1. Hồ PhươngTrên biển lớn mênh mông sóng nướcNgó trông về xóm mới khuất xaCỏ non nay chắc đã giàBuồn tênh lại giở thư nhà ra xem.2. Nguyễn Đình ThiXung kích tràn lên nước vỡ bờĐã vào lửa đỏ hãy còn mơBay chi mặt trận trên cao ấyQuên chú nai đen vẫn đứng chờ.3. Tô HoàiDế mèn lưu lạc mười nămĐể O Chuột phải ôm cầm thuyền aiMiền tây sen đã tàn phaiTrăng thề một mảnh lạnh ngoài đảo hoang.4. Nguyên HồngBỉ vỏ một thời oanh liệt nhỉSóng gầm sông Lấp mấy ai hayCơn bão đến động rừng Yên thếCon hổ già uống rượu giả vờ say5. Nguyễn Công HoanBác Kép Tư Bền rõ đến vuiBởi còn tranh tối bác nhầm thôiBới tung đống rác nên trời phạtTrời phạt chửa xong bác đã cười.6. Nguyễn TuânVang bóng một thời đâu dễ quênSông Đà cũng muốn đẩy thuyền lênChén rượu tình rừng cay đắng lắmTờ hoa lại trót lỡ ưu phiền.7. Huy CậnCác vị La hán chùa Tây phươngCác vị gày quá tôi thì béoNăm xưa tôi hát vũ trụ caBây giờ tôi hát đất nở hoaTôi hát chiến tranh như trẩy hộiKhông nên xấu hổ khi nói dốiViệc gì mặt ủ với mày chauTrời mỗi ngày lại sáng có sao đâu!8. Xuân DiệuHai đợt sóng dâng một khối hồngKhông làm trôi được chút phấn thôngChao ơi ngói mới nhà không mớiRiêng còn chẳng có, có gì chung.9. Tế HanhQuá tuổi hoa niên đã bạc đầuTình còn dang dở tận Hàng ChâuKhúc ca mới hát sao buồn thếHai nửa yêu thương một nửa sầu.10. Chế Lan ViênĐiêu tàn ư? Đâu chỉ có điêu tànTa nghĩ tới vàng son từ thuở ấyChim báo bão, lựa chiều cơn gió dậyLựa ánh sáng trên đầu mà thay đổisắc phù saThay đổi cả cơn mơ,ai dám bảo con tầu không mộng tưởngMỗi đêm khuya không uống một vầng trăngLòng ta cũng như tầu, ta cũng uốngMặt anh em trong suối cạnHội nhà văn11. Nguyễn ThiTrăng sáng soi riêng một mặt ngườiChia ly đôi bến cách phương trờiƯớc mơ của đất anh về đấtIm lặng mà không cứu nổi đời.12. Kim LânNên danh nên gía ở làngChết về ông lão bên hàng xóm kiaLàm thân con chó xá gìPhận đành xấu xí cũng vì miếng ăn.13. Tú MỡMột nắm xương khô cũng gọi mỡQuanh năm múa bút để mua cườiTưởng cụ vẫn bơi dòng nước ngượcNào ngờ trở gió lại trôi xuôi.14. Bùi Huy Phồn (Đồ Phồn)Phất rồi ông mới ăn khaoThơ ngang chạy dọc bán rao một thờiÔng đồ phấn, ông đồ vôiBao giờ xé xác để tôi ăn mừng.15. Hoài ThanhVị nghệ thuật nửa cuộc đờiNửa đời sau lại vị người ngồi trênThi nhân còn một chút duyênLại vò cho nát lại lèn cho đauBình thơ tới thuở bạc đầuVẫn chưa thể tất nổi câu nhân tìnhGiật mình mình lại thương mìnhTàn canh tỉnh rượu bóng hình cũng tan16. Vũ Tú NamVốn cùng nhân dân tiến lênMùa đông năm ấy bỏ quên cờ đàoCon về nấp bóng ca daoGiật mình nghe một tiếng chào: Văn Ngan17. Hữu MaiHỏng đôi mắt phải đâu là mất hếtTrong cặp còn hồ sơ điệp viênÔng cố vấn chẳng sợ gì cái chếtCao điểm cuối cùng quyết chí xông lên.18. Đỗ ChuĐám cháy ở sau lưngĐám cháy ở trước mặtThan ôi mày chạy đâuDưới vòm trời quen thuộcĐốt bao nhiêu cỏ mậtKhông bay mùi thơm thoCàng hun càng đỏ mắtQuay về thung lũng cò19. Xuân QuỳnhMải hái hoa dọc chiến hàoBỏ quên chòi biếc lúc nào không hayThói quen cũng lạ lùng thayTrồng cây táo lại mọc cây bạch đàn20. Phạm Tiến DuậtTrường sơn đông em đi hái măngTrường sơn tây anh làm thơ cho línhĐời có lúc bay lên vầng trăngLại rơi xuống chiếc xe không kínhThế đấy! giữa chiến trườngNghe tiếng bom cũng mạnh!21. Nguyễn Thành LongThao thức năm canh nghĩ chẳng raTrò chơi nguy hiểm đấy thôi màLặng lẽ giữa khoảng trong xanh ấyĐể mối đùn lên đến lúc già.22. Đào VũTrời thí cho ông vụ lúa chiêmÔng xây sân gạch với xây thềmCon đường mòn ấy ông đi mãiLưu lạc đâu rồi mất cả tên23. Nguyễn BínhHai lần lỡ bước sang ngangThương con bướm đậu trên giàn mồng tơiTrăm hoa thân rã cành rờiThôi đành lấy đáy giếng thơi làm mồ.24. Nguyễn Văn BổngNhọc nhằn theo bước con trâuHỡi người áo trắng nông sâu đã từngMỗi bước đi một bước dừngMà sao vẫn lạc giữa rừng U minh.25. Nguyên NgọcMấy lần đất nước đứng lênĐứng lâu cũng mỏi cho nên phải nằmHại thay một mạch nước ngầmCuốn trôi