Phần 2

Sau hai năm làm dân biểu, bốn năm nghị sĩ, tám năm phó tổng thống, và hai lần thất cử, Richard Nixon tuyên thệ nhậm chức Tổng thống thứ 37 của Hoa Kỳ vào đầu năm 1969.
Trong năm năm tám tháng giữ chức vụ tổng thống, những thành quả của Nixon được nhiều người nhắc đến là thoả ước giảm thiểu vũ khí nguyên tử giữa Mỹ và Nga; thiết lập ban giao với Trung Cộng; và đưa quân đội và trách nhiệm của Hoa Kỳ ra khỏi chiến trường Việt Nam.
Chúng ta phải phân biệt chuyện Nixon đưa quân đội Mỹ khỏi Việt Nam, và chấm dứt chiến tranh Việt Nam. Vì mọi người đều thấy: Nixon đã thành công đưa quân đội Mỹ ra khỏi cuộc chiến, nhưng cuộc chiến vẫn còn sau khi người Mỹ rút đi. Nixon đã ép buộc VNCH phải ký vào hiệp định Ba Lê năm 1973, với lời hứa là nếu phía cộng sản xâm phạm hiệp ước, Nixon sẽ dùng biện pháp mạnh để bảo vệ những điều khoản đã ghi trong hiệp ước. Nixon hứa riêng với Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu là ông sẽ dùng tất cả khả năng của một vị tổng thống để bảo đảm giá trị của một hiệp ước mà ông xin muốn VNCH phải ký. Nhưng sự kiện lịch sử cho thấy Nixon không có cơ hội để chứng tỏ với VNCH - và những đồng minh bị bỏ rơi trên thế giới, như trong trường hợp Đài Loan - là ông có giữ đúng lời hứa hay không. Nixon không có dịp để chứng tỏ danh dự của ông vì bị truy tố trước Quốc hội Hoa Kỳ và phải từ chức để khỏi phải bị truất phế.
Ở phần dưới đây chúng ta sẽ bàn sơ về thái độ và hành động của Nixon đối với chiến tranh Việt Nam từ lúc ông lên nắm quyền cho đến ngày từ nhiệm.
Từ năm 1953 cho đến năm 1967 Nixon viếng thăm Việt Nam tất cả bốn lần. Sau mỗi lần quan sát, ý kiến của Nixon về cuộc chiến Việt Nam vẫn giống nhau: Nga và Trung Cộng đứng sau lưng cộng sản Bắc Việt trong cuộc chiến xâm lấn miền Nam. Và chỉ có một cách để làm CSBV từ bỏ ý định xâm lược là áp dụng áp lực quân sự. Nixon không sợ mang tiếng là kẻ ỷ mạnh hiếp yếu; ngược lại, Nixon thích cho đối phương biết ông ta sẵn sàng hiếp đối phương nếu cần. Trong những lần phát biểu ý kiến về chiến tranh Việt Nam lúc ứng cử tổng thống, Nixon chỉ trích chánh phủ Johnson là Hoa Kỳ đã không quyết tâm giải quyết cuộc chiến Việt Nam bằng quân sự. Trong chuyến thăm Sài Gòn vào tháng 4.1967, ông được giới chỉ huy quân sự trình bày cho ông biết sự bực tức của họ khi không được thẩm quyền quân sự cho phép đánh qua biên giới, hay đánh thẳng vào bất cứ nơi nào CSBV dùng làm sào huyệt. Nixon, trong một vài lần phát biểu, đã nhận định rất đúng về tình hình “trung lập” của Lào. Đối với Nixon, khi để Lào thành một quốc gia trung lập kiểu đó, Lào đã nằm trong quỹ đạo - nếu không nói thuộc về - CSBV và cộng sản Tàu. Một mình đơn độc, Nixon nhấn mạnh, Lào không bao giờ có thể giữ được sự trung lập theo ý nghĩa một quốc gia được độc lập về ý thức hệ chính trị với một lãnh thổ toàn vẹn. Suy luận song song theo chiều hướng chiến lược quân sự đó, Cam Bốt cũng nằm trong hoàn cảnh tương tự như Lào. Nixon chỉ trích chính phủ Johnson đã không thật lòng khi không đặt vấn đề, hay giải quyết, hai yếu tố quan trọng Lào và Cam Bốt trong cuộc chiến Việt Nam. Nixon tuyên bố vào năm 1967, nếu Hoa Kỳ không đối diện với tình hình Cam Bốt và Lào; nếu Hoa Kỳ không thú nhận sự phức tạp của chiến tranh Việt Nam trong địa hình của Đông Dương ngay bây giờ, thì Hoa Kỳ sẽ phải thú nhận và đối diện vấn nạn đó về sau. Nixon nhấn mạnh - và chúng ta thấy điều đó thật đúng vào những năm cuối cùng của cuộc chiến - chiến tranh Việt Nam không phải chỉ giới hạn vào Việt Nam, mà là toàn cõi Đông Dương [1].
Chúng ta nên để ý sự khác biệt về tinh thần của các Tổng thống Kennedy, Johnson và Nixon trong chiến tranh Việt Nam: Kennedy thích hào hùng, quân tử, nhưng bên trong thì nhát; Johnson thì hăm hở cuồng nộ nhưng không có trí thông minh, tài ngoại giao, hay sự kiên nhẫn để thực hiện ý định; còn Nixon thì có tất cả những tánh tình của hai tổng thống kia, cộng thêm tánh thích hành động bí mật từ bên trong hay nhờ tay người khác hành động cho mình, và đôi khi hành động ngoài vòng pháp luật. Nixon “mánh mung” hơn Kennedy và Johnson khi muốn hoàn tất một ý định. Từ Truman cho đến Nixon, mỗi vị tổng thống đều có liên hệ đến cuộc chiến Việt Nam bằng một hay nhiều quyết định và mỗi quyết định được thực hiện qua cách này hay cách khác. Truman, vì những quyền lợi của Mỹ ở Âu Châu, phải đành nhượng bộ và ít niều giúp Pháp để tiếp tục sự đô hộ ở Việt Nam. Eisenhower và Kennedy, với ý định muốn thiết lập một tiền đồn chống cộng ở Đông Nam Á gắng bồi đắp và gầy dựng một nền tự do dân chủ ở một quốc gia mới gọi là Việt Nam Cộng hoà. Sau Kennedy, Tổng thống Johnson muốn giải quyết cuộc chiến nhanh hơn với quân tác chiến, với vũ khí cơ hữu, với cấp số vài ba quân đoàn. Bây giờ cuộc chiến chuyền đến tay Nixon. Đến Nixon thì nhiệm vụ khó khăn hơn: ông phải đem người Mỹ ra khỏi cuộc chiến trong chiến thắng - hay ít ra, phải bảo vệ miền Nam với một nền hoà bình trong danh dự.
Khi ra tranh cử tổng thống, cũng không khác hơn những ứng cử viên trước và cùng lúc với ông, Nixon hứa sẽ chấm dứt cuộc chiến Việt Nam, sẽ đem lại hoà bình trong danh dự. Nixon không hứa hẹn gì về một chiến thắng quân sự, hay một thương thuyết ngoại giao nào để kết thúc chiến tranh. Một tháng sau khi đắc cử, Nixon rất tự tin ông sẽ giải quyết cuộc chiến Việt Nam trong vòng 12 tháng [2]. Nhưng khi thấy Hà Nội chỉ lợi dụng cuộc thương thuyết để câu giờ và cuộc chiến đã kéo dài ngoài dự định, Nixon quyết định cho đối phương thấy ông là người biết dùng vũ lực để thuyết phục, và Nixon đã không ngần ngại dùng vũ lực. Chúng ta có thể thấy một phần tinh thần của Nixon đối với cuộc chiến Việt Nam khi ông tuyên bố trước công chúng: “Lỗi lầm quan trọng nhất lúc tôi còn là tổng thống, là tôi đã không làm vào đầu năm 1969 những gì tôi đã làm vào ngày 3 tháng 5.1972, và 15 tháng 12.1972, nghĩa là dội bom và phong toả Bắc Việt. Tôi có bàn chuyện này với Kissinger. Nhưng kẹt là chính phủ tiền nhiệm Johnson đã quyết định ngừng dội bom để đi đến hội đàm Paris... tôi không tin họ [CSBV] muốn thương thuyết thật sự, và dĩ nhiên sau này chúng ta đã thấy sự giả tạo của cuộc thương thuyết đó. Nếu chúng ta thực hiện chuyện đó [dội bom và phong toả Bắc Việt] chúng ta có thể kết thúc cuộc chiến vào năm 1969 chứ không phải đến năm 1973. Đó là lỗi lầm lớn nhất của tôi trong thời gian làm tổng thống” [3].
