Tin giờ chót “Ngày 12-3, quân đội mặt trận phía Tây, dưới sự chỉ huy của thượng tướng V.I.Xô-cô-lốp-xki đã chiếm được thành phố và đầu mối đường sắt Via-dơ-ma” Tổng cục thông tin Liên Xô 12-3-1943 Tất cả đã diễn ra tốt đẹp hơn cả điều Tô-lu-be-ép có thể hy vọng. Xven-sơn bố cho biết là đã có thời quen cụ An-đrây-en, nhưng đã lâu không gặp cụ. Ôngnói điều đó một cách khô khan: -Kỹ sư và thợ cả là hai tầng lớp hoàn toàn khác nhau trong xã hội-Nhưng không để Tô-lu-be-ép tò mò gì thêm:-Kỹ sư có thể đến gặp thợ cả, nhưng thợ cả không thể tự nhiên đến gặp kỹ sư mà không được mời… Tô-lu-be-ép mỉm cười về sự giải thích này, nhưng anh không tranh cãi. Không khéo mọi hy vọng về cụ An-đrây-en có thể trở thành xôi hỏng bỏng không mất. Xven-sơn bố để chiếc xe ở trong ngõ gần nhà bác An-đrây-en rồi đi. Sau nửa giờ nói chuyện chậm rãi với bác An-đrây-en, ông nhắc đến tên họ kỹ sư Nga, người quen cũ của bac. Rồi mười phút sau, ông bảo rằng Tô-lu-be-ép vừa chạy khỏi trại tù binh và đang ngồi trong xe, cần được sự giúp đỡ. Sau đó, vác thợ cả già chạy bổ ra khỏi nhà, bỏ mặc Xven-sơn ngơ ngác ngồi bên tách cà phê; và sau một phút nữa, không để cho Tô-lu-be-ép chia tay với những người bạn đường, dắt anh vào căn nhà nhỏ của mình. Và thế là anh bắt đầu sống với bác An-đrây-en. Suốt một tuần, anh không gọi điện cho Vi-ta. Anh biết rằng những ngày đầu tiên trên mảnh đát xa lạ sẽ khó khăn nhất, và không muốn có những sự bất trắc ngẫu nhiên liên quan tới Vi-ta. Mà những công việc của anh thực hiện quả là nguy hiểm. Trước hết phải bắt liên lạc với nhà, để báo tin anh đã tới nơi thuận lợi. Đại tá Kri-xchi-an đã trao cho anh khóa mật mã đơn giản nhất: vào bất kỳ thư viện công cộng nào, lấy cuốn “Xa-ga” (Một tác phẩm thơ sử thi rất phổ biến của Na Uy) bằng tiếng Na Uy, xuất bản năm 1912, lật trang bảy, mười bảy và hai mươi bảy. Ở trang bảy, anh sẽ thấy tên người phải tìm-trang mười bảy, tên phố-trang hai mươi bảy-số nhà. Lúc đó, Tô-lu-be-ép đã phải ngạc nhiên tại sao lại cần phải rắc rối như vậy, sao không cho anh nhớ tên và địa chỉ luôn, nhưng đại tá Kri-xchi-an khô khan trả lời: cái mà anh dễ nhớ thì cũng dễ quên, dễ nói buột ra. Hơn nữa, “Xa-ga” thậm chí không được mua đi, bán lại. Cứ việc vào thư viện, cứ việc đọc rồi trả, miễn là không để lại một dấu vết nào. Và anh đã ngồi trong một thư viện công cộng gần nhà bác An-đrây-en, lật giở từng trang trong cuốn sách này. Ngay ở trang đầu đã định sẵn, với linh cảm sắc bén, anh đã tìm thấy câu chuyện trong đó có nhắc tới người khổng lồ tóc hung, dời sông chuyển núi, tên là… Ran-sơn! Tô-lu-be-ép lặng người đi trước trang sách. Anh đã giả định là có thể tên người sẽ quen thuộc. Phong trào kháng chiến tập hợp dưới ngọn cờ của mình những người ưu tú nhất. Nhưng Ran-sơn bây giờ đang nàm trong bệnh viện của ngư dân với vết thương chưa lành và tất nhiên ông bị cảnh sát nghi ngờ. Nhưng có thể ông ta chỉ là một người trùng tên với người mà Tô-lu-be-ép đang đi tìm? Mặc dù trong tổ chức nhỏ bé như phong trào kháng chiến, khó có thể sự trùng hợp kỳ lạ như vậy được. Anh chăm chú xem kỹ trang mười bảy, hai mươi bảy. Trang mười bảy nói về chiếc cối xay gió có phép lạ. Có lẽ tên phố là phố Xay Bột, trang hai mươi bảy, ngoài số trang, không có con số nào khác, có nghĩa là số nhà hai bảy. Lại gần tấm bản đồ Ô-xlô treo ngay trên tường cạnh đó, Tô-lu-be-ép tìm thấy khá dễ dàng phố Xay Bột ở một trong những ngõ hẻm trên bờ sông A-kec-en-vơ chia đôi thành phố. Vẫn chính là khu phố đông người nghèo ấy, khu của những người đánh cá, thủy thủ, phu khuân vác, công nhân, cách nhà bác An-đrây-en không bao xa. Phải tới đó. Ở nhà 27 phố Xay Bột, một phụ nữ đứng tuổi mở cửa cho Tô-lu-be-ép. Mặt bà ta lộ vẻ đau khổ, đôi mắy như đã khóc nhiều. Nghe thấy giọng dân Lap-lan, bà ta toan xông vào anh với hai nắm đấm. Cũng may là không ai thấy cơn thịnh nộ của bà ta, chỉ có hai người đứng ở bậc cầu thàng trên tầng hai. -Chính vì anh, vì các anh, những tên ngoại quốc đê tiện, mà chồng tôi bị bắn vào sườn-bà ta vừa kêu vừa xô người khách xuống bậc thang. Tô-lu-be-ép chụp sâu chiếc mũ xuống đầu, lùi bước. Ở nhà, khi cụ An-đrây-en đi tắm về lên gác xép gọi anh xuống ăn tối, Tô-lu-be-ép thận trọng hỏi người đánh cá Ran-sơn. -Đánh cá gì ông ta!