đất Quảng lẫn rừng Xà nu26. Vũ Thị ThườngTừ trong hom giỏ chui raĐã toan gánh vác sơn hà chị ơiĐịnh đem cái lạt buộc ngườiKhổ thay ông lão vịt trời phải chăn27. Quang Dũng“Sông Mã xa rồi tây tiến ơi”Về làm xiếc khỉ với đời thôiNhà đồi một nóc chênh vênh lắmSống tạm cho qua một kiếp ngườiÁo sờn thay chiếu anh về đấtMây đầu ô trắng, Ba vì xanhGửi hồn theo mộng về tây tiến“Sông Mã gầm lên khúc độc hành”28. Mai NgữTưởng chuyện như đùa hoá ra thậtBiết ông sòng phẳng tự bao giờCái con thò lò quay sáu mặtVồ hụt mấy lần ông vẫn trơ29. Nguyễn KhảiCha và con và... họ hàng và...Hết bay mùa thóc lẫn mùa lạcCho nên chiến sĩ thiếu lương ănHọ sống chiến đấu càng khó khănTháng Ba ở Tây nguyên đỏ lửaTháng tư lại đi xa hơn nữaĐường đi ra đảo đường trong mâyNhững người trở về mấy ai hayXung đột mỗi ngày thêm gay gắtMuốn làm cách mạng nhưng lại dát130. Hoàng Trung ThôngĐường chúng ta đi trong gió lửaCòn mơ chi tới những cánh buồmTừ thuở tóc xanh đi vỡ đấtĐến bạc đầu sỏi đá chửa thành cơm31. Chính HữuTấm áo hào hoa bạc gió mưaAnh thành đồng chí tự bao giờTrăng còn một mảnh treo đầu súngCái ghế quan trường giết chết thơ.32. Thanh TịnhBao năm ngậm ngải tìm trầmGiã từ quê mẹ xa dòng Hương giangBạc đầu mới biết lạc đườngTay không nay lại vẫn hoàn tay khôngMộng làm giọt nước ôm sôngÔm sông chẳng được, tơ lòng gió bay.33. Chu VănMột con trâu bạc già nuaNhờ cơn bão biển thổi lùa lên mâyTrâu ơi ta bảo trâu nàyQuay về đất mới kéo cày cho xong.34. Ngô Tất TốTài ba thằng mõ cỡ chuyên viênChia xôi chia thịt lại chia quyềnViệc làng việc nước là như vậyLộn xộn cho nên phải tắt đèn.35. Nam CaoAnh còn đôi mắt ngây thơSống mòn sao vẫn đợi chờ tương laiThương cho Thị Nở ngày nayKiếm không đủ rượu làm say Chí Phèo.36. Xuân ThủyXoắn mãi dây tình thơ bật raParis thì thích hơn ở nhàĐông y ắt hẳn hơn tây dượcXe tải không bằng xe VongaTrên đời kim cương là quý nhấtThứ đến tình thương dân nghèo taEm chớ chê anh già lẩm cẩmCòn hơn thằng trẻ lượn Honđa.37. Lưu Trọng LưEm không nghe mùa thuMùa thu chỉ có láEm không nghe rừng thuRừng mưa to gió cảEm thích nghe mùa xuânCon nai vờ ngơ ngácNó ca bài cải lương.38. Nguyễn Khoa ĐiềmMột mặt đường khát vọngCuộc chiến tranh đi quaRồi trở lại ngôi nhàCất lên ngọn lửa ấmNgủ ngon a Kai ơiNgủ ngon a Kai à...39. Nguyễn KiênAnh Keng cưới vợ tháng mườiNhững đứa con lại ra đời tháng nămTrong làng kháo chuyện rì rầmVụ mùa chưa gặt thóc đã nằm đày kho.40. Anh ThơẤy bức tranh quê đẹp một thờiMá hồng đến quá nửa pha phôiBên sông vải chín mùa tu húKhắc khoải kêu chi suốt một đời.41. Xuân Thiều“Đôi vai” thì gánh lập trườngĐôi tay sờ soạng con đường cuối thônNghe anh kể chuyện đầu nguồnVề nhà thấy mất cái hồn của em.42. Nguyễn Thị Như TrangNhá nhem khoảng sáng trong rừngĐể cho cuộc thế xoay vần hơn thuaXác xơ mầu tím hoa muaLửa chân sóng báo mây mưa suốt ngày.43. Bùi Đức Ái (Anh Đức)Chị Tư Hậu đẻ ra anhVí như hòn đất nặn thành đứa conBiển xa gió dập sóng dồnĐất tan thành đất chỉ còn giấc mơ.44. Nguyễn Thế PhươngĐi bước nữa rồi đi bước nữaPhấn son mưa nắng đã tàn phaiCái kiếp đào chèo là vậy đóĐêm tàn bến cũ chẳng còn ai.45. Vũ Trọng PhụngĐã qua đi một thời giông tốQua một thời cơm thầy cơm côCòn để lại những thằng Xuân tóc đỏVẫn nghênh ngang cho đến tận bây giờ.46. Xuân ThiêmThơ ông tang tính tang tìnhCây đa bến nước mái đình vườn dâuThân ông mấy lượt lấm đầuMiếng mồi danh lợi mắc câu vẫn thèm.47. Đào Hồng CẩmBắt đầu từ lão nghị hụtCầm dao giết mạng ngườiChị Nhàn phải đi bước nữaLấy đại đội trưởng của tôiCuộc đời mấy phen nổi gióPhải đem tổ quốc thề bồiLần này ông ra ứng cửChắc hẳn là trúng nghị viên thôi.48. Nguyễn Quang SángÔng Năm Hạng trở về đất lửaVới chiếc lược ngà vượt Trường sơnBỗng mùa gió chướng vừa nổi dậyÔng biến thành thằng nộm hình rơm.49. Hoàng Văn BổnCó những lớp người đi vỡ đấtMùa mưa không trồng lúa trồng ngôLại gieo hạt bông hường bông cúcTrên mảng đất này hoa