Nhiều tác giả loại “bồ câu”, phản chiến, và chống Nixon, thường luận bàn là sau năm 1968, sau khi CSBV chịu vào bàn thương nghị, lẽ ra cuộc chiến Việt Nam đã có cơ hội chấm dứt... Nhưng khi lên kế vị Johnson, Nixon đã kéo dài thêm cuộc chiến, đưa đến hơn hai mươi ngàn cái chết của quân nhân Hoa Kỳ, hơn một trăm ngàn quân VNCH và bốn hay năm lần số thương vong đó bên phía Bắc Việt [4]. Lý luận này không vững ở điểm những tác giả, sử gia nói trên không nói tại sao Nixon không thể chấp nhận những “đề nghị thương thuyết” căn bản của CSBV [5].
Từ ngày đầu nhậm chức, Nixon đã cho phép giới quân sự dùng mọi kế hoạch, kể cả những kế hoạch quân sự phạm luật của Quốc hội Mỹ và công pháp quốc tế, để cho Hà Nội thấy Hoa Kỳ - dưới sự lãnh đạo của Nixon - biết dùng sức mạnh khi cần. Sau khi Tổng thống Johnson ra lệnh ngưng dội bom từ vĩ tuyến 20 trở lên, Nixon ra lệnh cho MACV [6] dùng tất cả không lực dùng vào miền Bắc trước đó để đánh vào chiến trường Lào và những căn cứ hậu cần của CSBV dọc theo biên giới Cam Bốt. Tuy nói là ngưng dội bom, nhưng thật sự phi vụ oanh tạc gia tăng nhiều hơn. Năm 1968 không lực Hoa Kỳ bay 3.377 phi vụ trên hệ thống đường xâm nhập Hồ Chí Minh; năm 1969 số phi vụ tăng lên 5.567, với khoảng 160 ngàn tấn bom thả xuống Hạ Lào. Chỉ trong năm tháng đầu năm 1969, bộ tư lệnh Đoàn 559 ở Trường Sơn đã thấy được cường độ oanh tạc dưới nội các mới [7]. Nhưng chưa đủ, Nixon muốn CSBV thấy rõ ý định của ông hơn. Đầu tháng 3.1969, Nixon nghe theo đề nghị của ban tham mưu liên quân - một đề nghị bị bỏ quên nhiều năm vì McNamara và Johnson không cho phép thực hiện - là phải huỷ diệt cơ sở hậu cần của CSBV bên trong nội địa Cam Bốt. Nhưng đánh qua Cam Bốt thì không được (ít ra là trong thời điểm đó), dội bom thì lại vi phạm công pháp quốc tế vì tính chất trung lập của Cam Bốt. Chỉ còn một cách duy nhất là bí mật dội bom - bí mật ở đây cũng có nghĩa là phạm luật [8]. Với tất cả thận trọng để đánh lừa báo chí và Quốc hội, Nixon cho phép Bộ tư lệnh Không quân Chiến lược và MACV hành động. Từ tháng 3.1969 cho đến tháng 4.1970, không quân chiến lược bay 3630. phi vụ, bỏ 110 ngàn tấn bom xuống các căn cứ hậu cần và binh trạm của CSBV nằm trong lãnh thổ Cam Bốt từ vùng tam biên ở Pleiku cho đến Mỏ Vịt ở Tây Ninh.
Để tránh bom, quân đội CSBV lấn sâu vào nội địa Cam Bốt về hướng tây, gần các khu dân cư. Với chiến thuật này, CSBV đã vô hiệu hoá các cuộc oanh tạc chiến lược bằng B-52 của Hoa Kỳ vào mật khu của họ trên đất Cam Bốt. Khi đại tướng Abrams tư lệnh MACV báo cáo Hoa Thịnh Đốn vấn đề đó, Nixon không ngần ngại quyết định tiến xa hơn: dùng bộ binh đánh qua Cam Bốt. “Chúng ta phải chứng tỏ cho đối phương biết chúng ta cương quyết với những gì đã hứa ở Việt Nam”, Nixon phát biểu khi đồng ý kế hoạch đánh qua Cam Bốt [9]. Để giới hạn những phản đối đến từ các nghị viên đối lập ở Quốc hội và các cuộc biểu tình của sinh viên trong và ngoài nước, Nixon chỉ cho phép quân đội Hoa Kỳ hoạt động trong vòng 30 cây số trong nội địa Cam Bốt, và quân Mỹ sẽ rút ra khỏi Cam Bốt sau 60 ngày. Thêm vào đó, quân đội VNCH sẽ khai diễn cuộc tấn công trước và sẽ là thành phần chủ động. Cuộc hành quân qua Cam Bốt chỉ thâu gặt được một số thành công giới hạn: ba sư đoàn cơ hữu của Việt Cộng, 5, 7, và 9, được lệnh phân tán mỏng từ một tháng trước đó. Các đơn vị CSBV được lệnh tránh giao tranh nếu không cần thiết và rút xa về hướng tây, về một cứ địa mới ở tỉnh Kratie. Tuy không gài bẫy được các đơn vị cộng sản như ý muốn, quân đội VNCH và đồng minh khám phá và tịch thu một số quân trang dụng, vũ khí và lương thực đủ trang bị và tiếp tế cho tất cả các đơn vị cộng sản ở miền Nam hơn một năm trời [10].