-Bác An-đrây-en nhạo báng nói-Đó chỉ là một gã ba hoa, thế thôi. Ông ta cũng làm ở nhà máy ổ vòng bi, còn chuyện đánh cá chỉ là để kiếm thêm. Nhưng ông ta chẳng bao giừ làm nên chuyện cả. Lần vừa rồi, ông ta không kịp đốt lửa hiệu đúng lúc máy chết, tàu trôi ra Ska-ghe-rac, lúc đó thật không may, tàu tuần tra của bọn Đức đã xả súng máy vào người ông. Bọn Đức không cần theo phép lịch sự. Quả thực sau đó chúng có lôi Ran-sơn lên bờ, nhưng ông đã bị mấy viên đạn vào bụng. May một điều là người chánh kỹ sư không ưa gì bọn Đức, đã ghi vào sổ là Ran-sơn nghỉ ốm, nếu không có thể bị đuổi khỏi nhà máy chứ chả chơi. Tô-lu-be-ép buồn rầu nghĩ Ran-sơn đã ra biển để đến nơi hẹn gặp với chiếc tàu ngầm. Có nghĩa là trong điều bất hạnh này, chính anh có lỗi! -Vậy mà cháu lại nghĩ ông ta là một người can đảm đấy!-Anh dè dặt nói.-Và nếu bác định đi thăm Ran-sơn ở bệnh viện thì cháu rất vui lòng được đi theo, bác An-đrây-en ạ. -Có khi anh nghĩ đúng cũng nên,-Bác thợ cả tư lự nói, liếc nhìn vị khách với một vẻ láu lỉnh-Thôi được, ngày mai thứ tư là ngày thăm bệnh nhân, ta có thể đi thăm được. Hai người không nói gì thêm về chuyện ấy nữa, nhưng sáng thứ tư, Tô-lu-be-ép chuẩn bị sẵn hai bao thuốc lá ngon và một chai rượu rôm nhỏ. Anh cũng đã từng nằm ở bệnh viện, nên hiểu rõ cái khổ nhất ở bệnh viện là không được hút thuốc và uống rượu. Bản thân anh không được dùng những thứ này, nhưng nếu vết thương nhẹ thì không có loại thuốc men nào hay hơn! Bác thợ cả về nhà sớm hơn, và vào lúc bốn giờ, hai người đã tới bệnh viện của những người đánh cá. Tòa nhà nom ảm đạm, già nua như nhà dưỡng lão, nhưng ở ngoài sân có nhiều nhà mới xây, trong đó có khoa ngoại. Bác thợ cả An-đrây-en một mực đòi hỏi, nên hai người đã nhanh chóng được vào. Ran-sơn quả là một người to lớn, tóc hung. Tuy nhiên lúc này, ông không thể chuyển sông, dời núi, mà nằm dài trên giường bệnh, nhưng thấy khách là linh hoạt hẳn lên. Trong phòng còn có hai người nữa, nhưng có lẽ Ran-sơn được vị nể-hai người kia rời khỏi giường, đi ra ngoài. Tô-lu-be-ép lặng lẽ đặt quà lên mặt chiếc bàn con. An-đrây-en mỉa mai trêu bạn: -Thế nào, anh đánh cá,được mẻ khá chứ? -Thế nào cũng sẽ được!-Ran-sơn ảm đạm đáp, liếc nhìn người khách thứ hai đang im lặng. -Anh định bắt cá gì ở Ska-ge-rac thế? -Thôi đi, bác An-đrây-en, bọn Đức đã hỏi lục vấn tôi mãi đến phát chán rồi. Chúng lục tung cả các mớ lưới lên. -Thế chúng tìm gì ở dân đánh cá mình?-Bác An-đrây-en không vui hỏi. -Từ lâu đối với chúng, chúng ta không phải là người nữa!-Ran-sơn ngắtlời.-Sao, anh bạn của bác không biết nói à? -Biết nói, nhưng tồi thôi. Đây là người Na Uy gốc Nga, ngài Tô-lu-be-ép. Ông ấy sẽ làm ở nhà máy chúng ta. Nghe nói là anh bị bọn Đức cù, ông ấy cho anh là anh hùng! Cứ một mực đòi theo tôi. -Người Nga à?-Ran-sơn toan nhỏm dậy, nhưng kêu lên rồi đầu lại đổ ngay xuống gối.-Thế ngài làm gì ở đây, ngài người Nga?-Ông cứ thế nhìn chằm chằm vào bộ mặt gày của Tô-lu-be-ép. -Tạm thời tôi học tiếng,-Tô-lu-be-ép trả lời-Tôi vừa đọc “Xa-ga” trang bảy, mười bảy, hai mươi bảy. -À,-Ran-sơn kéo dài.-Quyển ấy văn hay lắm. Nhất là trang hai mươi bảy. -Ở đó có một người phụ nữ buồn, lúc nào cũng nhớ chồng. -Anh vừa nói tên anh là gì nhỉ? -Vla-đi-mia Tô-lu-be-ép. -Cảm ơn anh đã đến thăm. Tôi nghĩ là bác An-đrây-en sẽ thu xếp mọi việc cho anh. -Tôi đã ở chỗ cụ rồi. Ngày mai lần đầu tôi sẽ đến nhà máy. Nói chung, tôi có nhiều bạn bè. -Ran-sơn quay lai cụ An-đrây-en. -Xin lỗi bác, tôi thấy mệt thế nào ấy. Lại còn phải viết thư cho công ty bảo hiểm để họ chuyển tiền cho bà xã nhà tôi. Đến thăm tôi nữa nhé!-Tay ông bỗng yếu đi, trĩu xuống. Tô-lu-be-ép nắm lấy bàn tay bỗng trở nên mềm nhũn ấy và nghĩ thầm: “Bác ấy quá xúc độgn! Mà có thể nào khác được! Bác ấy đã nghĩ là vì cuộc chạm trán xuẩn ngốc với bọn Đức mà cả chiến dịch đã đổ vỡ!”. Nhưng đôi mắt của Ran-sơn mỉm cười. Khi họ ra khỏi bệnh viện, cụ An-đrây-en bảo: -Sao bạn chỉ toàn nói về “Xa-ga”? Phải nói về mình nữa chứ. Anh ấy thích những con người dũng cảm. Tin buổi sáng “Ở Trôn-khây-me, những người yêu nước Na Uy đã đánh bom một chiếc tàu thủy Đức, làm nhiều tên chết và bị thương. Ở Sta-van-gie, một nhóm người Na Uy có vũ trang đã tấn công một nhà kho quân sự. Sau khi diệt bọn bảo vệ, những người Na Uy đã đốt kho, thiêu hủy nhiều quân trang, quân dụng của bọn xâm lược Đức”. Tổng cục thông tin Liên Xô 11-3-1943 Bác thợ cả An-đrây-en thu xếp cho Tô-lu-be-ép vào làm công nhân luyện nhiệt. Ở nhà máy có nhiều dân tị nạn làm việc. Đó là những người Lát-vi, E-xtô-ni chạy tới đây khi chính quyền Xôviết được thành lập ở nước họ năm 1940. Sự xuất hiện thêm một “dân tị nạn” chẳng làm ai chú ý. Không ai đòi hỏi giấy tờ, chỉ cần một bác thợ cả đứng ra bảo lãnh. Đối với việc giải quyết vấn đề mà Tô-lu-be-ép quan tâm thì nhà máy này không mang lại gì nhiều lắm. Nhưng giấy chứng nhận làm việc ở nhà máy cho phép được sống ở thủ đô, vả lại tất cả sản phẩm của nhà máy đều xuất cảng sang Đức, nên khi có dịp có thể tìm hiểu được bọn Đức cần loại thép gì. Còn tạm thời chuyên gia nhiệt luyện Tô-lu-be-ép phảo tôi luyện những vòng ổ bi các cỡ khác nhau mà vẫn hy vọng rằng không phải tất cả những thứ đó sẽ được gắn vào một hệ thống trọng pháo hay xe tăng nào đó mà bọn Đức sẽ đem dùng trong những trận chiến đấu tới. Một tuần sau, anh gọi điện cho Vi-ta. Anh gọi điện từ một buồng máy tự động giữa giờ làm việc, và Vi-ta cầm ống nghe. -Phòng vận chuyển đây!