héo khô.50. Phù ThăngChuyện kể cho người mẹ ngheBiển lửa bốc cháy bốn bề tan hoangĐứa con nuôi của trung đoànPhá vây xong lại chết mòn trong vây.51. Nguyễn Thị Ngọc TúĐất làng vừa một tấcBao nhiêu người đến càyThóc giống còn mấy hạtĐợi mùa sau sẽ hay52. Vũ CaoSớm nay nhấp một chén tràBâng khuâng tự hỏi đâu là núi đôiNhững người cùng làng với tôiMuốn sang đèo trúc muộn rồi đừng sang53. Phan TứBên kia biên giới anh sangTrước giờ nổ súng về làng làm chiMẫn và tôi tính chi liGia đình má Bảy lấy gì nuôi anh.54. Nguyễn Huy TưởngAnh chẳng còn sống mãiVới thủ đô luỹ hoaĐể những người ở lạiBốn năm sau khóc oà.55. Thu BồnChim Chơ rao cất cánh ngang trờiTình như chớp trắng cháy liên hồiĐám mây cánh vạc tan thành nướcMà đất ba dan vẫn khát hoài.56. Bùi HiểnSinh ra trong gió cátĐất Nghệ an khô cằnBao nhiêu năm “nằm vạ”Trước cửa hội nhà văn.57. Võ Huy TâmĐem than từ vùng mỏVề bán tại thủ đôBị đập chiếc cán búaHoá ra thằng ngẩn ngơ.58. Nông Quốc ChấnTưởng anh dọn về làng xưaNgờ đâu về tận thủ đô nhận nhàSướng cái bụng lắm lắm àĐêm là đèo gió, ngày là hồ Tây.59. Thế LữVới tiếng sáo thiên thai dìu dặtMở ra dòng thơ mới cho đờiBỏ rừng già về vườn bách thúCon hổ buồn lặng lẽ trút tàn hơi.60. Nguyễn Minh ChâuCửa sông cất tiếng chào đờiRồi đi ra những vùng trời khác nhauDấu chân người lính in mauQua miền cháy với cỏ lau bời bờiĐọc lời ai điếu một thờiTan phiên chợ Giát hồn người về đâu?61. Phạm Huy ThôngNếu Trương Lương không thổi địch sông ÔLiệu Hạng Vũ có lên ngôi hoàng đếNhưng buồn thay đã đánh mất Ngu CơĐời chẳng còn gì, và thơ cũng thế.62. Giang Nam“Xưa tôi yêu quê hương vì có chim có bướm”“Có những ngày trốn học bị đòn roi”Nay tôi yêu quê hương về có ô che nắngCó ghế ngồi viết những điệu thơ vui.63. Bằng ViệtNhen lên một bếp lửaMong soi gương mặt ngườiBỗng cơn giông nổi đếnMây che một khung trờiĐất sau mưa sụt lởMầu mỡ trôi đi đâuCòn trơ chiếc guốc vàngTrăng mài mòn canh thâu.64. Nguyễn Trọng OánhMột chút hương thơm trải bốn mùaMười năm lăn lội chốn rừng giàQuay về không chịu ơn mưa mócĐất nắng mưa rồi đất lại khô.65. Nguyễn Xuân SanhXưa thơ anh viết không người hiểu“Đáy đĩa mùa đi nhịp hải hà”Nay anh chưa viết người đã hiểuSắp sáng thì nghe có tiếng gà.66. Thâm Tâm“Người đi, ờ nhỉ, người đi thật”Đi thật nhưng rồi lại trở vềNhẹ như hạt bụi, như hơi rượuMà đắm hồn người trong tái tê.67. Nguyễn Huy ThiệpKhông có vua thì làm sao có tướngNên về hưu vẫn phải chết tại chiến trườngKiếm sắc chém bao nhiêu đầu giặcĐể vàng tôi trong lửa chịu đau thương.68. Phùng QuánHồn đã vượt Côn đảoThân xác ở trong laoBởi nghe lời mẹ dặnNên suốt đời lao đao.69. Tố HữuTa đi tới đỉnh cao muôn trượngMắt trông về tám hướng phía trời xaChân dép lốp bay vào vũ trụKhi trở về ta lại là taTừ ấy tim tôi ngừng tiếng hátTrông về Việt Bắc tít mù mâyNhà càng lộng gió thơ càng nhạtMáu ở chiến trường, hoa ở đây.70. Dương Thu HươngTay em cầm bông bần lyBờ cây đỏ thắm làm chi não lòngChuyện tình kể trước lúc rạng đôngHoàng hôn ảo vọng vẫn không tới bờThiên đường thì quá mù mờVĩ nhân tỉnh lẻ vật vờ bóng maHành trình thơ ấu đã quaHỡi người hàng xóm còn ta với mình.71. Hữu ThỉnhCùng đoàn quân anh đi tới thành phốBị lạc đường về hội nhà vănỜ nhỉ bao giờ quay trở lạiVới năm anh em trên một chiếc xe tăng.72. Trần Bạch ĐằngVán bài lật ngửa tênh hênhCon đường thiên lý gập ghềnh mãi thôiThay tên đổi họ mấy hồiVẫn chưa tới được chân trời mộng mơ73. Nguyễn DuyMẹ và em đang ở đâuGiữa vùng cát trắng đêm thâu gió lùaỔ rơm teo tóp ngày mùaXác xơ thân lúa vật vờ thân tôiBờ tre kẽo kẹt liên hồiBầu trời vuông với một ngôi sao dờiĐánh thức tiềm lực suốt đờiAi?Chẳng ai đáp lại lời của tôi.74. Nguyễn Mạnh TuấnAnh đã đứng trước biểnCù lao Chàm kia rồiNhưng khoảng cách còn lạiXa vời lắm anh ơi.75. Trần Mạnh HảoÔi thằng Trần Mạnh HảoĐi phỏng vấn Chí PhèoLão chết từ tám hoánhĐời mày vẫn gieo neoCòn cái lão Bá KiếnĐục bản in thơ màyBao