Nixon đã trả một giá rất cao về uy tín chính trị với cuộc tấn công qua Cam Bốt: sau khi bốn sinh viên bị Vệ binh Quốc gia bắn chết trong một cuộc biểu phản chiến ở đại học Kent State, tiểu bang Ohio, hơn hai trăm ngàn người tham dự biểu tình chống Nixon ở thủ đô Hoa Thịnh Đốn - một thành phố rất nhỏ để chứa hai trăm ngàn công dân bực tức. Quốc hội Hoa Kỳ chỉ trích Nixon; thẩm vấn lại quyền hạn hiến pháp của tổng thống có hay không khi đem quân tấn công qua một quốc gia “trung lập” như Cam Bốt. Nhưng đối với một chính trị gia lão luyện như Nixon, những cuộc biểu tình hay những ý kiến đối lập từ quốc hội là chuyện thường: Nixon tiếp tục gia tăng lực quân sự đối với CSBV. Hai ngày sau khi quân đội Mỹ và VNCH vượt biên giới, Nixon đích thân đến Ngũ giác đài để được tường trình về biến chuyển của cuộc hành quân. Khi nhìn bản đồ ghi chú địa điểm các căn cứ hậu cần khác của CSBV ở bắc Cam Bốt và Hạ Lào, Nixon hỏi những sĩ quan đang có mặt, là quân đội VNCH và Hoa Kỳ có khả năng tấn công tất cả những căn cứ đó không. Khi được trả lời là những cuộc tấn công tiếp theo qua biên giới sẽ gây nhiều phản ứng bất lợi từ dư luận và Quốc hội..., Nixon trả lời cho các sĩ quan là chuyện lợi hại về chính trị để ông lo, ông chỉ muốn họ trả lời là đánh được hay không. “Chúng ta đã bị thiệt hại về chính trị trong cuộc hành quân [qua Cam Bốt] này rồi. Nếu có thể huỷ diệt được tất cả các mật khu của địch để giảm thiểu thiệt hại cho quân ta, thì đây là đúng lúc để hành động... Tôi muốn tấn công tất cả các căn cứ đó. Chuẩn bị các kế hoạch cần thiết và thực hiện ngay”, Nixon tuyên bố với ban tham mưu liên quân [11]<5>[5]
Đầu tháng 12-1970, ban tham mưu liên quân liên lạc qua đô đốc McCain, cho phép tướng Abrams bàn thảo với tướng Viên về kế hoạch hành quân qua Lào. [6] Ngày 7, tướng Abrams và đại sứ Bunker gặp tổng thống Thiệu gần một tiếng rưỡi để trình bày sơ qua khái niệm cuộc hành quân. Trở về bộ tư lệnh, Abrams đánh điện tín thông báo cho đô đốc McCain là, tổng thống Thiệu đồng ý kế hoạch. Abrams cho biết tổng thống Thiệu chọn vùng Sê Pôn là mục tiêu chính; đường số 9 là trục lộ di chuyển quân; cấp số căn bản cho cuộc hành quân là hai sư đoàn, cộng thêm một số quân Thiết kỵ; thời điểm bắt đầu hành quân là sau Tết; thời gian hành quân kéo dài chừng hai đến ba tháng; sau đó vẫn giữ lại một số đơn vị nhỏ để đánh phá quấy rối chung quanh các căn cứ hậu cần cộng sản. [7] Ngày 8, một điện tín từ ban tham mưu liên quân gởi qua McCain cho tướng Abrams, xác định lại chi tiết rõ ràng hơn: hành quân qua Lào, dọc theo đường số 9.... Hoa Kỳ sẽ yểm trợ hỏa lực và không vận.... Cùng lúc, cũng phải soạn thảo kế hoạch tấn công qua Cam Bốt. Hai ngày sau, đích thân đô đốc Thomas Moorer, tham mưu tưởng ban tham mưu liên quân, chuyển lại cho Abrams một huấn lệnh của tổng trưởng quốc phòng viết theo lệnh của tổng thống Nixon. Huấn lệnh thông báo, “tổng thống giao trách nhiệm [cho Abrams] phối hợp với quân đội VNCH và quân đội Cam Bốt [trong cuộc hành quân đánh qua Cam Bốt] để tấn công quân địch với tất cả khả năng... nhưng nằm trong giới hạn chính trị của quân đội Hoa Kỳ [nghĩa là quân đội Hoa Kỳ không thể đi kèm theo quân VNCH qua biên giới].” Bức điện tín đồng thời cho biết Nixon sẽ cho tướng Alexander Haig đến Sài Gòn và Nam Vang để cùng tham khảo kế hoạch của hai cuộc hành quân. [8] Tướng Haig đến Sài Gòn trung tuần tháng 12, thảo luận với tổng thống Thiệu, tướng Abrams và đại sứ Bunker. Sau chuyến đi tham khảo của Haig, tổng trưởng quốc phòng Laird đến Sài Gòn thượng tuần tháng 1, năm 1971. Theo những gì được viết lại, Laird cũng có thảo luận với tổng thống Thiệu về kế hoạch hành quân qua Lào. [9] Ngày 18 tháng 1-1971, tòa Bạch Ốc nhóm họp để quyết định về cuộc hành quân đánh sang Lào. Buổi họp có mặt của Nixon, tổng trưởng quốc phòng Laird, ngoại trưởng William Rogers, tham mưu trưởng liên quân Moorer, xếp CIA Richard Helm, tướng Haig, và Kissinger. Trên nguyên tắc, tất cả hiện diện đều đồng thuận với kế hoạch. Chỉ trừ ngoại trưởng Rogers. Rogers phản đối kế hoạch và phản đối rất có lý: cấp số quân quá ít; cuộc hành quân đi vào địa thế nguy hiểm. Ông ngoại trưởng nhắc cho mọi người nhớ, kế hoạch của ban tham mưu Lục quân, và kế hoạch của Westmoreland vài năm trước đây đòi hỏi một lực lượng không dưới bốn sư đoàn quân Hoa Kỳ, cộng với không lực yểm trợ của ba quân chủng. Bây giờ, với một lực lượng dưới ba sư đoàn lính VNCH và một hỏa lực yểm trợ rất giới hạn của Hoa Kỳ, làm sao chúng ta đặt tin tưởng tuyệt đối vào cuộc hành quân được? Nhưng Nixon gạt ngang sự phản đối của ngoại trưởng Rogers, chấp thuận kế hoạch hành quân và ra lệnh soạn thảo để thi hành. [10]
Từ tháng 3-1970, trước khi có cuộc hành quân của VNCH và Hoa Kỳ vẫn đánh qua Cam Bốt, và trong thời gian cuộc hành quân đang diễn ra, hệ thống tình báo điện tử của Hoa Kỳ thâu được một số điện tín của bộ tư lệnh cao cấp CSBV gởi cho các binh trạm đóng dọc trên hệ thống đường xâm nhập Hồ Chí Minh từ Lào xuống cam Bốt. Bộ tư lệnh CSBV ra lệnh cho các binh trạm chuẩn bị tác chiến nếu cần, vì địch có thể tiếp tục tấn công qua Cam Bốt, Lào hay qua khu vùng ba biên giới. Những tháng kế tiếp, tình báo điện tử tiếp tục ghi nhận lệnh từ cấp trên lưu ý các đơn vị đóng từ Vinh cho đến Hạ Lào, là địch có thể tấn công bất thần, kể cả chuyện đổ bộ lên Vinh. Đầu tháng 10, 1970, CSBV thiết lập một bộ tư lệnh cấp Quân đoàn có tên là 70B, đóng ở khu vực đường 9 bên kia biên giới, để chuẩn bị trả chống trả mọi cuộc tấn công qua biên giới của quân đội VNCH. Từ tháng 3-1970, các tư lệnh cấp trung đoàn và sư đoàn được lệnh phải đích thân đi thám thính địa hình dọc theo, và chung quanh đường số 9. Với những biến chuyển và hoạt động quân sự đang diễn ra ở Vùng I và Khe Sanh, CSBV biết cuộc tấn công qua Hạ Lào sắp sửa tiến hành. [11]
Về phía VNCH. Sau khi nghe đề nghị của Hoa Kỳ; sau khi nghe đại tướng Viên tường trình kế hoạch hành quân mà bộ tư lệnh MACV đã thảo luận với ông, tổng thống Thiệu cho phép soạn thảo kế hoạch Hành Quân Lam Sơn 719. Kế hoạch hành quân có khái niệm tổng quát như sau: Cuộc hành quân có bốn giai đoạn. Giai đoạn I: Giai đoạn này bắt đầu từ đầu tháng 1, phần lớn do Hoa Kỳ phụ trách. Các đơn vị công binh, Thiết kỵ Mỹ sẽ giải tỏa, tái thiết và thiết lập an ninh trên quốc lộ 9 từ Đông Hà đến Lao Bảo; tái chiếm căn cứ Khe Sanh để làm nơi đổ bộ quân và làm hậu cứ tiền phương bên này biên giới. [12] Giai Đoạn II: Với một cấp số quân tương đương ba sư đoàn, gồm sư đoàn Nhảy dù, sư đoàn 1 Bộ binh, lữ đoàn 1 Thiết kỵ, và Liên đoàn 1 Biệt động quân. Quân Dù và Thiết kỵ sẽ tiến theo trục lộ đường 9, đáng qua biên giới về hướng tây. Trong thời gian đó, một Tiểu đoàn Dù được trực thăng vận nhảy vào một mục tiêu trước mặt, cách biên giới khoảng 12 cây số, có tên là Bản Đông (trên bản đồ hành quân có tên là A Lưới) để thiết lập bộ chỉ huy tại mặt trận. Cùng lúc, hai Tiểu đoàn Dù được trực thăng vận lên chiếm hai đỉnh đồi hướng đông bắc (căn cứ hỏa lực 30) và tây bắc (căn cứ hỏa lực 31) của Bản Đông để thiết căn cứ hỏa lực và bảo vệ mặt bắc của trục tiến quân. Đồng thời, về hướng đông bắc của căn cứ hỏa lực 30, ba Tiểu đoàn Biệt động quân (BĐQ) sẽ thiết lập hai điểm phòng thủ như một tiền đồn quan sát và canh chừng địch quân có thể tràn xuống tiếp viện từ hướng đông bắc. Ở phía nam của trục tiến quân, các Tiểu đoàn của sư đoàn 1 sẽ thiết lập những căn cứ hỏa lực ở cao điểm Co Roc, từ biên giới chạy dài đến Bản Đông để bảo vệ mặt nam của hướng tiến quân. Sau khi các đơn vị đã nằm vào vị trí của họ, quân Thiết kỵ sẽ theo dường số 9, đánh thẳng về Sê Pôn để bắt tay với một lữ đoàn Dù được trực thăng vận vào đó cùng lúc. Ngoài các lực lượng tấn công qua bên kia biên giớ, ở bên này căn cứ Khe Sanh, hai lữ đoàn TQLC sẽ nằm phòng thủ như một lực lượng trừ bị. Giai đoạn III: Với giả định quân Dù chiếm được Sê Pôn, và quân Thiết kỵ tiến vào bắt tay quân bạn, quân Dù sẽ lục soát chung quanh Sê Pôn; các đơn vị của sư đoàn 1 sẽ lục soát các khu vực phía nam Sê Pôn. Giai Đoạn IV: Khi được lệnh lui quân, các lực lượng tấn công sẽ lui quân theo hai kế hoạch. Theo kế hoạch 1, Dù và Thiết kỵ sẽ rút về Bản Đông. Từ đó, hai lực lượng này sẽ bảo vệ sư đoàn 1 vừa lục soát các căn cứ địch, vừa tiến về hướng đông nam để rút về biên giới. Trong khi đó, quân BĐQ ở hướng đông bắc sẽ nhập vào quân Thiết kỵ và rút ngược về biên giới theo quốc lộ 9. Các đơn vị TQLC sẽ hành quân dọc theo biên giới trong thời gian đó, vừa quấy phá vừa ngăn ngừa những cuộc phục kích có thể xảy ra cho quân bạn. Kế hoạch lui quân 2 chỉ khác 1 ở chỗ quân Dù sẽ tiếp tục nối đuôi theo sau sư đoàn 1 để lục soát căn cứ địch, nhưng thay gì đi theo hướng tây nam về biên giới, hai cánh quân này sẽ theo hướng đông để về đường 9. [13] Tư lệnh của cuộc hành quân là trung tướng Hoànhg Xuân Lãm, đương nhiệm tư lệnh Vùng I. Trừ sư đoàn Nhảy dù (và hai lữ đoàn TQLC nằm trừ bị ở Khe Sanh), tất cả các đơn vị tham gia cuộc hành quân đều là đơn vị cơ hữu của Quân đoàn I. Ngày hành quân được ấn định là sau Tết Tân Hợi.