-Chị nói bằng một giọng sảng khoái thích hợp với một cô thư ký. -Vi-ta, anh đây,-anh nói. -Trời đất, anh Vô-lô-đia!-Chị vui sướng, kinh hãi thốt ra. Có lẽ trong phòng có người cho nên chị chuyển sang nói tiếng Nga.-Anh nói ngay bao giờ em gặp anh và ở đâu? -Sáu giờ chiều, gần công viên, bên bờ vịnh!-Anh nói vội câu đã chuẩn bị sẵn từ lâu. -Được rồi!-Chị trả lời cũng vội vã như vậy, và dây nói đã bị cắt. Sáu giờ kém mười lăm, anh sửa soạn tới công viên bên vịnh. Anh bao giờ cũng ưa thích công viên bên vịnh biển này với những bức tượng của nhà điêu khắc Vi-ghe-lan đặt ngay từ cổng vào và hầu khắp cả công viên. Ngày ấm áp, tuyết tan trên các bức tượng và lối đi, nhỏ giọt từ trên cây xuống. Các ghế ngồi khô ráo. Những con chim sẻ bù xù và những con bồ câu béo nục mổ những mẩu bánh vụn từ lòng bàn tay của các bà già mặc măng tô ấm áp, cổ lông, đi găng tay đên hay thu đôi tay xơ cứng trong ống sưởi tay. Một con sóc nhảy từ trên cây xuống, chạy qua đường, đớp nhanh miếng bánh trên tay một bà già, rồi lại chạy vụot trở lại cây thông oằn mình vì gió biển, nhanh như một tia chớp anh.Tô-lu-be-ép tìm thấy một chiếc ghế trống, ngồi xuống và nhìn quanh. Dưới chân, vịnh biển màu xanh biếc và hẹp trải dài, hầu như cả thành phố từ trên các dãy núi đá cao đều dồn xuống đây. Sau bờ vịnh, những dãy núi cao dốc, rất gần, hiện lên đen ngòm. Trên đường phố, những chiếc xe quân sự Đức, dáng cục mịch qua lại, đây đó lính và sỹ quan Dức đi thành từng nhóm hai ba người. Chúng không đi phố một mình, thậm chí cả ban ngày, có lẽ làm theo lệnh của cấp chỉ huy: trong những năm này, đã có nhiều vụ lính và sỹ quan mất tích bí ẩn-mặt nước sâu và đen ngòm của vịnh biển không hé mở những bí mật của mình. Cũng có cả những tên cảnh sát tuần tra, mặc quân phục Na Uy, nhưng thái độ chúng khá hiền lành. Chung quanh không có gi nguy hiểm. Chỉ có mấy đôi ngồi ghé sát vào nhau ở những chỗ vắng, sưởi ấm cho bạn bằng hơi ấm của mình, hay cầm tay bạn gái trong tay mình, vì thời tiết lúc này chưa phải để cho những kẻ yêu nhau. Nhưng Tô-lu-be-ép ghen tị với họ và sự yên tĩnh dù là tạm thời của họ. Nhưng không, đầu phải yên tĩnh! Đây, một chú bé ôm xấp báo buổi chiều chạy qua, và cả các bà cụ, cả các cặp yêu nhau, đều nhất loạt thò tay vào túi, vào ví, tìm những đồng 3 xu, 5 xu mờ xám và mọi người đã có tờ báo loạt xoạt trong tay, mặc dù không khí đã thấm lạnh, đến lúc phải ra về. Tô-lu-be-ép cũng mua một tờ “Da-bla-det” mà mỗi người công dân đáng kính, có thể là dảng viên Đảng Xã hội Dân chủ hay một người có cổ phần đều phải đọc. Anh chúi mũi vào tờ báo, qua tin tức của bọn chỉ huy Đức, cố nắm tình hình trên các mặt trận. Bọn Đức tiếp tục viết về cuộc tấn công theo hướng Khắc-cốp. Tập đoàn quân “Trung tâm” miền Bắc đã cải tiến được “tuyến phòng thủ co dãn” của mình. Từ này mới xuất hiện trong các bản tin của Đức gần đây và bao giờ cũng có nghĩa là một cuộc rút lui trước sức ép của quân đội Liên Xô. Nhưng nghe chúng vẫn có vẻ lạc quan. Mải đọc những dòng dài dặc và huênh hoang trên mặt báo, Tô-lu-be-ép không nghe tiếng chân đến gần. Anh sực tỉnh vì giọng nói thân yêu. -Ngài Vô-lô-đia, ngài đón người yêu như vậy sao? Thế hoa đâu? Anh nhổm dậy, đánh rơi tờ báo. Nhưng chị đã áp mình vào anh, đặt tay lên vai anh, kiễng chân lên hôn vào môi anh. Anh nhẹ nhàng đỡ chị ngồi xuống. -Anh tệ lắm, tại sao mãi không gọi điện cho em?-Chị hỏi, vẫn cố tiếp tục trò chơi bông đùa, nhưng giọng nói đứt quãng, thiếu tự tin. Anh bất giác tự trách mình vì đã mang lại cho chị bao điều lo ngại. -Tiểu thư Vi-ta, người bạn trung thành của cô đang vừa qua một cuộc thi sát hạch!