giờ mày say rượuBao giờ mày ra tay76. Hoàng CầmEm ơi buồn làm chiEm không buồn sao đượcQuan họ đã vào hợp tácĐông hồ gà lợn nuôi chungBên kia sông Đuống em trôngTìm đâu thấy lá diêu bông hỡi chàng.77. Lê LựuNgười về đồng cói người ơiPhía ấy mặt trời mọc lạiMột thời xa vắng, xa rồiPhủ Khoái xin tương oai oáiỞ đời gặp may hơn khônNào ai dám ghen dám cãiNgười đã đi Mỹ hai lầnBiết rồi, khổ lắm, nói mãi178. Vũ Quần PhươngAnh đứng thành tro... em có biếtHôm qua lại gặp chuyến xe bòVẫn anh đi trong vầng trăng cũÁo đỏ bên cầu đợi ngẩn ngơ.79. Hữu LoanÔi màu tím hoa simNhuốm tím cuộc đời dài đến thếCho đến khi tóc bạc da mồiChưa làm được nhàcòn bận làm ngườiNgoảnh lại ba mươi nămTìm mãi nghìn chiều hoangbiền biệt80. Lý Văn SâmKiên Trì dấn bước đường chinh chiếnNửa gánh giang hồ nửa ái ânNgàn sau sông Dịch còn tê lạnhTráng sĩ có về với bến xuân.81. Tản ĐàVăn chương thuở ấy như bèoThương cụ gồng gánh trèo leo tận trờiGiấc mộng lớn đã bốc hơiGiộc mộng con suốt một thời bơ vơTiếc chi cụ sống tới giờChợ trời nhan nhản tha hồ bán văn.82. Lưu Quang VũCũng muốn tin vào hoa hồngTin vào điều không thể mấtCả tôi và cả chúng taĐứng trong đầm lầy mà hátÔng không phải là bố tôiCon chim sâm cầm đã chếtÔng không phải là bố tôiCon chim sâm cầm ai giết183. Hà Minh TuânBốn mươi tuổi mới vào đờiĂn đòn hội chợ tơi bời xác xơGiữa hai trận tuyến ngu ngơTrong lòng Hà nội bây giờ ở đâu?84. Minh HuệVỡ lòng câu thơ viếtMời bác ngủ bác ơiĐêm nay bác không ngủNhà thơ ngủ lâu rồi85. Văn CaoThiên thai - từ giã về dương thếNhắc chi ngày ấy buồn lòng taSân đình ngất ngưởng ngôi tiên chỉUống rượu say rồi hát quốc ca86. Ma Văn KhángKhi xuôi anh mang theoĐồng bạc trắng hoa xòeVới một mối tình sơn cướcMùa lá rụng trong vườnNăm này qua năm khácĐám cưới vẫn không thànhVì giấy gía thú chửa làm xong87. Vũ BãoSắp cưới bỗng có thằng phá đámNên ông chửi bố chúng mày lênĐàu chày đít thớt đâu còn ngánKhông viết văn thì ông viết phim.88. Hồ DzếnhBiết mấy mươi chiều khói thuốc bayQuê nhà vẫn lẩn khuất trong mâyLui về ký ức chân trời cũUống chén rượu buồn không dám say.89. Hoàng Phủ Ngọc TườngTrăm năm ông phủ... Ngọc Tường ơiCái nợ lên xanh rũ sạch rồiCửa Việt tung hoành con sóng vỗSông Hương lặng lẽ chiếc thuyền trôiSử thi thành cổ buồn nao dạChuyện mới Đông hà tái nhợt môiTừ biệt chốn xưa nhiều ánh lửaTrăm năm ông phủ... Ngọc Tường ơi!90. Phạm Thị HoàiDẫu chín bỏ làm mười hay mười hai cũng mặcChẳng ai dung thiên số đất nàyDụ đồng đội vào trong mê lộRồi bỏ đi du hí đến năm ngày.91. Thanh ThảoGiặc dã yên rồi vềxoay khối vuông Ru bíchĐoán vận rủi mayThưa quý vị, xin mời1Xanh tím trắng đỏ vàng đều rõ hếtTa cùng vào cuộc chơi.Không gian bốn năm chiều, thời gian xin tuỳ thíchĐảo lộn tùng phèo thật gỉa trắng đen“Tôi như cục xà bông thứ thiệt”Cứ đổ rượu vào hình quý vị sẽ hiện lên.92. Trần DầnNgười người lớp lớp xông ra trậnCờ đỏ mưa sasuốt dặm dàiMở đợt phá khẩu tiến lênnhất định thắngLô cốt mấy tầng đè nát vaiDẫu sông núi cỏ cây làm chứngHồn vẫn treo trên Vọng hải đài.93. Khương Hữu DựngBa lô trên vai từ đêm mười chín“Một tiếng chim kêu sáng cả rừng”Thì cứ khắc đi rồi khắc đếnSao còn ngồi đấy cụ già Khương?94. Bùi Minh QuốcTuổi hai mươi xung phong lên Tây bắcNguyện hi sinh chiến đấu dưới cờLại xung phong vào Nam đánh giặcVới bà cụ đào hầm đầu bạc phơ phơHoà bình rồi tiến lên đổi mớiBất ngờ ngã ngựa chốn non caoDẫu thân thể mang đày thương tíchThì cuộc đời vẫn đẹp saoTình yêu vẫn đẹp sao195. Ý NhiTrái tim với nỗi nhớ aiNhư cây trong phố đứng hoài chờ trăngNhư người đàn bà ngồi đanSợi dọc thì rối, sợi ngang thì chùng.96. Yến LanRa đi từ bến My LăngBao năm dấu kín ánh trăng trong lòngTuổi già về lại bến sôngTrăng xưa đã lớn, phải chong đèn dầu97. Phan Thị Thanh NhànDấu một chòm thơ trong chiếc khăn tayEm hăm hở đi tìm người trao tặngNhững kẻ phong lưu, những tên du đãngMấy ai biết hương thầm của cô gái xóm đê.98. Trần