Giữa tháng tháng 1, bộ tổng tham mưu và MACV cho sĩ quan hành quân ra trình bày kế hoạch với tướng Hoàng Xuân Lãm và trung tướng James W. Sutherland của Quân đoàn XXIV. Ngày 21, cả hai vị tướng bay về Sài Gòn để tường trình kế hoạch chung cho MACV và bộ tổng tham mưu. Cùng ngày, đích thân tướng Lãm trình kế hoạch hành quân cho tổng thống Thiệu duyệt xét. Ngày 25 tháng 1-1970, tin hành quân đánh qua Lào được chánh thức loan báo xuống tận cấp Tiểu đoàn ở một vài đơn vị tham dự. [14]
Sau gần bốn ngày bị đình trệ vì thời tiết, qui luật hành quân từ phía Hoa Kỳ, và tai nạn, hành quân Lam Sơn 719 bắt đầu vào ngày 8 tháng 2-1971, khi quân Dù và Thiết kỵ băng qua biên giới để tham dự vào một cuộc hành quân qui mô và tốn kém nhất trong lịch sử cuộc chiến. [15]
Trên giấy tờ, kế hoạch hành quân Lam Sơn 719 nhìn rất đơn giản: tin tức về các lực lượng địch quân đang có mặt trong vùng không quá nhiều để gây nhiều lo lắng cho ban tham mưu soạn thảo; không ảnh cho thấy địa hình phức tạp, nhưng không phức tạp đến độ gây trở ngại cho quân Thiết kỵ. Và với những hứa hẹn hỏa lực yểm trợ từ Không quân chiến thuật và chiến lược của Hoa Kỳ, ban tham mưu không thấy cuộc hành quân sẽ gặp một trở ngại nào. Sự thành công trong lần đánh qua Cam Bốt đã làm cho ban tham mưu soạn thảo hành quân lạc quan hơn.
Nhưng tin tức tình báo và hình chụp từ trên trời không thể nhìn thấy tất cả những gì được che đậy dưới những cánh rừng dầy của Hạ Lào. Tình báo cũng không thể nào cập nhật được sự di động liên tục của các đơn vị đối phương. Sự ước lượng về quân số của CSBV trong vùng hành quân chỉ chính xác trong thời điểm soạn thảo kế hoạch; và khi không ảnh cho thấy đường số 9 tuy bị hư nhiều vì bom nhưng còn di chuyển được thì chỉ là trên...hình ảnh. Trên thực tế, hai chi tiết quan trọng này khác xa ước tính. Trong thời gian soạn thảo, kế hoạch ước lượng CSBV chỉ có khoảng 22 ngàn quân ở chung quanh Sê Pôn. Đến đầu tháng 1, ước lượng về cấp số quân của đối phương trong vùng hành quân được tăng lên tương đương ba sư đoàn rưỡi (bằng quân số dưới tay của của Quân đoàn 70B). Nhưng đến thượng tuần tháng 2, khi quân đội VNCH chuẩn bị băng qua biên giới, CSBV đã có khả năng quy động một số quân tương đương với bảy sư đoàn để chuẩn bị ứng chiến trong vùng hành quân. [16]
Về trục lộ di chuyển và địa hình của mặt trận: Không ảnh không cho thấy nhiều chỗ hư nát của đường số 9 vì bị cỏ và lá thấp bao phủ. Đường số 9 là một con đường bị bỏ hoang gần 20 năm (khúc từ biên giới Việt Nam đi về Sê Pôn), tất cả cầu trên đường đã bị Không quân Mỹ đánh sập. Những trận oanh kích ngày đêm đã cắt con đường ra từng đoạn bằng những hố bom sâu năm, bảy thước. [17] Địa hình Hạ Lào không thuận lợi nếu không nói bất lợi cho chiến xa và quân Thiết kỵ. Đường số 9, với bên phải là rừng cây dầy dặt, bên trái là sông Sê Pôn với rừng và chỏm đá cao dọc theo bờ sông, giới hạn tầm quan sát của Thiết kỵ. Địa hình dọc theo trục lộ lại càng giới hạn chiến thuật sử dụng chiến xa khi chiến xa không thể rời được lộ chánh để nới rộng địa bàn hoạt động hay trinh sát, canh chừng vòng đai an ninh xa hơn. Không như ở mặt trận Cam Bốt, địa hình ở Hạ Lào không phải là địa hình để có thể dàn một mặt trận dài sáu cây số hàng ngang, với 200 xe tăng và thiết vận xa, mỗi chiếc cách nhau 25 mét, và cứ thế tác xạ và tiến quân. [18]
Tuần đầu tiên của cuộc hành quân mọi chuyện xảy ra như dự định. Nhảy dù và BĐQ chiếm các tọa độ và thiết lập các căn cứ hỏa lực như được chỉ định; bộ chỉ huy mặt trận đã nằm ở Bản Đông hai ngày trước khi quân Thiết kỵ tiến 12 cây số từ biên giới đến để gia nhập họ. Ở phía đông nam Bản Đông, lính Bộ binh của sư đoàn 1 đã an tọa trên những cao điểm, nhìn về hướng nam canh giữ.
Nhưng đến tuần thứ hai, tình hình thay đổi: sau khi xác định được vị trí của các lực lượng VNCH và sau khi đã viện quân đầy đủ, CSBV chuẩn bị tấn công vào các cao điểm và căn cứ hỏa lực của VNCH.
