hiểu sao con Phương nó gây gổ với tôi suốt cả tuần nay? Bà làm bộ không hiểu đấy thôi. Chính là bà muốn đổ trách nhiệm cho Toàn, khéo léo nhắc nhở Toàn về chuyện tình cảm đứa con gái tuổi Dần của bà. Nàng đang sốt ruột được anh ngỏ lời hỏi cưới. - Tính tình Phương thật khó, bác à- Toàn đáp cho có chuyện, cố tránh cái nhìn quyết liệt của bà Thứ. - Không, nó chỉ mới khó gần đây thôi- Bà Thứ nghiêm giọng. Những điệp khúc bóng gió quen thuộc lại vang lên, nhưng hôm nay âm điệu nghe chừng sắc nhọn hơn. Anh chỉ mong Phương sớm có mặt ở đây, tự khưa tìm ra thì một cơn mưa bất ngờ đổ xuống khiến hai người phải tấp vào một hiên nhà. Hôm nay Toàn có niềm vui nho nhỏ. Đó là lần đầu tiên sau hơn mười năm anh lại nhận được một món tiền khá lớn nhuận bút cuốn sách dịch do ông Ngữ giới thiệu. Anh đã chia sẻ niềm vui đó với ông Ngữ, Bằng và Phương bằng một cuộc nhậu đặc sản với bia lon. Ba người bạn của Toàn đã vui vẻ làm quen nhau. Khi hai gã đàn ông ấy đã bí tỉ ngả nghiêng trò chuyện, Toàn và Phương tìm cách lẻn đi. Hôm nay, trong mắt Toàn, Phương đẹp hơn bao giờ hết và anh không ngớt nhìn vào khuôn mặt quen thuộc mà lạ lẫm của người yêu. Đêm. Mưa. Những ánh đèn pha lướt nhanh trên mặt đường sũng ướt. Hai hàng cây bên đường đứng im như đang nhìn ngắm họ. Toàn ôm chặt Phương vào lòng. Những phần da thịt mềm mại và những đường cong trên cơ thể nàng, anh cảm thấy rõ đang rung lên nhè nhẹ. Toàn phủ lên mặt cô, lên cổ, lên tóc nàng một trận mưa hôn. - Anh yêu em! - Rượu đang lên tiếng phải không? - Em làm anh phát điên lên đây…-Toàn ghì siết tấm thân lẳn chắc của nàng dưới bộ áo dài, bàn tay hấp tấp tìm tới giữa hai đùi nàng. - Do mưa đó thôi! - Đêm nay chúng ta sẽ có con với nhau, nghe em. - Sao anh không cưới em? - Anh sẽ cưới em… - Lúc nào hở anh? Em đang khổ sở vì chờ đợi đây… - Lúc nào em có con, lúc đó chúng ta là vợ chồng… - Anh nghe đây: em đã có mang rồi. Toàn buông Phương ra. Dường như anh vừa nghe thấy một giọt mưa lớn rơi ngay trên đỉnh đầu. - Em nói thật chứ? - Em nói thật. Đã gần một tháng nay rồi. Anh có mừng không? Toàn hoàn toàn thoát khỏi cơn say: - Anh chưa biết nữa. Bất ngờ quá, anh tưởng là em có phòng chứ? - Em vẫn thường xuyên đề phòng…Nhưng có một hôm nào đó em quên. Hôm ấy em muốn chết hẳn dưới sức nặng của người anh, và thế là em chỉ còn nhớ duy nhất một điều là em đang hạnh phúc. - Bây giờ phải làm sao? - Anh muốn nói gì? - Anh không biết… - Em sẽ sinh con. Chắc em làm anh thất vọng lắm phải không? - Anh không chuẩn bị gì cho đời anh, nói gì đến chuẩn bị cho cả một gia đình. Nhưng anh không có cảm giác thất vọng. Anh chỉ thấy lo lắng cho em. - Sao anh không cưới em? Mùa hè sắp hết rồi. Em sẽ phải đến trường. Anh sẽ để mặc em trước dư luận sao? Đôi mắt Toàn ánh lên những tia sáng, Toàn nhìn thẳng như muốn xé toang màn mưa đêm. Anh nói, như là nói với ai chứ không phải với Phương: - Anh sẽ cưới em. Ngay đêm nay. Trong căn nhà của anh. HẾT