Đăng KhoaChú dế góc sân hồn nhiên ca hátHát thành thơ như nước triều lênKhi khôn lớn lại hồn nhiên đi giữa“Biển một bên và em một bên”.99. Hoàng Lại GiangNgười đàn bà một thời tôi ao ướcTrên vành đai Mỹ những năm xưaTình yêu đã lụi tàn cùng ký ứcNhưng còn đây tàn lụi đến bao giờ?100. Xuân Sách (Tự hoạ)Cô giáo làng tôi đã chết rồiMột đêm ra trận đất bom vùiXót xa đình Bảng người du kíchĐau đớn Bạch đằng lũ trẻ côiĐường tới chiến công gân cốt mỏiLối vào lửa sởn tóc da mồiMặt trời ảm đạm quê hương cũỞ một cụm đường rách tả tơi.Lời cuối sáchTiếp theo cuốn Thương nhớ tài hoa của Nguyễn Vũ Tiềm, phác thảo chân dung của năm mươi nhà thơ, nhà văn đã quá cố, những cây bút có những đóng góp đặc sắc cho nền văn học của đất nước, hôm nay Nhà xuất bản Văn học gửi tới bạn đọc một tập hợp khác về chân dung các nhà văn.Đây là những kí hoạ có tính đặc tả của Xuân Sách, những chân dung vốn đã khá phổ biến trong và ngoài giới văn học suốt vài chục năm qua.Tác giả không nêu đích danh ai, nhưng dưới nét bút phác thảo, những độc giả quan tâm tới văn học và người làm văn học, vẫn có thể nhận ra từng đối tượng. Dĩ nhiên thể loại này thường cố ý phóng to các đặc điểm và khi nhìn vào nét đặc tả ấy - tuy mất cân đối và đôi khi phiến diện - vẫn dễ dàng nhận ra diện mạo, cốt cách từng nhân vật.Chất vui, hóm và nhất là khả năng chơi chữ có thể khiến người ta ngạc nhiên một cách thú vị, nhưng cũng có thể gây nên những sự không hài lòng đây đó...Chúng tôi chỉ coi đây là những nét tự trào của giới cầm bút, cười đấy nhưng cũng tự nhận ra những xót xa, hạn hẹp của chính mình, những gì chưa vượt qua được trên những chặng đường quanh co của lịch sử và thời đại. Tự soi mình hoặc hiểu mình thêm qua cái nhìn của người cùng hội, cùng thuyền lắm khi cũng hữu ích. Cái cười trong truyền thống dân gian vốn là vũ khí, ngày nay còn có thể là sức mạnh thúc đẩy đi tới phía trước.Với ý nghĩ ấy, chúng tôi mong bạn đọc và các nhà văn thông cảm cho những gì bất cập hoặc chưa lột tả được thần thái của từng chân dung.Dù sao đây cũng là 100 bức tranh nhỏ về những người có công trong văn học, những người nổi tiếng trong làng văn, trong bạn đọc bằng chính những tác phẩm có giá trị của mình.Rất mong bạn đọc và các nhà văn nhận ra mối chân tình trong cuộc vui của làng văn, và lượng thứ cho những khiếm khuyết.Nhà xuất bản Văn họcNguồn: Theo bản in của Nhà xuất bản Văn học, in tại nhà in Bộ Nội Vụ tháng 3 năm 1992, bản đăng trên talawas có sự đồng ý của tác giả.Tâm sự của Xuân SáchNhững bài thơ chân dung các nhà văn của tôi ra đời trong trường hợp rất tình cờ. Hôi ấy bước vào thập kỷ 60, tôi đang độ tuổi và mới từ đơn vị được chuyển về Tạp chí Văn nghệ quân đội ở ngôi nhà số 4 Lý Nam Đế, Hà nội. Ngoài công việc của toà soạn tờ báo ra thời gian của chúng tôi dành nhiều cho học tập chính trị. Những vấn đề thời sự trong nước, thế giới, những đường lối, chỉ thị, nghị quyết, những vấn đề tư tưởng lâu dài và trước mắt... đều phải học tập nghiêm túc, có bài bản. Học một ngày, hai ngày, có khi cả tuần, cả tháng. Lên lớp, thảo luận, kiểm điểm, làm sao sau mỗi đợt học, nhận thức và tư tưởng từng người phải được nâng cao lên một bước. Những buổi lên lớp tập trung tại hội trường gồm hàng ngàn sĩ quan, anh em văn nghệ, các nhà văn, các hoạ sĩ, nhạc sĩ... thường ngồi lập trung với nhau ở những hàng ghế cuối hội trường thành một “xóm” văn nghệ. Để chống lại sự mệt mỏi phải nghe giảng về hai phe, bốn mâu thuẫn, về ba dòng thác cách mạng, về kiên trì, tăng cường, nỗ lực, quyết tâm... mấy anh văn nghệ vốn quen thói tự do thường rì rầm với nhau những câu chuyện tào lao hoặc che kín cho nhau để hút một hơi thuốc lá trộm, nuối vội khói, nhiều khi ho sặc sụa. Nhưng rồi những chuyện đó cũng bị phát hiện, bị nhắc nhở phê bình. Vậy phải thay đổi chuyển sang “bút đàm”.Vào năm 1962 có đợt học tập quan trọng, học nghị quyết 9, nghị quyết chống