Trong khi đó, lực lượng Thiết kỵ từ Bản Đông tiến về mục tiêu Sê Pôn ở hướng tây được chừng năm cây số thì gặp sức kháng cự. Căn cứ hỏa lực 30 bắt đầu bị pháo vào ngày 16 tháng 2. Ở hướng tây của căn cứ 30, quân CSBV phối hợp chiến xa và Bộ binh để tấn công trực diện điểm phòng thủ của đồi 31, nơi đặt bộ chỉ huy của lữ đoàn 3 Nhảy dù. Ở phía nam, tất cả cứ điểm của sư đoàn 1 Bộ binh đều bị tấn công lẻ tẻ. Vấn đề tiếp tế cho các căn cứ hỏa lực bằng trực thăng càng lúc càng khó khăn hơn vì hỏa lực phxon - Tổng thống Nixon đã mất tin tưởng vào Đại tướng tư lệnh MACV, Abrams, và Tổng trưởng Quốc phòng Melvin Lair. Nixon nghĩ hai viên chức trên không thật sự giúp VNCH hết lòng như ý ông muốn. Nixon viết: “Tôi không thể nhấn mạnh thêm hơn, là tôi đã quyết định chúng ta sẽ đánh cạn láng. Và chúng ta phải làm sao cho địch thấy được ấn tượng đó... Đối phương đã quyết định đánh cạn láng; chúng ta cũng đánh cạn láng. Chúng ta có trong tay quyền lực huỷ diệt bộ máy chiến tranh của họ. Nhưng câu hỏi là chúng ta có ý chí để sử dụng quyền lực đó không. Sự khác biệt giữa tôi và Tổng thống Johnson là, tôi có ý chí đó [sử dụng quyền lực] rất rõ ràng. Nhưng nếu chúng ta thất bại lần này thì cũng tại vì những viên chức quan lại ở Bộ Quốc phòng và những đồng minh của họ ở Bộ Ngoại giao. Họ cố gắng tìm cách phá hoại những quyết định mạnh bạo và quyết liệt mà tôi muốn chúng ta phải thi hành” [16].
Ngày 5 tháng 5.72, khi Kissinger từ Paris trở về báo cáo là Hà Nội đã từ chối tiếp tục thương thuyết, Nixon không chần chờ: trưa ngày 8 ông ra lệnh cho Đô đốc Thomas H. Moore, Tham mưu trưởng liên quân, chuẩn bị phong toả tất cả giang và hải cảng Bắc Việt, và chuẩn bị khởi diễn cuộc hành quân không lực Linebacker. Chín giờ tối cùng ngày, Nixon lên đài truyền thông, thông báo cho dân chúng Mỹ ý định của ông. Trong thông điệp, Nixon nói Hoa Kỳ có ba chọn lựa: lập tức rút tất cả quân đội Hoa Kỳ khỏi Đông Nam Á; tiếp tục thương lượng với Hà Nội để tìm một giải pháp; và, dùng áp lực quân sự để ép buộc đối phương. Nhưng, Nixon tuyên bố, kinh nghiệm đã cho thấy hai chọn lựa đầu chỉ kéo dài cuộc chiến, kéo dài thêm chết chóc. Bây giờ chỉ còn chọn lựa thứ ba: Hoa Kỳ sẽ oanh tạc cho đến khi nào Bắc Việt chịu ngồi lại thương thuyết.
Ngày 9 tháng 5, hải quân thả thuỷ lôi phong toả Vịnh Bắc Việt. Tàu bè ngoại quốc có 48 tiếng đồng hồ để rời bến. Sau thời hạn đó, ngòi nổ tự động của thuỷ lôi sẽ hoạt động kể từ sáng ngày 11. Ngày 10 tháng 5, cuộc hành quân không lực Linebacker khởi diễn. Hôm đó, chỉ trong 12 tiếng đồng hồ, phi cơ chiến thuật của không và hải quân bay 414 phi vụ thả bom chung quanh Hải Phòng và Hà Nội [17].
Nixon tự nhận mình là một tay đánh phé giỏi, biết coi mặt để đoán bài đối phương [18]. Nixon biết lúc nào phải tố; và càng tố mạnh khi có bài trong tay. Đến cuối tháng 9.1972, cuộc tổng tấn công của CSBV đã hoàn toàn thất bại: An Lộc được giải toả; Kontum vẫn nằm trong tay quân đội VNCH như từ lúc đầu của cuộc tấn công; và cờ của VNCH đã tung bay trở lại ở cổ thành Quảng Trị. Đối diện với sự thất bại quân sự, Bắc Việt chịu trở lại bàn hội nghị. Nhưng Hoa Kỳ - và VNCH - không thể chấp nhận hai đề nghị của Hà Nội đưa ra vào ngày 26 và 27 tháng 9.1972 ở Paris. Trong khi Kissinger tiếp tục thương lượng với Hà Nội - và khẩn nài Sài gòn phải nghe theo kế hoạch của Mỹ - Nixon vẫn giữ yên lặng về thái độ của CSBV cho đến qua ngày bầu cử tổng thống. Kết quả bầu cử cho thấy Nixon được sự tính nhiệm lớn của cử tri Hoa Kỳ. Với kết quả đắc cử trong tay, ngày 14 tháng 12.1972 Nixon quyết định cho Hà Nội thấy họ không có chọn lựa nào khác. Đi ngược lại những cố vấn quân sự của Tổng trưởng Quốc phòng Laird, Ban tham mưu liên quân, và Tư lệnh Thái Bình Dương, ngày 17 tháng 12, Nixon ra lệnh khai diễn cuộc hành quân không lực Linebacker II tiếp theo. Trong ba ngày đầu dội bom, hỏa tiễn địa không của Bắc Việt bắn rớt 14 B-52. Khi thấy Ban tham mưu liên quân và Bộ tư lệnh Thái Bình Dương nao núng, Nixon ra lệnh cho Đô đốc Moorer tiếp tục cường độ oanh tạc và bắt vị tham mưu trưởng liên quân này phải đích thân chịu trách nhiệm về kết quả của chiến dịch oanh tạc. [19] Sau mười một ngày dội bom, hơn một ngàn phi vụ chiến thuật và 770 phi vụ chiến lược B-52, Lê Đức Thọ xin trở lại bàn hội nghị lần cuối.
Không ai có thể nói Hiệp định Ba Lê 1973 đã đem lại một nền hoà bình cho Việt Nam, hay một danh dự cho Hoa Kỳ. Hiệp định Ba Lê 1973 chỉ là một văn kiện để cho Hoa Kỳ rút chân ra khỏi vũng lầy Việt Nam một cách danh chánh ngôn thuận. Trong khi một số người chỉ trích hành động dội bom của Nixon, đa số dân chúng Hoa Kỳ coi đường lối của Nixon là một phương cách duy nhất để khuất phục CSBV. Từ đầu tháng 5.1972, bắt đầu chiến dịch Linebacker, khi Nixon tuyên bố ông sẵn sàng thất cử nhiệm kỳ hai hơn là để mất miền Nam, cho đến đầu tháng Giêng khi Nixon tái đắc cử, và kết thúc chiến dịch Linebacker II, những cuộc trưng cầu dân ý cho thấy 67% dân chúng ủng hộ đường lối của Nixon [20].
Không ai phủ nhận Nixon là một chính trị gia loại Machiavelli hành động tốt xấu gì cũng được, miễn sao có lợi cho mục đích tối hậu của chính trị. Để giữ lời hứa “đưa quân đội Mỹ ra khỏi Việt Nam” với cử tri Hoa Kỳ, Nixon đã làm những gì một chính trị gia có thể làm vis-a-vis kẻ thù; đồng minh; và người dân đã bỏ phiếu cho mình: áp dụng vũ lực quân sự đối với kẻ thù; bắt buộc người bạn đồng minh phải chấp nhận một thực tế chính trị; và chấp nhận ý muốn của cử tri là đã đến lúc Hoa Kỳ phải rời Việt Nam. Sau đó, liên hệ còn lại giữa Hoa Kỳ và Việt Nam chỉ là những lời hứa đến từ cá nhân của một tổng thống - khi còn làm tổng thống - của Richard M. Nixon.
Lịch sử sẽ có nhiều bí ẩn nếu một hoàn cảnh lịch sử được giả định bằng chữ nếu. Nếu Nixon không liên hệ đến vụ Watergate và không phải từ chức, thì Nixon có giữ lời hứa với Tổng thống Thiệu, với Việt Nam Cộng Hoà khi Bắc Việt tấn công cưỡng chiếm miền Nam vào năm 1975 hay không? Nếu Nixon không bị mất tín nhiệm ở Quốc hội, và Quốc hội Hoa Kỳ vẫn tiếp tục chương trình viện trợ quân sự kinh tế cho VNCH thì vận mệnh của VNCH có đổi khác không? Những câu hỏi này là những tranh luận không ngừng của sử gia [21].