-Anh cố đùa giọng theo chị. -Anh thi lấy bằng tú tài hả? -Không, thì làm chuyên gia nhiệt luyện ở nhà máy vòng bi. -Hừ, anh đùa gì ác thế! Chị giận dỗi như một đứa trẻ và anh lặng lẽ cầm tay chị trong tay mình. Chị phải quen với cái việc anh không phải là một kỹ sư tài hoa từ nước Nga xa xôi tới, người mà chị cùng những người bạn nhiều tuổi hơn từng vồ vập, còn những người ít tuổi hơn thì tôn trọng nghe từng lời nói một. Khi đó, anh là đại diện của một Nhà nước, hôm nay, anh đại diện cho ai? Ít ra, anh phải là một người chỉ của riêng chị thôi. Chị rùng mình vì một cơn gió lạnh và Tô-lu-be-ép vội đứng dậy. -Vi-ta, ta vào tiệm cà phê đi! Anh phải uống một chút gì đó, -Cả em nữa, cà phê chẳng hạn. Anh trịng trọng xóc những đồng cu-ron bạc trong túi. -Em có nghe thấy tiếng nhạc này không? Tiền lương lần đầu của anh đấy. Chị xót xa nhìn bộ mặt gày gòm của anh, và thân hình lùng thùng trong chiếc áo măng tô mới mua như một chiếc mắc áo. -Anh phải lấy ít tiền của em và phải nghỉ ngơi ít ra một tháng đã!-Chị nói trách móc.-Không hiểu sao họ có thể lấy anh vào làm việc được! Nom anh chỉ còn có da bọc xương thôi! -Có xương rồi sẽ có da thịt!-Anh nói vô tư. -Thế nào? Thế nào? -Ơ, đó là một câu thành ngữ Nga,-anh giải thích. -Anh nói những thành ngữ cứ như lời cầu nguyện ấy,-chị phàn nàn.-Anh cũng biết là em không hiểu được những câu đặc ngữ! -Anh sẽ thôi! Anh đưa chị đến một quán ăn mà anh đã để ý khi đi đến chỗ hẹn. Quán ăn ở trong một cái ngõ, rẽ vào đó anh còn quay lại nhìn đằng sau. Anh tưởng chừng có một người ăn mặc sang trọng muốn đi theo hai người, nhưng sau đó nghĩ lại, quay trở ra. Và anh cũng đã quên ngay người đó. Họ ngồi trong sự cô đơn huyền hoặc. Dọc hai bên bàn đều có bình phong Trung Quốc vẽ con rồng màu hồng. Rồi họ khiêu vũ một lát-hai người chỉ nhẩy những điệu trịnh trọng, chậm rãi như bô-xtôn và tăng-gô,-và lại uống cà phê một lúc lâu. Ngoài cửa sổ đang cuộn lên một cơn bão xuân ngắn ngủi và ẩm ướt, và họ lại cảm thấy mình như trong những ngày mới yêu nhau-những con người bơ vơ, cô độc, không tổ ấm, trên mảnh đất hoàn sơ chưa thích nghi được với mọi niềm vui. Rồi đến lúc chia tay ở bên nhà chị, một tòa nhà đá cẩm thạch, được tạo dựng nên cho các cuộc giao tiếp chính thức nhiều hơn là cho hạnh phúc gia đình, những phòng ở được dấu kín, khéo léo đến thế trong chiều sâu căn nhà, ở phần nối liền với một mảnh vườn nhỏ bên trong, anh bỗng cảm thấy trên đôi môi mình đôi môi của chị và tiếng thì thầm nồng nàn: -Mai lại là thứ bảy! Chúng mình ra biệt thự! Em sẽ đón anh lúc một giờ. Nhưng anh cho biết ở đâu? -Anh sẽ ở gần công viên,-anh chỉ nói được có vậy.Tin buổi tối: “Ngày 15-3, quân ta, sau nhiều ngày chiến đấu dữ dội, đã di tán thành phố Khác-cốp theo mệnh lệnh của cấp trên. Ở Xmô-len-xcơ, tiếp tục tấn công, quân ta đã chiếm được thành phố Khôi-mơ ôi-rơ-cốp-xcơ. Trên các mặt trận khác, quân ta tiếp tục tấn công theo các hướng trước”. Tổng cục thông tin Liên Xô 15-3-1943 Tám giờ sáng, anh ở nơi làm việc của mình. Ngày làm việc ngắn ngủi, hôm đó những người lãnh đạo phân xưởng dường như đã phát điên lên và cố tăng nhanh sản phẩm đến mức tưởng chừng họ muốn cho ra trong bốn giờ đồng hồ số ổ vòng bi bằng của cả một ngày thường. Lò luyện nhiệt, nơi Tô-lu-be-ép đang trực, làm việc quá định mức, và anh đã báo điều đó cho kỹ sư trực ban. Viên kỹ sư xem các bảng đọc, các thông số, khoát tay: -Không sao! Không sao thì không sao! Có lẽ viên kỹ sư hy vọng rằng những người kiểm tra cũng muốn rời xưởng cho sớm. Còn Tô-lu-be-ép thì ngày nào cũng mong tất cả sản phẩm anh luyện nhiệt đều biến thành phế phẩm. Và mặc dầu anh biết rằng không có quyền liều lĩnh, nhưng sao lại không liều khi người kỹ sư cho phép? Vào chín giờ sáng, bác thợ cả An-đrây-en xúc động đến gặp anh. Ca-ma-rat Vla-đi-mia, người ta gọi anh tới kỹ sư trực ca. Tô-lu-be-ép cởi bỏ bộ quần áo bảo hộ loang lổ a-xít, mặc chiếc áo vét để ở trong tủ phòng trực, đi theo bác thợ cả. Tuy vẻ ngoài anh có vẻ bình tĩnh, nhưng tim đập dồn dập và nhẹ bẫng. Bác An-đrây-en đưa anh đến phòng kỹ sư trực ca, để anh lại đó rồi biến sau những cỗ máy: “Bác ấy sẽ đứng yên chờ sự cố thứ hai, xem mình bị giải đi hay sẽ trở về nơi làm việc”. Trong phòng không có ai ngoài kỹ sư mà Tô-lu-be-ép vừa trò chuyện hồi nãy. Kỹ sư gật đầu về phía ống nghe đã nhấc ra. -Ông Tô-lu-be-ép, ông có người cần nói chuyện!-Và ông ta nhìn người công nhân đầy vẻ sững sờ như nhìn một điều kỳ diệu đang hiện ra trước mắt. Ít ra là chưa bao giờ một người công nhân nào được mời tới phòng này. -Tôi nghe…-Tô-lu-be-ép nói chậm rãi và bình tĩnh. Nói chung, cái ý muốn nói tiếng Na uy thật thạo, thật hay đã làm cho anh trở nên bình tĩnh. -Ngài Tô-lu-be-ép?-Giọng nói phụ nữ nhẹ nhàng, chắc là của cô thư ký.-Ngài Ac-vit Ma-sơn nói chuyện với ngài. Anh xuýt đánh rơi ống nghe. Cha Vi-ta! -Ông Tô-lu-be-ép?