xét lại, chống tư tưởng hoà bình chủ nghĩa, và dĩ nhiên văn nghệ là một đối tượng cần chú ý trong đợt học này. Hội trường tập trung đông, trời nắng, hơi nóng từ cái sân láng xi măng hắt lên như thiêu như đất. Quân đội đang tiến lên chính quy hiện đại, ăn mặc phải tề chỉnh đầy dủ cân đai bối tử, đi giầy da, những đôi giẫy cao cổ nặng như cùm. Bọn tôi trừ vài trường hợp như Vũ Cao, Nguyễn Khải có đôi chân quá khổ, có cớ chưa có giầy đúng số để đi dép, nhưng cũng là những đôi dép có quai hậu, ngồi học cũng không được tụt quai. Nhân đây tôi xin nói thêm về Vũ Cao. Ông là người biệt danh “quanh năm đi chân đất”, ở nhà số 4 các phòng sàn ván đều được lau bóng để đánh trần nằm xuống mà viết. Quy định ai vào phòng phải bỏ giầy dép trừ... Vũ Cao, bởi để ông đi dép vào phòng còn sạch hơn đi chân trần. Giờ đây ngồi học được ưu tiêu đi dép vẫn là nỗi cực khổ đối với ông.Trong buổi lên lớp căng thẳng như thế, Nguyễn Trọng Oánh xé vỏ bao thuốc lá Tam Đảo viết một bài thơ chữ Hán trao cho tôi. Ở Văn nghệ quân đội, Oánh được gọi là ông Đồ Nghệ giỏi chữ Hán và tôi được gọi là Đồ Thanh bởi cũng vỏ vẽ đôi ba chữ thánh hiền. Oánh bảo tôi dịch bài thơ Oánh viết vịnh Xuân Thiều. Xuân Thiều cũng ở lứa tuổi chúng tôi nhưng trông già dặn vì cái đầu hói, tóc lơ thơ. Con dường văn chương mới bước vào còn lận đận. Mới in được tập truyện ngắn đầu tay “Đôi Vai”, tập tiểu thuyết “chuyển vùng” viết về cuộc chiến đấu chống Pháp ở Bình Trị Thiên mà Thiều tham dự, đã sửa chữa nhiều lần, đưa qua nhiều nhà xuất bản chưa “nhà” nào chịu in. Tôi thấy bài thơ Oánh viết rất là hay và dịch:Văn nghiệp tiền trình khả điếu quânMao đầu tận lạc tự mao luânLưỡng kiên mai hếu phong trần lýChuyển địa hà thời chuyển đắc ngânDịch nghĩa:Con dùng văn nghiệp khá thương cho ôngLông đầu ông đã rụng trơ trụiĐôi vai lầm lủi trên con đường gió bụiChuyển vùng đến bao giờ thì chuyển thành tiền được?Dịch thơ:Con đường văn nghiệp thương ôngLông đầu rụng hết thư lông cái gầuĐôi vai gánh mãi càng đauChuyển vùng nào nữa làm sao thành tiền?Dịch song tôi chuyển bài thơ cho anh em đọc. Oánh tỉnh bơ với bộ mặt lạnh lùng cố hữu còn mọi người phải nén cười cho khỏi bật thành tiếng. Nguyễn Minh Châu gục xuống bàn kìm nén đến nôi mặt đỏ bừng và nước mắt dàn dụa.Tự nhiên trong đầu tôi lóe lên cái ý nghĩ mà người ta thường gọi là “tia chớp”. Thơ chân dung! Trong bài thơ của Oánh phác hoạ một Xuân Thiều với hình dáng và văn nghiệp bằng cách dùng nghĩa kép của tên tác phẩm: “Đôi Vai” “Chuyển Vùng”. Và sau chốc lát, tiếp tục trò đùa của Oánh tôi viết bài thơ về Hồ Phương, đang ngồi cạnh tôi, và bài thơ số một về chân dung các.. nhà văn ra đời. Hồi đó Hồ Phương đã là tác giả in nhiều tác phẩm, đã được một số giải thưởng các cuộc thi sáng tác văn học. Tôi dùng tên các tập truyện của anh: “Trên biển lớn” “Xóm mới” “Cỏ non” và tên cái truyện ngắn đầu tay vẫn được nhắc đến: “Thư nhà”. Tôi viết bài thơ ra mẫu giấy:Trên biển lớn lênh đênh sóng nướcNgó trông về xóm mới khuất xaCỏ non nay chắc đã giàBuồn tênh lại giở thư nhà ra xemTôi đưa bài thơ cho Nguyễn Khải.Anh đọc xong trên mặt có thoáng chút ngạc nhiên và nghiêm nghị chứ không cười như tôi chờ đọi, anh bỏ bài thơ vào túi chứ không chuyển cho người khác. Đến giờ giải lao chúng tôi ra ngồi quanh gốc cây sấu già, Nguyễn Khải mới đưa bài thơ cho Hồ Phương đọc. Mặt Hồ Phương hơi tái và cặp môi mỏng của anh hơi run. Nguyễn Khải nói như cách sỗ sàng của anh:-Thằng này (chỉ tôi) ghê quá, không phải trò đùa nữa rồi!Tôi hơi hoảng, nghĩ rằng đó chỉ là trò chơi chữ thông thường. Sau rồi tôi hiểu ngoài cái nghĩa thông thường bài thơ còn chạm vào tính cách và đánh giá nhà văn. Mà đánh giá nhà văn thì có gì quan trọng hơn là tính cách và tác phẩm. Bài thơ ngụ ý Hồ Phương có viết nhiều chăng nữa văn không vượt được tác phẩm đầu tay và vẫn cứ: buồn tênh lại giở thư nhà ra xem...”Trước đây khi còn là