Khi Nixon được ghi vào lịch sử những vị tổng thống Hoa Kỳ, ông có thể được liệt kê là xấu hoặc tốt; giỏi, hay dỡ. Nhưng không ai có thể phủ nhận Nixon có một sự nghiệp chính trị ngoại hạng.
Ngoài những bí ẩn, lịch sử còn có nhiều trớ trêu: sự nghiệp chính trị ngoại hạng của Nixon bị sụp đổ chỉ vì một sơ hở của những tên ăn trộm chuyên nghiệp nhưng làm biếng.
Và cũng có nhiều nhận định cho rằng, định mệnh của Việt Nam Cộng Hoà có một phần nào đó liên luỵ đến hậu quả của những tên ăn trộm lười biếng này [22].

[1]Nixon, Sđd, trang 270-271.
[2]Nixon, Sđd, trang 390.
[3]Nixon tuyên bố trên hệ thống truyền hình NBC, ngày 10 tháng 4.1988, hơn 14 năm sau khi từ chức. Trích theo Bruce Oudes, trong From: The President. Richard Nixons' Secret Files, trang 1.
[4]Trích theo A. J. Langguth, Our Vietnam: The War 1954-1975, trang 622. Về số tử thương hàng năm của quân đội Mỹ từ 1945 đến 1975, đọc James Olson, ed., Dictionary of the Vietnam War, Appendix E.
[5]Trong hai năm đầu nói chuyện với CSBV, Hà Nội khăng khăng đề nghị phải thi hành hai điều kiện tiên quyết: thay (nếu cần, ám sát) Tổng thống Thiệu và rút quân ra khỏi Việt Nam, rồi sau đó Hà Nội sẽ thật sự thương lượng. Nhưng nếu Mỹ thi hành hai điều kiện đó thì tương đương với đầu hàng. Henry Kissinger, Diplomacy, trang 695; Jeffrey Kimball, Nixons' Vietnam War, trang 233, 270, 272. Ở chương sau chúng ta sẽ đi vào chi tiết hơn về những gặp gỡ bí mật giữa Hoa Kỳ và CSBV.
[6]MACV: Military Assistance Command-Vietnam, Sở chỉ huy chiến trường ở các địa phương trong chiến tranh Việt Nam (talawas).
[7]Seymour M. Hersh, The Price of Power: Kissinger in the Nixon White House, trang 55 (phụ chú). Theo tác giả Trường Sơn, Cuộc hành trình năm ngàn ngày đêm (đường Hồ Chí Minh), (Thành Phố HCM: NXB Văn Nghệ, 1992), trang 185, trong năm tháng đầu của năm 1969, bộ tư lệnh Trường Sơn (Đoàn 559) bị chết 2.500, bị thương 2.938, và có 1.000 xe bị tiêu huỷ. Con số thiệt hại này rất khiêm nhường so với các tài liệu khác. Cũng theo tác giả, không lực Hoa Kỳ làm đình trệ bốn mươi lăm phần trăm công tác của hệ thống xâm nhập trong thời gian trên. Trường Sơn là bút hiệu của đại tá Phạm Tề, một cựu sĩ quan của Đoàn 559.
[8]Giải thích một cách vắn tắt ở đây, kế hoạch dội bom bí mật và giấu các thẩm quyền quân sự khác được thực hiện như sau: bộ tư lệnh MACV ở Sài Gòn yêu cầu những phi vụ B-52 dội bom những nơi tập trung quân dọc theo biên giới Việt-Căm Bốt như thường lệ. Nhưng vài giờ trước khi các phi vụ cất cánh, MACV cho người đến trung tâm điều khiển oanh tạc (tất cả các phi vụ B-52 được điều khiển bằng hệ thống radar hướng dẫn mục tiêu ở dưới đất) với những tọa độ mới. Trên đường bay đến mục tiêu, một số phi công nhận những thay đổi vào giờ chót, và được hướng dẫn đến mục tiêu mới. Sau mỗi phi vụ, quân lệnh ghi toạ độ được thiêu huỷ; các sĩ quan liên hệ không được bàn luận về những phi vụ đó với bất cứ ai. Sự việc đổ bể khi một số đơn vị đóng quân bên này biên giới chứng kiến bom rơi bên kia biên giới, trong nội địa Cam Bốt, và họ viết thư về kể chuyện này với nghị viên Quốc hội Hoa Kỳ. Một trong những tác phẩm viết chi tiết nhất về kế hoạch dội bom B-52 bí mật trong nội địa Cam Bốt là Sideshow: Kissinger, Nixon and the Destruction of Cambodia của William Shawcross. Nixons' Vietnam War của Kimball, và The Price of Power của Hersh cũng có vài chương với nhiều tài liệu phong phú về cuộc dội bom này.
[9]Nixon, Sđd, trang 445.
[10]Về các chi tiết quan trọng của cuộc hành quân đánh qua Cam Bốt, đọc: Chuẩn tướng Trần Đình Thọ, “The Cambodian Incursion". Theo Lewis Sorley, trong A Better War: The Unexamined Victories and Final Tragedies of Americas' Last Years in Vietnam, trang 208-209, tài liệu tịch thu ở Cam Bốt cho thấy các đơn vị Việt Cộng trong vùng hành quân đã nhận được chỉ thị trước về cuộc hành quân và cuộc đảo chánh Sihanouk của tướng Lon Nol từ giữa tháng 3.1970. Trương Như Tảng, trong A VietCong Memoir: An Inside Account of the Vietnam War and Its Aftermath, trang 176-178, có nói sơ về cuộc di tản của Mặt trận Giải phóng miền Nam và Chánh phủ Cách mạng Lâm thời về tỉnh Kratie khi quân VNCH đánh vào sào huyệt họ. Cũng trong những trang đã trích, Trương Như Tảng nói đầu tháng 3.1970, dựa vào tin tức từ tình báo Nga, Hà Nội báo cho họ biết Sihanouk sắp bị đảo chánh, và có thể có một cuộc tấn công trong tương lai của VNCH.
[11]Nixon, Sđd, trang 453-454. Chữ “tất cả” in nghiêng là nguyên thuỷ của Nixon.
[12]Nixon, Sđd, trang 860. Về chi tiết cuộc hành quân giải cứu tù binh ở Sơn Tây, đọc Benjamin F. Schemmer, The Raid. Tuy cuộc đột kích giải cứu tù binh không thành công (tù binh được dời di trại khác vì bị mưa lụt), cựu Bộ trưởng Ngoại giao Nguyễn Cơ Thạch thú nhận với nhà báo Seymour Hersh là, Hoa Kỳ có khả năng tấn công tận hậu cứ của họ, và họ phải cẩn thận canh chừng khả năng “dám liều” đó. Đọc Hersh, Sđd, trang 305-306. Hersh nói chuyện với Nguyễn Cơ Thạch khi đến Hà Nội vào tháng 3.1972.
[13]Về lời cảnh cáo Hà Nội, nhắn qua Nga và Trung Cộng, của Nixon, đọc Seymour Hersh, Sđd, trang 504-505; Jeffrey Kimball, Nixons' Vietnam War, trang 294.
[14] Khi một số tài liệu và điện đàm tối mật của Nixon và cố vấn than cận được giải mật vào tháng 2.2002, công luận mới nghe và đọc được chuyện Nixon nói về ý định dội bom các bờ đê ở Hà Nội và dùng bom nguyên tử chiến thuật để chận đứng CSBV, trong lần họp với Kissinger ở toà Bạch ốc vào ngày 25 tháng 4.1972. Lý do chúng ta không xác định được thái độ hư thực của Nixon, vì sau khi nghe lại cuốn băng, một số ký giả cho rằng Nixon nói với một giọng nghiêm trọng; một số khác thì cho đó chỉ là những phát ngôn trong lúc Nixon nóng giận. Đọc Jeffrey Kimball, The Vietnam War File: Uncovering the Secret History of Nixon-Era Strategy, trang 214-218. Nhưng trước đó, vào giữa năm 1971, Nixon cũng có nói về chuyện sử dụng bom nguyên tử đối với CSBV. Đọc Senhững đơn vị cộng sản mà quân lực VNCH đối diện ở Cam Bốt (ba sư đoàn địa phương 5, 7, và 9 của Việt Cộng), các sư đoàn có mặt ở Hạ Lào là các sư đoàn chính qui, được trang bị nhiều hơn là đầy đủ, với một nhiệm vụ sống còn là phải bảo cái yết hầu của con đường xâm nhập vào Nam. Sau khi đã mất những cứ địa bên Cam Bốt, bây giờ nếu CSBV mất luôn những cứ địa ở Hạ Lào thì cuộc chiến kể như thua. Vì lý do đó, dù bị thiệt hại nặng, CSBV phải bảo vệ Hạ Lào cho đến người cán binh cuối cùng.