-Bao giờ anh cũng nhận ra giọng nói trầm, hầu như đặc sánh vì béo mỡ, giọng nói của một người có quyền thế, không bao giờ phải hoài nghi vì một điều gì. -Vâng-anh trả lời tự nhiên, hết sức bình tĩnh. -Mời ông tới văn phòng tôi sau nửa giờ. -Xin lỗi ngài Ma-sơn, tôi sợ không được phép bỏ việc để đi. -Tôi đã nói chuyện với người phụ trách phân xưởng. Xe của tôi đợi ông ở cổng nhà máy đấy. -Xin cảm ơn. Tôi sẽ lại. Anh đặt ống nghe. Viên kỹ sư trực ban vẫn nhìn anh như nhìn một con la suốt đời kêu ngô nghê bỗng nói bằng tiếng người. -Thật là ngài Ac-vit Ma-sơn nói chuyện với ông à? Ông ta hỏi. -Chắc ngài đã nói chuyện với ngài Ma-sơn? -Không phải tôi mà phụ trách ca. Tôi chỉ được lệnh tìm anh và gọi tới máy điện thoại ở văn phòng. -Vâng, ngài Ac-vit Ma-sơn-Tô-lu-be-ép mệt mỏi đáp. Không có những câu hỏi tò mò này, anh cũng đã mệt lắm rồi. Để thoát ra, anh nói cụt ngủn:-Chả là tôi có một phát minh nhỏ muốn trình bày cùng ngài Ma-sơn… Ồ! Trong mắt viên kỹ sư ánh lên vẻ trầm trồ thần phục. -Tôi có thể rời chỗ làm việc được không?-Tô-lu-be-ép hỏi thẳng vào việc, cố gắng làm giảm bớt vẻ trầm trồ thán phục trong đôi mắt viên kỹ sư. -Tất nhiên! Tất nhiên rồi! Ông được nghỉ suốt buổi hôm nay! Ông ta vội trả lời. Bên cửa văn phòng, bác An-đrây-en lần từ sau các cỗ máy ra. Bác cầm tay và kéo anh ra xa. -Có chuyện gì xảy ra thế? -Không có gì, bác An-đây-en thân mến! Chỉ có một cô gái xin cho tôi được nghỉ buổi làm việc hôm nay thôi. -Chà, anh chàng số đào hoa nhỉ!-Bác An-đrây-en reo lên, thán phục.-Chú mày định lừa con cá mập già này bằng món mồi này ư? Thôi được, lão sẽ im miệng, sẽ im! Miễn là mọi chuyện đều êm đẹp! Tô-lu-be-ép rời ông lão, vôi đi đến tủ làm việc của mình. Bên lò luyện, đã có một người công nhân khác. Tô-lu-be-ép mặc măng-tô rồi chạy ra cửa. Ở cửa ra đã có người đón sẵn: người bảo vệ đánh dấu giờ nghỉ rồi trả giấy ra vào cho anh. Người thứ hai ở cửa là tài xế của Ma-sơn. Tô-lu-be-ép khoái trí như một đứa trẻ vì anh đã mặc bộ quần áo lễ nghi duy nhất để đi dự cuộc tiếp kiến. Muốn gì thì gì, nhưng đi gặp ngài Ma-sơn phải ăn vận cho đúng mốt. Người lái xe lặng thinh. Anh ta phóng xe theo những phố vắng, tốc độ không kém trăm cây số giờ. Một cô thư ký trẻ đón anh với cái nhìn đầy thán phục. Trước kia ở đây là một người đàn bà khác, nghiêm nghị, không biết mỉm cười. -Ngài Tô-lu-be-ép? Ngài Ma-sơn đang chờ ngài! Anh bước vào phòng làm việc đã quen thuộc. Ac-vit Ma-sơn, vẫn đường hoàng, đĩnh đạc như mọi lúc, chỉ có tóc bạc hơn, đứng dậy sau chiếc bàn, chìa tay ra cho anh: -Chào ông Tô-lu-be-ép. Toàn thân Tô-lu-be-ép cảm thấy cái nhìn đánh giá của ông ta. KhHông biết Ma-sơn hình dung người khách đặt hàng ngày trước nay ra sao, nhưng cái nhìn của ông ta điềm tĩnh hơn. Tô-lu-be-ép chỉ thay đổi về thể xác nhưng ăn mặc chỉnh tề, cư xử tự tin như hồi vẫn ký với Ma-sơn những hợp đồng hàng triệu bạc, đặt mua thép chất lượng cao. -Ông làm thế nào mà lại lọt vào được Ô-xlô thế?-Ma-sơn hỏi. -Tôi trốn khỏi trại tù binh Đức ở miền Bắc Na Uy. -Vậy ra ông không thể chọn được nước nào khác?-Ma-sơn hỏi châm chọc. -Nước Phần Lan cũng có bọn Đức ở đó rồi. -Có thể sang Ai-len chẳng hạn? Dân ở đó cũng mến khách lắm. -Tôi thích nước Na Uy hơn. -Thú thực, tôi bao giờ cũng sợ là ông sẽ lai hiện ra trên con đường của tôi. Những người bôn-sê-vích bao giờ cũng bất ngờ. -Ngài hãy cảm ơn Hit-le. Nếu không có hắn thì tôi đã yên ổn làm ăn ở U-ran nước chúng tôi rồi và chẳng quấy rầy ngài. Nhưng làm sao ngài đã tìm ra tôi? -Rất đơn giản! Đây!-Ma-sơn đặt lên bàn mấy tấm ảnh. Đó là những tấm ảnh chụp anh và Vi-ta, một chiếc gần công viên, chiếc kia đi chơi phố, chiếc thứ ba ở tiệm ăn. -Mật thám của ngài làm việc rất khá! -Làm thế nào được? Vi-ta là một trong những cô dâu giàu có nhất ở nước chúng tôi. Nhỡ đâu bỗng nhiên không phải ông mà là một tên bất hảo nào đó? Ông thì tôi còn biết rõ và biết rằng ông không có quyền lấy người nước ngoài… -Vậy chính ngài đã kiện tôi với quan chức ở sứ quán chúng tôi? -Đáng tiếc là như vậy? -Vậy bây giờ ngài còn hối tiếc điều gì nữa? -Lẽ ra chỉ cần chờ vài ngày là chiến tranh sẽ xóa ông khỏi chân trời thôi. Thế mà bây giờ tôi lại buộc phải quan tâm đến ông. Ông dùng cà phê nhé? Cô-nhắc?-Ông ta bấm buông và nói với cô thư ký hiện ra ở cửa:-Cà phê và cô-nhắc.-Khi cô thư ký đi ra, ông ta nói thêm:-Nom bề ngoài ông yếu lắm! Tôi đã không tin là ở trại tù binh Đức tồi tệ đến thế. Nhưng từ nay tôi sẽ thận trọng hơn với những kết luận của mình. Hai người im lặng uống cà phê và cô nhắc. Tô-lu-be-ép hiểu là con người khổng lồ này đang có điều phải suy nghĩ. Mẹ Vi-ta mới mất cách đây mấy năm và ông ta không lấy vợ nữa. Có vẻ như ông giành cho Vi-ta tất cả tình cảm của mình. Và không phải ngẫu nhiên ông nhắc tới sự việc xa xưa ở sứ quán. Ông cũng có thể thản nhiên như vậy gửi nhận xét không thuận lợi về người Nga này cho cảnh sát, và nếu thế còn ít-cho Ghê-xta-pô. Với Ac-vit Ma-sơn phải hết sức cẩn thận. -Ông Tô-lu-be-ép, ông định làm gì? -Đáng tiếc là tôi không thể về Nga được. Đành phải chờ đợi chiến thắng của chúng tôi thôi. -Chiến thắng ư?