lính ở địa phương, cái xã hội nhà văn đối với tôi đầy thiêng liêng bí ẩn. Đấy là những con người dị biệt rất đáng ngưỡng mộ, rất đáng yêu mến dường như họ là một siêu tầng lớp trong xã hội. Mỗi hành động, mỗi cử chỉ, lời nói của họ đều có thể trở thành giai thoại, và cả tật xấu nữa, dường như cũng đứng ngoài vòng phán xét thông thường. Tóm lại đó là một thế giới đầy sức hấp dẫn đối với người say mê văn học và tập tễnh nuôi mộng viết văn như tôi. Khi tôi được về Hà nội vào một cơ quan văn nghệ dù là ở quân đội (hoàn cảnh nước ta quân đội có một vị trí đặc biệt trong xã hội kể cả lĩnh vực văn chương) tôi bắt đầu đi vào cái thế giới mà trước kia tôi mơ ước. Điều tôi nhận ra là ngoài cái phần tôi hiểu trước đây thì thế giới nhà văn còn có những chuyện khác. Đó là cái mặt đời thường, cái mặt rất chúng sinh và chúng cũng góp phần quan trọng làm nên các tác phẩm và tính cách nhà văn. Vì vậy chân dung của họ không thể bỏ qua. Hơn nữa nếu “vẽ” được chính xác những bức chân dung đó, thì bộ mặt xã hội của thời dại họ đang sống cũng qua đó mà hiện lên. Có thể, tôi nghĩ, không có tầng lớp nào hơn các nhà văn thể hiện rõ nhất bộ mặt tinh thần của dân tộc qua từng giai đoạn. Những điều này tôi nhận ra sau một thời gian dài khi những bài thơ chân dunglần lượt được ra đời, được phổ biến một cách không chính thức nhưng sâu rộng và dai dẳng, vượt cả sự mong muốn của tôi. Cũng chính các nhà văn giúp tôi nhiều trong sáng tác cũng như phổ biến các bài thơ. Bởi khi nhận định về tính cách con người, tính cách các nhà văn thì không ai sắc sảo bằng các nhà văn. Người giúp tôi nhiều nhất là anh Nguyễn Khải. Anh có mối quan hệ rộng rãi trong giới, có lối nhận xét người rất sắc sảo, chính xác dù có đôi lúc cực đoan. Anh không mấy thích thơ, nhưng anh lại thích những nhà văn chân dung. Anh có nói đại ý là các nhà văn chúng ta quen đánh giá nhận xét mọi tầng lớp người trong xã hội thì cũng cần tự đánh giá mình, cũng đều có cái tốt cái xấu như ai. Về sau thêm anh Vương Trí Nhàn về Văn nghệ quân đội. Nhà phê bình văn học trẻ tuổi này hết sức cổ suý tôi, đôi khi anh còn thách đố. Chúng tôi thường ngồi trong cái phòng “toilet” khoảng ba mét vuông, do hệ thống bơm nước lên tầng hai bị hỏng nên cái phòng vệ sinh đó biến thành phòng văn. Nó được ốp gạch men trắng bóng, lau sạch ngồi thật mát và thoải mái kín đáo. Có những hôm Nhàn mua sẵn vài ba điếu thuốc lá lẻ, vài cái kẹo lạc, một ấm trà ngon rồi thách thức tôi viết ngay tại chỗ. Và đã có nhiều bài thơ ra đời như thế. Nhàn nói: “Những bài thơ này ông Sách viết ra khi có quỷ ám vào ông ấy”. Bởi Nhàn đánh giá tôi có một giọng điệu khác hẳn trong những sáng tác không phải thơ chân dung. Nhàn là người rất thuộc thơ, và khi bài thơ tôi vừa làm xong thường anh là người phổ biến rộng rãi. Một số anh em trẻ khác như các anh Định Nguyễn, Trần Hoàng Bách thường đem những bài thơ đi phổ biến để được chiêu đãi bia hơi. Có thể nói đó là “nhuận bút” đầu tiên, nhưng không thuộc về người sáng tác mà thuộc về người phát hành.Tất nhiên những bài thơ đó được phổ biến rộng trong giới. Lúc dầu còn kín đáo, nhưng dần dần thành công khai và nhất là thành một “tiết mục” không thể thiếu trong những liên hoan của anh em văn nghệ. Có một buổi cũng khá đông đủ các nhà văn, khi vào tiệc rượu, mọi người yêu cầu tôi đọc thơ về các nhà văn có mặt, trong không khí như vậy thì dù các anh các chị ấy có giận cũng cười xoà làm vui. Riêng tôi thấy mình làm được trò vui cho mọi người cũng hay chứ sao. Tôi nhớ sau buổi vui, anh Nguyễn Đình Thi có nói đại ý nên đem cái tài đó làm những việc có ích hơn là châm chọc nhau. Ngay đó một anh ngồi bên cạnh rỉ tai tôi: “châm chọc cũng cần có tài và có ích lắm chứ “Những bài thơ cũng được lan truyền sang các giới khác. Hồi đó tướng Lê Quang Đạo là phó chủ nhiệm Tổng cục chính trị, cấp trên của giới văn nghệ trong quân đội, ông rất thích những