Địa hình ở Hạ Lào không những bất lợi cho chiến xa và Thiết kỵ, mà còn bất lợi luôn cho vấn đề chuyên chở và yểm trợ bằng không lực: trời chỉ quang đãng từ mười giờ sáng đến ba giờ trưa. Trước hay sau giờ đó, mây mù bao phủ toàn vùng và vấn đề tiếp tế hay yểm trợ bằng trực thăng không thể nào thực hiện được. Và dù thời được tiết quang đãng, tìm một chổ đáp ở rừng núi Hạ Lào không dễ: lõm rừng nào trống trải, thích hợp, để đáp trực thăng thì địch đã ghi tọa độ sẵn hay chĩa thẳng (súng) phòng không vào đó. Khi thấy trực thăng sà xuống thì họ bắn hay pháo vào mục tiêu đã định. 82 trực thăng bị hủy diệt hoàn toàn và 618 chiếc khác bị trúng đạn, cho thấy cường độ phòng không của địch ở mặt trận. Hỏa lực phòng không giới hạn tiếp tế: quân đồn trú trên các căn cứ hỏa lực bị thiếu tiếp tế đạn, nước và lương thực hai, ba ngày là chuyện thường. Những ước tính về thời tiết và địa hình thiếu sót đến độ quân phục của lính hành quân không đủ ấp để chống lại cái lạnh của Hạ Lào về đêm. [28]
Cuộc hành quân không có một hệ thống chỉ huy và điều khiển suôn sẻ và trôi chảy ở cấp Quân đoàn trong ba tuần lễ đầu tiên hai mươi mốt ngày đầu quan trọng của cuộc hành quân. Trong khi bộ tư lệnh tiền phương của Quân đoàn XXIV nằm ở Quảng Trị, bộ tư lệnh tiền phương của Quân đoàn I thì ở Đông Hà. Bộ tư lệnh chiến thuật hỗn hợp Việt Mỹ ở tại Khe Sanh thì thiếu một thẩm quyền cao cấp để quyết định lập tức cho mặt trận. Quân đoàn XXIV không có sĩ quan đại diện ở Khe Sanh để điều động hai đơn vị chánh đang hỗ trợ cho quân đội VNCH là Liên đoàn 101 Không lực và Liên đoàn 108 Pháo binh. Cố vấn Mỹ của các sư đoàn VNCH không có thẩm quyền xin yểm trợ trực tiếp và phải chuyển yêu cầu ngược về bộ tư lệnh Quân đoàn XXIV ở Quảng Trị. Ở một vài trường hợp, cố vấn sư đoàn không trực tiếp yểm trợ cho sư đoàn của mình, hay không bắt được liên lạc với các cánh quân của sư đoàn trong giây phút sống chết nhất. [29] Sự hợp tác và yểm trợ của Hoa Kỳ rất rời rạc và thiếu nhiệt tình vì chính hai quân chủng Lục quân Và Không quân Hoa Kỳ cũng có nhiều dị biệt khi làm việc chung: tất cả yểm trợ của Không lực 7 đều do Lục quân (Quân đoàn XXIV) điều khiển và hoạch định, trong khi nhiệm vụ của Không quân rất quan trọng với hỏa lực của B-52 hay những loại bom 15 ngàn cân (Anh) dùng để dọn bãi đổ bộ quân. Ngay từ lúc soạn thảo kế hoạch hành quân, hai quân chủng đã cãi nhau về vai trò của không lực. Không quân lưu ý Lục quân là trực thăng của họ không đủ để áp đảo hỏa lực phòng không của CSBV. Lục quân thì cho rằng Không quân đã quan trọng hóa và phóng đại khả năng phòng không của đối phương. Sau khi cuộc hành quân khai diễn, Không quân có đại diện ở bộ chỉ huy chiến thuật, nhưng phải chờ lịnh yêu cầu của Lục quân từ Quân đoàn XXIV. Hai tuần sau ngày hành quân, Liên đoàn 101 Không vận lâm vào tình trạng không đủ trực thăng vận chuyển, và hỏa lực từ trực thăng cũng không đủ mạnh để áp đảo phòng không hay phá hủy xe tăng địch như Không quân đã tiên đoán. Đến giờ phút đó, khi bộ tổng tham mưu của VNCH lên tiếng phàn nàn thì MACV mới cho người từ Sài Gòn bay ra Vùng I để dàn xếp tình trạng chỉ huy và điều khiển ở Khe Sanh. Sự vắng mặt của một sĩ quan cao cấp của MACV ở bộ tư lệnh tiền phương Quảng Trị hay bộ chỉ huy chiến thuật Khe Sanh có thể là một yếu tố thắng thua của cuộc hành quân. Trên cương là tư lệnh MACV, đại tướng Abrams không nhiều ít phải chịu trách nhiệm về sự thiếu sót trong lối tổ chức chỉ huy và điều khiển của cuộc hành quân. [30] Khi tin tức về những lộn xộn của cuộc hành quân được mật báo ngược về Hoa Thịnh Đốn, trong một phút nổi giận tống thống Nixon lên tiếng đòi cách chức đại tướng Abrams. [31] Với hệ thống chỉ huy và điều khiển thiếu trôi chảy và gián đoạn đó, sự yểm trợ của quân đội Hoa Kỳ trong cuộc hành quân Lam Sơn 719 đã không được đúng mức và đầy đủ như đã phác họa trong kế hoạch một sự kiện mà tất cả các nhà quan sát quân sự đều công nhận.
Ước lượng sai lầm quan trọng khác là sự chênh lệch giữa lực lượng tấn công và quân phòng thủ. Trên lý thuyết quân sự, thông thường quân tấn công cần một lực lượng đông hơn quân phòng thủ ít nhất là ba lần để nắm phần thắng. Nên nhớ, vào năm 1966 khi tướng Westmoreland soạn thảo hành quân đánh qua Lào, kế hoạch của ông đòi hỏi ít nhất là bốn sư đoàn quân tác chiến, cộng với yểm trợ không lực của tất cả bốn quân binh chủng. [32] Khi tấn công qua Lào, quân đội VNCH không những không có số quân tương đương mà lại ít hơn quân phòng thủ hai lần. Ở một vài trận đánh như trận ở căn cứ Ranger North, Tiểu đoàn 39 BĐQ phải đối chọi với một lực lượng đông gấp sáu đến tám lần. [33]
Trong năm 1971, các giai đoạn Việt Nam hóa cuộc chiến gần như là hoàn tất. Quân đội VNCH nhận lãnh gần như hầu hết nhiệm vụ chiến đấu từ các đơn vị Mỹ. Họ chiến đấu không thua bất cứ đơn vị nào của đối thủ ở chiến trận nếu họ có được cơ hội. Và quân đội VNCH có cơ hội chứng minh khả năng tác chiến vào năm 1972 khi họ đóng vai quân phòng thủ và đánh bại 14 sư đoàn quân tấn công của CSBV. Nhưng trong trận đánh qua Hạ Lào vào mùa xuân 1971, quân lực VNCH nói chung, cùng một thời gian cố gắng nhận lãnh một trách nhiệm vượt xa khả năng họ có trong lúc đó. Quân lực VNCH rơi vào tình trạng mà đô đốc John McCain, tư lệnh quân đội Hoa Kỳ Thái Bình Dương, đã lưu ý hơn một năm trước: “Quá tham vọng; tiến nhanh quá [chương trình Việt Nam hóa và và bao thầu trách nhiệm] sẽ tự hại mình.” [34] Quân đội VNCH phải đánh hai mặt trận lớn cùng một lúc với tất cả lực lượng tinh nhuệ có trong tay: 17.000 quân ở Hạ Lào và 21.000 quân ở Cam Bốt hai miếng ăn quá lớn để có thể nuốt và tiêu hóa cùng một lúc. Nhưng đối diện với sự nguy hiểm thường trực mà CSBV đặt trước mặt, quân đội VNCH không có chọn lựa nào khác hơn là đánh. Nguy hiểm, chết, có thể thất bại, nhưng phải đánh.