-Ngài Ma-sơn tỏ vẻ vô cùng ngạc nhiên-Vậy ông có biết là người Đức đã chiếm lại Khác-cốp chưa? Nói chung, ông có biết gì về tình hình trên các mặt trận không?-Ông ta ra khỏi bàn, đi đến mảnh tường nhỏ phủ lụa xanh, kéo sợi dây và trước mắt Tô-lu-be-ép hiện ra tấm bản đồ thế giới với vô số các màu cờ: Anh, Mỹ, Nhật, Đức, Nga… Tô-lu-be-ép lại gần bản đồ. Không thể chê gì được, nhà công nghiệp Ac-vit Ma-sơn hẳn phải cảm thấy mình ít nhất là người đứng đầu Bộ Tổng tham mưu. Thế giới đang đánh nhau nhận được sự đánh giá của ông ngày hai lần theo đúng bản tin buổi sáng và buổi chiều. -Có thể bọn Đức đã lấn được chúng tôi chút ít ở miền Nam thật.-Tô-lu-be-ép lạnh lùng nói. Nhưng chúng tôi đã đuổi chúng thật xa khỏi Mat-xcơ-va và Xta-lin-grat, từ Mai-khốp đến Grô-dơ-nưi, đến nỗi bất kỳ cuộc tấn công nào sắp tới của chúng cũng đều sẽ trở thành chiến bại. Ac-vit Ma-sơn chau mặt nhìn Tô-lu-be-ép, kéo miếng vải che bản đồ. Quay lại bàn, ông ta nói, giọng khô khan và cứng rắn: -Đúng ra phải đưa ông về trại tù binh mới phải. Nhưng ông đã từng là một chàng trai tuyệt vời từ cái hồi xa xưa, khi mọi người còn được tự do buôn bán với nhau. Ông ở lại nhà máy thì nguy hiểm: ở đó có nhiều dân di tản từ Lat-via, E-xtô-ni tới. Mà họ đối với người Nga cuũn đầy hằn thù như người Đức. Tôi cho rằng ông vẫn còn là một kỹ sư chứ? Và có lẽ ông đặc biệt quan tâm đến ngành xuất khẩu của chúng tôi? Tôi để ông làm kỹ sư cố vấn về xuất khẩu quặng ở văn phòng của tôi. Nhưng Vi-ta thì ngày mai tôi sẽ mang sang Đức… Ông vừa giáng đòn vừa liếc nhìn Tô-lu-be-ép. Anh nhìn xuống. Ngài Ma-sơn đợi một lát, rồi gọi cô thư ký. -Ngài Tô-lu-be-ép sẽ làm việc ở đây. Chị đưa chìa khóa phòng số sáu cho ông ấy. Chị hãy chuẩn bị và bàn giao cho ngài Tô-lu-be-ép các quyết toán về xuất khẩu quặng của năm ngoái và từng tháng của năm nay. Ngài Tô-lu-be-ép trực tiếp thuộc quyền tôi. Tôi sẽ tự chuyển lệnh cho kế toán trưởng. Cô thư ký ghi các chỉ thị của Ma-sơn vào sổ rồi đi ra. Ma-sơn nói tiếp: -Ông hãy đặc biệt chú ý tới việc trao đổi thư tín của chúng ta với Công ty cổ phần “Tra-phích” của Thụy Điển. Chúng tôi buộc phải làm ăn với họ để bọn Đức khỏi nghĩ đến chuyện tịch thu cả vùng mỏ của chúng tôi. Mà người Thụy Điển lại trao cho chúng tôi những tin tức rất giá trị!-Ông ta yên lặng và nói sang chuyện khác.-Tôi nghĩ rằng ông cứ sống ở nhà bạn bè thì tốt hơn. Dọn tới khách sạn sẽ thêm nhiều điều phiền phức. Hôm nay ông hãy cố thu xếp mọi việc của ông ở nhà máy. Còn bắt đầu từ sáng thứ hai, ông sẽ bắt tay vào công việc mới. Tôi sẽ gặp lại ông sau một tuần. Khi chia tay ông ta có vẻ đăm chiêu, đã lại nghĩ về một chuyện gì khác… Mãi ra đến ngoài phố, Tô-lu-be-ép mới sực tỉnh. Anh không hiểu là ngài Ma-sơn giữ anh bên cạnh mình để bảo đảm sự yên lành cho cái tổ ấm của mình hay ai đã khuyên ông chăm lo cho kẻ lẩn trốn tội nghiệp? Nhưng ai? Vi-ta? Những người của Kri-xchi-an? Hay Xven-sơn? Từ trong buồng điện thoại gần nhất, anh gọi điện cho Vi-ta. -Anh cần gặp em và càng mau càng hay.-Anh nói khẽ. -Chúng ta sẽ gặp nhau ở biệt thự mà!-Nàng cãi lại và nói thêm:-Thực tình chúng mình chỉ ở đó tới sáng mai thôi. Trưa 12 giờ, bố em đã đợi em rồi. Em đến anh vào một giờ trưa… Anh còn kịp đến nhà máy và thanh toán công việc. Bác thợ cả An-đrây-en có vẻ lo lắng ra mặt khi nhận được tin anh lại trở thành kỹ sư.Tin buổi sáng: “Đêm 16-3, quân ta tiếp tục tấn công theo các hướng trước”. Tổng cục thông tin Liên Xô 16-3-1943 Vi-ta đầy vui vẻ, phấn chấn. Để Tô-lu-be-ép ngồi xuống bên cạnh chị hỏi: -Anh vừa gặp bố em? Anh chăm chú nhìn chị. Chị thận trọng lái chiếc xe trong dòng xe của những người giàu có đang vượt ra ngoại ô. Những người ít tiền hơn đang đứng đợi ở các ga xe buýt, tay cầm thanh trượt tuyết, sau lưng mang túi thức ăn, có khi là cả một cái lều gấp như một chiếc dù. Cả thành phố đi tới nơi trượt tuyết. Ngày êm dịu, sáng sủa. Các cửa hiệu đóng cửa để lại mở cửa vào sáng thứ hai, các cô gái mặc quần và áo len trượt tuyết từng tốp chạy ra khỏi nhà. Điều đó đã thành tập quán lâu đời: chiều thứ bảy và cả ngày chủ nhật dành cho thể thao, các cuộc đi chơi ở ngoại thành. Việc bọn Đức chiếm đóng nước này dường như không thay đổi tập quán đó. Vi-ta nhìn thấy mặt Tô-lu-be-ép trong gương, giảng giải: -Buổi sáng, em nhìn thấy ảnh bọn mình ở trên bàn bố em. Có lẽ em đã lộ ra điều gì đó, nếu không ông đã chả cho người theo dõi bọn mình. Lúc đó em liền bảo ông là cần phải giúp đỡ anh. -Thế em có biết mai ông sẽ đem em sang Đức không? -Ồ, chỉ có một tuần thôi! Bao giờ em cũng đi với ông mà! -Em có biết chương trình của chuyến đi này không? -Bố em được mời tới dự một buổi lễ long trọng nào đó ở chỗ ngài Crúp. Thế sao hở anh?