bài thơ chân dung, thường trong giờ nghỉ những buổi họp với giới văn nghệ ông đề nghị đọc cho ông nghe. Sự thích thú tuy có tính cách cá nhân nhưng rất hay cho tôi. Tôi cũng nhận được nhiều phản ứng khác nhau, có khi khen quá lời, có khi bực tức. Tôi kể ra vài trường hợp đặc biệt. Khi tôi đã tìm hiểu được những ứng xử những lính cách của các nhà văn, ngoài những tác phẩm mà tôi thường ngưỡng mộ tôi cứ băn khoăn tự hỏi: “Sao thế nhỉ? Với bề dày tác phẩm thư thế, với vị trí trong xã hội như thế, trong lòng ngườí đọc như thế, sao họ còn ham muốn những thứ phù phiếm đến thế một chức vụ, một quyền lực, một chuyến đi nước ngoài... Mà đã ham muốn thì phải mưu mẹo, phải dối trá và nhất là phải sợ hãi”. Một lần trên báo đăng một bài thơ dài của một nhà thơ có tên tuổi viết theo thời tiết chính trị, quay ngược lại với những điều vừa viết chưa lâu, Nguyễn Khải chỉ bài thơ nói với tôi: “Rất tiếc một tài năng lỡ tàu!”Tôi không nghĩ mình đứng ra ngoài cuộc để phán xét, muốn làm cặp mắl thứ hai trong một bài thơ để tự bạch, tự cảm thông với mình và cũng tự giận mình. Tôi vốn yêu thích và kính phục tài thơ Chế Lan Viên, nhưng bài thơ tôi viết về ông lại nói khía cạnh khác. Mỗi lần gặp lại tôi ông lại tỏ ra rất thân thiện. Điều đó làm cho tôi bối rối, phải chăng ông đã hiểu điều gì đó về ông về tôi. Lúc ông Hoài Thanh già yếu phải vào bệnh viện, tôi đến thăm ông. Ông không giận tôi nữa, còn cho tôi là người có tình và ông thấy những gì tôi viết về ông có phần đúng. Ông đề nghị chữa một chữ trong bài thơ. Khi ông mất, tôi đi viếng, nhìn khuôn mặt ông qua lấm kính, và các con ông oà khóc, tôi bỗng cảm thấy mình như người có tội.Một lần gặp Xuân Diệu trong quán bia hơi, tôi nâng cốc bia chúc mừng ông vừa được bầu làm viện sĩ của Viện hàn lâm nghệ thuật nước CHDC Đức, ông chạm cốc:- Chúc mừng họ Ngô nhà ta, những bài thơ của cậu đi vào cõi bất tử.Điều tôi không ngờ là cụ Đặng Thai Mai cho người gọi tôi đến nhà bảo tôi đọc thơ chân dung cho cụ nghe. Con người nổi tiếng uyên bác thâm trầm ấy ngồi đặt cầm lên đầu gối cười khục khục. Đột ngột cụ ngước cặp mắt tinh anh lên nhìn tôi: “Thế còn Đặng Thai Mai?” Tôi lúng túng: “Viết về bác rất khó, cháu đang suy nghĩ thưa bác”. Dường như ông cụ không tin lời tôi. Ít lâu sau cụ lại gọi đến: “Anh viết về tôi rồi chứ?” Trước tôi chỉ nghĩ cụ không để ý đến cái trò chơi chữ ngông nghênh này, hoá ra cụ quan tâm thật sự khiến tôi vừa cảm động vùa thích thú. Nhưng biết sao được, viết về cụ thật là khó và đến nay tôi vẫn chưa viết được.Còn cụ Nguyễn Tuân, con người vốn thích đùa một cách... cao sang và thâm trầm thích ăn nem rán nóng bỏng thì gắp lên đặt xuống cái nem nghe thơ và phán: “Hóm, thằng này hóm”. Nói về đồng nghiệp cũng là nói về mình. Cái hay cái dở của một người cũng là của một thời. Câu thơ: “Từ thuở tóc xanh đi vỡ đất. Đến bạc đầu sỏi đá chửa thành cơm” đâu chỉ là số phận của một nhà thơ. Hơn ai hết tôi nghĩ, nhà văn là đại diện của một thời, là lương tri của thời đại. Đã dành là khó ai vượt được thời đại mình đang sống, không dễ nói hết nói công khai những điều suy nghĩ. Nhưng cũng thật đau lòng và xấu hổ khi những nhà văn bán rẻ lương tâm, cong lưng quỳ gối trước quyền uy, mê muội vì danh lợi. Có lẽ đó là động cơ thúc đẩy tôi viết, nếu có nói quá cũng dễ hiểu, cái con “quỷ ám” nếu có thì cũng là ảnh hưởng của những cảm xúc ấy, nỗi đau chung ấy. Nhiều nghịch lý vốn tồn tại trong cuộc đời cũng như nghệ thuật. Tiếng cười nhiều khi xuất phát từ nỗ đau.Những bài thơ chân dung đã có cuộc sống riêng của không phải kỳ lạ nhưng cũng độc đáo. Nó được lưu truyền đến đã ba mươi năm. Đã có nhiều bài “khảo dị” nhiều bài ngoài luồng cũng được gán cho tác giả. Bây giờ in ra cũng coi như một sự đính chính. Nó cũng là “một cái gì đó” như có người đã nói nên mới tại được nếu nó có ích thì tác giả cũng lấy làm mãn nguyện. Ngày Xuân năm Nhâm Thân