Cuối năm 1971 quân đội Hoa Kỳ còn 139 ngàn quân ở Việt Nam. Với tất cả trách nhiệm tác chiến giao lại cho quân đội VNCH, số thương vong của Hoa Kỳ trong năm 1971 giảm đi rất nhiều so với những năm trước: với 1.381 quân nhân tử thương và 4.767 bị thương. Nhưng bên phía VNCH, tương tự như lời một chính trị gia Mỹ đã nói, dù nhìn ở khía cạnh nào, chương trình Việt Nam hóa chỉ là một kế hoạch thay đổi màu da của tử sĩ. Năm 1971 màu da của những tử sĩ ở chiến trường Việt Nam vàng nhiều hơn trắng: năm đó quân lực VNCH có 22.738 tử sĩ. Ở phía bên kia, CSVN có hơn 98 ngàn quân thiệt mạng. [35]

°

Sau khi cuộc hành quân Lam Sơn 719 đã chấm dứt; sau khi những báo cáo kết quả hành quân được trình lên bàn giấy... Abrams vẫn còn bực tức với ban tham mưu, với Không lực 7, với Quân đoàn XXIV và cả với chính ông. Trong một lần họp với các tướng lãnh MACV, Abrams noi bóng gió là ông thấy ái náy khi những gì ông hay những sĩ quan dưới quyền ông hứa hẹn và không giữ vẹn lời hứa. Có lần, khi nghe một trung tướng kể lại chuyện ông ta đã bội hứa với trung tướng Đỗ Cao Trí ra sao, tướng Abrams thông cảm và đồng thời cũng nói cho viên tướng thuộc hạ sự khó chịu khi ông phải nhận lệnh từ Hoa Thịnh Đốn để thúc dục và ép buộc phía VNCH thực hiện một số kế hoạch mà Hoa Thịnh Đốn muốn thực hiện. “Nhưng cũng còn đỡ hơn, so với những gì tôi thấy đại sứ Bunker bị [Hoa Thịnh Đốn] bắt phải thương lượng [với VNCH],” ông đại tướng tiết lộ với người sĩ quan phụ tá. [36]
Nói về người Mỹ và chiến tranh Việt Nam mà không nói chút gì về đại tướng Creighton Williams Abrams là một điều thiếu sót. Abrams cũng phục vụ ở Việt Nam một khoảng thời gian năm năm như người tiền nhiệm - và bạn đồng khóa từ trường võ bị West Point - là đại tướng William Westmoreland. Nhưng nếu chúng ta so sánh hai người về tư cách và chiến thuật chiến lược áp dụng trong cuộc chiến, Westmoreland và Abrams hoàn toàn khác nhau.
Sanh năm 1914 tại Springfield, Massachutsettes, trong một gia đình đủ ăn. Được theo học và ra trường võ bị West Point năm 1936 - khóa của những vì sao - và chọn binh chủng Thiết giáp. Hai mươi bảy tuổi và mang đại úy khi Hoa Kỳ gia nhập thế chiến thứ II. Ông chỉ huy một Tiểu đoàn thiết giáp và phục vụ dưới quyền của tướng Patton khi Đồng minh đổ bộ lên châu Âu. Abrams được cấp trên chú ý khi Tiểu đoàn của ông phá vỡ đường giây của Đức để giải cứu sư đoàn 101 Nhảy dù ở trận Bastogne. Sau thế chiến thứ II, Abrams được mang lon đại tá thực thụ khi còn 30 tuổi. Trong chiến tranh Đại Hàn, Abrams lần lược được chọn làm tham mưu trưởng cho ba Quân đoàn tham chiến ở đó (Quân đoàn I, IX, và X). Làm việc ở các Quân đoàn Abrams có dịp phục vụ dưới quyền của những đại tướng có tiếng như Maxwell Taylor, Bruce Clarke. Lên chuẩn tướng năm 1958 (một trong ba sĩ quan ra trường năm 1936 lên tướng đầu tiên) khi đang phục vụ ở trường Thiết giáp Fort Knox; rồi lên thiếu tướng và được chỉ định qua Đức coi sư đoàn 4 Thiết giáp. Trở về Mỹ phục vụ ở Ngũ Giác Đài; được thăng trung tướng năm 1963 và trở qua Đức lần thứ hai để làm tư lệnh Quân đoàn V. Chưa đầy một năm sau, Ngũ Giác Đài gọi Abrams trở lại Mỹ, gắn thêm một sao nữa và đề cử làm tư lệnh Tư lệnh Phó Lục quân - ông được chọn trên đầu 45 sĩ quan cấp trung và đại tướng thâm niên hơn ông cho chức vụ đó. Trong lúc đó, người bạn cùng lớp West Point với ông, Westmoreland, đã là đại tướng và mới vừa nhận chức tư lệnh MACV ở Việt Nam. [37] Tháng 5 năm 1967, Abrams được đề cử qua Việt Nam làm tư lệnh phó cho Westmoreland. Một năm sau, ông thay Westmoreland làm tư lệnh MACV.
Nhìn ở bên ngoài, Abrams và Westmoreland hoàn toàn khác nhau: Westmoreland ăn bận chải chuốt, tươm tất; trong khi quân phục của Abrams thì rất lè phè, nhăn nhíu. Một ký giả khi nhìn thấy ông ăn bận, đã gọi ông là “một cái giường ngủ chưa dọn đang hút xì gà.” Sau lưng ông, những người lính gọi ông qua hỗn danh là ông “thượng sĩ già.” [38] Đúng, đó là Creighton Williams Abrams. Về tánh tình và lối chỉ huy: Westmoreland mềm mỏng, ngoại giao và biết dấu ý nghĩ, tình cảm của mình qua lời nói; trong khi Abrams thì la hét, bùng nổ như một hỏa diệm sơn khi chuyện xảy ra không vừa ý. Nhưng lính dưới quyền thương và kính trọng ông, vì sau cơn bùng nổ ông biết hạ giọng - và nếu cần, nói lời xin lỗi - nếu nhận thấy mình đã đi quá trớn. [39]
Về chiến thuật, chiến lược áp dụng vào cuộc chiến: Abrams và người tư lệnh tiền nhiệm hoàn toàn khác nhau - khác nhau đến độ Abrams thấy rất khó khăn và cô đơn trong thời gian hơn một năm làm tư lệnh phó cho Westmoreland. Tuy không hợp nhau về lối đánh nhưng Abrams không bao giờ lên tiếng phản đối người tư lệnh của mình. Trong những lúc tâm sự riêng với bạn bè đồng cấp, Abrams nói ông phải trung thành và ủng hộ Westmoreland trong tư cách là tư lệnh phó. [40] Như đã nói qua, chiến thuật và chiến lược của Westmoreland là truy lùng và tiêu diệt; đánh nhanh, đánh mạnh bằng những đơn vị chủ lực quân đội Hoa Kỳ. Từ giữa năm 1964 đến đầu năm 1968, Westmoreland không chú tâm đến quân đội VNCH trong ý nghĩa ông không chú trọng về các phương diện như tân trang và hiện đại hóa vũ khí, hay đặt nặng vấn đề huấn luyện quân đội VNCH, hay quan trọng các kế họach bình định và bảo vệ an ninh ở Nông thôn. Những cuộc hành quân hỗn hợp Việt Mỹ được thực hiện rất ít dưới thời Westmoreland. Đối với Westmoreland, cuộc chiến được quản trị và tiến hành bởi hai quân đội riêng biệt của Việt Nam và Mỹ.
Khi Abrams vừa lên thay Westmoreland, theo một sĩ quan cao cấp kể lại, thì chiến thuật và chiến lược của cuộc chiến thay đổi “trong vòng 15 phút.” [4>
  • Phần 4
  • ---~~~mucluc~~~--- ---~~~cungtacgia~~~---