-Chị rời mắt khỏi con đường, nhìn sang Tô-lu-be-ép. -Ôi, em cẩn thận một chút,-anh kêu lên. Trong hai năm nay, anh đã hoàn toàn không quan với giao thông ồn ào của đô thị và luôn luôn tưởng như các chiếc xe ngược chiều sẽ lao vào chiếc “BMW” nhỏ bé Vi-ta đang lái. Vào thành phố toàn là các xe tải: chúng chở rau quả và thực phẩm cho tuần tới. Vi-ta lại nhìn về phía trước, nhưng một nếp nhăn nhó hiện lên chỗ giữa đôi lông mày. Có điều gì đó đang làm chị băn khoăn. Luồng xe đã tản ra theo nhiều hướng và dễ đi hơn. -Vô-lô-đi-a! Bố em nói là…-chị nói khẽ-anh sẽ sắp biến khỏi đây. Có thực thế không? -Anh đã nói, anh là người lính và anh trung thành với lời thề của anh. Anh phải chiến đấu với nhân dân nước anh. -Thế còn em? -Sau chiến tranh, nhất định sẽ đến với em. Anh nghĩ thầm: “Nếu đại tá Kri-xchi-an không cản trở…”. -Em biết rằng ở nước anh rất khó ra nước ngoài.-Chị buồn bã nói. Nhưng chị lại tươi tỉnh lại ngay. Nhưng em đã đến tuổi trưởng thành rồi, và tự em có thể sang thăm anh được… Anh nghĩ đến đất nước lúc kết thúc chiến tranh, cái cô bé được nuông chiều này sẽ khó khăn đến thế nào giữa hoang tàn và đổ nát. Nhưng anh không tranh cãi. Có thể là chị sẽ liều. Và anh trở về cũng sẽ không còn khù khờ như trước, để đến nỗi một người nào đó sẽ quyết định cuộc đời riêng tư của anh. Anh yêu, và điều đó đủ để anh có quyền được hạnh phúc và chứng minh lẽ phải của mình. -Chúng ta sẽ ở bên nhau!-Anh nói cứng rắn. -Anh, người lính Xô Viết, anh cần gì ở đây vậy?-Chị nghiêm nghị hỏi.-Em thấy anh luôn có điều gì lo lắng mà. -Anh muốn giúp Tổ quốc anh chiến thắng! -Cái đó gọi là gián điệp phải không?-Chị hỏi. -Không cái đó gọi là tình báo. -Chống lại nước Na Uy nhỏ bé đã bị đánh bại ư? -Không, chống lại “nước láng giềng vĩ đại” mà em đang giúp đỡ đầy hiệu lực đấy. -Đất nước nhỏ bé của bọn em có thể làm được gì? -Bạn bè chả chiến đấu đó thôi? -Thế mà cũng là chiến đấu ư? Chỉ là trò chơi Hồng thập tự thôi. Có những người đang bỏ cát vào thuốc súng hoặc cài các kíp nổ rỗng vào bom, thế mới là chiến đấu chứ. -Em cũng biết những người như vậy à? -Báo chí gọi họ là những kẻ phá hoại, tòa án của Kvi-slin-gơ kết án xử bắn họ. Nàng cắn môi, tăng tốc độ, dường như sợ hãi những lời lẽ của chính mình và muốn xua đuổi chúng đi. Tô-lu-be-ép yên lặng. Con đường vượt qua những thửa rừng tới bờ hồ. Đám đông những người trượt tuyết đang lướt trên mặt băng ven bờ hồ phủ lớp tuyết mềm hằn lên chi chít dấu vết thanh trượt tuyết. Những dinh thự, biệt thự, những tiệm ăn nhỏ, quán cà phê hiện ra. Bên cửa vào những nơi ấy, những thanh trượt tuyết gác bên nhau hàng chục đôi và những gậy chống sơn màu xếp thành hàng dài. Cổng tòa biệt thự quen thuộc đột nhiên hiện ra. Những cánh cửa mến khách mở rộng. Vi-ta để xe bên tam cấp và Tô-lu-be-ép giúp nàng mang ra những túi xách, làn và va-ly. Vi-ta mở cửa ga-ra, đưa xe vào. Không ai ra đón họ, nhưng ngôi nhà được sưởi ấm, trong nhà ăn, trên bàn đã bày sẵn hai bộ đồ ăn, nhiều chai rượu vang, rượu uýt-ki, nước ngọt, hoa quả, trên bếp hơi còn leo lét ánh lửa đặt những nồi xoong thơm ngon. Tâm trạng Vi-ta lại thay đổi, chị linh hoạt hẳn lên, hát “Ăn thôi, ăn thôi, ăn thôi!”-rồi chạy đi rửa mặt và khi trở lại, Tô-lu-be-ép thán phục nhìn chị trong bộ quần áo ngày lễ. -Hôm nay là ngày hội của chúng ta-Nàng reo lên và hối tiếc:-Vô-lô-đi-a, tại sao anh không mặc bộ xmô-king? Mặc dầu em nhớ là người Liên Xô không có quần áo ngày lễ. Tại sao vậy? -Chăng qua bên anh người ta không quen như vậy. -Một sự giản dị khắc khổ phải không? Nàng hỏi đùa. -Nếu em muốn, thì đúng vậy.-Và anh trích những câu thơ còn nhớ được: “Chúng tôi đã trải qua trường học gian truân, xây thành phố trong những khu rừng rậm rạp, lái tàu biển trên vùng cực đới, đáp khí cầu bay về hướng mặt trời. Chôn ngườ chết chúng tôi không khóc, trong ngày vui chỉ uống nước suối trong. Chúng tôi đã đứng dậy bên ngưỡng cửa âm u, không cầu xin các ông chủ xót thương. Chúng tôi muốn sống trong no ấm. Hy vọng là bạn của chúng tôi và chúng tôi yêu cầu các cô gái yêu mình-đúng con người thật-trong bộ quần áo lao công”. -Phải, đúng là một sự giản dị khắc khổ.-chị nhắc lại vẻ suy nghĩ.-Nhưng có khi như thế lại tốt hơn cái thế giới loay hoay tàn nhẫn bọn em đang sống-Chị nhìn Tô-lu-be-ép với vẻ hy vọng. -Đó là thế giới của anh!-Anh nói,-Và anh không muốn thế giới khác. -Có nghĩa là em phải tiếp nhận tín ngưỡng của anh?-Nàng nói khẽ.-Như con gái đạo Tin lành yêu người theo đạo Thiên chúa phải chuyển sang nhập đaộ của người ấy! Anh lặng thinh. Chị không hề giống người theo đạo Tin lành, mà cả kiểu cách của ngôi nhà, bữa ăn long trọng, bộ quần áo tuyệt đẹp và có lẽ vô cùng đắt nay, tất cả những cái đố đều trái ngược với lời lẽ của chị, khiến cho chúng chỉ là một câu đùa. Nhưng chị đã cắt ngang câu chuyện, bắt đầu chăm sóc khoản đãi anh, bắt chước một người vợ đang yêu, lâu ngày mới được gặp chồng và cố làm anh được hài lòng, toại nguyện. Và anh bất giác khuất phục cái trò chơi đáng yêu ấy. Và cuộc gặp gỡ này đúng là một sự kỳ diệu: với trò chơi trượt tuyết, cuộc tâm sự hồi lâu bên lò sưởi, những lời lẽ âu yếm và bữa ăn tối vui vẻ kéo dài tới tận nửa đêm. Buổi sáng, anh tỉnh dậy vì chị nhìn anh đầy chăm chú, thậm chí còn có vẻ khắc khổ nữa, trên chiếc ghế thấp đặt bên giường. Chị ăn mặc theo kiểu thành phố. Anh bất gíc nhìn đồng. Đã mười giờ. -Sao em nhìn anh chăm chú thế? -Em muốn hiểu. Chị cúi xuống, hôn anh rõ lâu, ngồi thẳng lên, đi ra cửa. -Anh dậy mau, ăn sáng! Anh nhanh nhẹn cạo râu và đi ra nhà ăn. Vi-ta dáng đăm chiêu, thoáng vẻ buồn. Anh nghĩ: “Vi-ta bịn rịn vì cuộc chia tay!” -Anh có thể ở đây cả ngày. Em sẽ gọi điện cho Xven-sơn để bác ấy đưa anh về bằng xe riêng. -Không, anh đi luôn với em. -Cảm ơn anh. Chị thu dọn bát đĩa, xếp lại các va-ly. Tô-lu-be-ép đôi lúc bắp gặp cái nhìn băn khoăn của chị. Sau đó, chị ngồi xuống bên cái bàn trống, tì tay vào cằm, nhìn vào khoảng trống hồi lâu, rồi hỏi: -Anh quan tâm đến điều gì ở bên Đức? -Em muốn là đôi mắt của anh? -Không, là tâm hồn của anh.-chị trả lời nghiêm túc. Anh suy nghĩ: mình không còn có thể gửi thác cho ai khác! Người yêu-đó chính là tâm hồn mình! Ta đã hiểu tâm hồn Vi-ta, thì tại sao không thể tin được là Vi-ta cũng hiểu được những khúc mắc trong tâm hồn ta. Ngài Ac-vit Ma-sơn là bố Vi-ta thì ít mà là đối thủ của anh nhiều hơn. Và Vi-ta vẫn là chỗ dựa, là sự che chở của anh. Hãy để cho Vi-ta trở thành đôi mắt, trở thành tâm hồn của anh, như thế chị có thể lại dễ sống hơn! -Sao anh im lặng?-Chị hỏi. -Anh còn suy nghĩ. Điều anh yêu cầu em là nguy hiểm… -Thế anh nghĩ tham gia phong trào kháng chiến không nguy hiểm ư? Nhiều khi em giúp mà cũng chẳng biết là giúp ai. Lần trước, đúng vào mùa thu năm ngoái, trạm giao liên trên con đường bí mật đã đón một phi công người Anh rồi đưa sang Ai-len. Một tuần sau, hắn tới Bec-lin và khai ra tất cả những ai đã giúp đỡ hắn. Mỗi người bị án tù hàng chục năm! -Anh hy vọng là họ sẽ được giải phóng sớm hơn nhiều! -Anh tin chắc như vậy?-Chị nghiêm khắc hỏi. -Em thân yêu, sau lưng chúng ta không chỉ là sức mạnh, sự đoàn kết, mà có cả một lịch sử! Chẳng lẽ em và những người tham gia kháng chiến như em không thấy điều đó sao? -Em có cảm tưởng là nhiều người trong phong trào kháng chiến hành động theo một nguyên tắc kỳ lạ: họ ủng hộ đội yếu. -Thế còn em? -Em vì anh… Nhưng điều đó chỉ càng giúp em thực hiện điều yêu cầu của anh! -Em tin là anh có yêu cầu đặc biệt à? -Thì chính anh đã nói anh là người lính không từ bỏ lời thề chiến đấu đó thôi! -Đúng thế! -Vậy thì anh nói đi! -Được.-Anh xắp đặt lại những ý nghĩ và chị sốt ruột nhìn avò mắt anh, như muốn đọc được những ý nghĩ của anh. Anh bèn nói ra như nói với chính mình. Ở đây không thể còn chuyện úp mở được. -Anh được biết là bọn Đức đang bố trí lại nền công nghiệp mỏ của nước em. Chúng không chỉ mua quặng sắt, mà cả nhiều nguyên liệu để chế tạo ra các loại thép có tính năng đặc biệt. Điều đó, theo anh nghĩ, có nghĩa là chúng bắt đầu sản xuất loại xe tăng và trọng pháo đặc biệt nguy hiểm cho nước anh. Anh phải biết rõ có đúng như vậy không, cần được mô tả gần đúng loại xe tăng và trọng pháo đó. Cha em chắc được mời tới thăm các nhà máy vẫn ngốn quặng sắt của Na Uy và của hãng “Tra-phích”. Các nhà công nghiệp thường có tác phong như vậy. Còn bọn Đức, sau những thất bại vừa qua, cần phải khoe khoang sức mạnh của mình. Chúng biết là bố em không làm lộ bí mật của chúng. Nhưng nếu em muốn, em sẽ có thể nhìn thấy tất cả mọi điều ấy bằng cặp mắt của anh. -Chỉ có vậy thôi ư?-Nhưng nàng bỗng thấy xấu hổ vì tiếng reo trẻ con thiếu suy nghĩ của mình, và nói nghiêm nghị hơn:-Em sẽ là mắt anh ở đó. Điều đó vang lên như một lời thề. Những lời lẽ khác đều sẽ cảm thấy là hời hợt, nên chị vội vã ra xe. Mãi đến lúc xe gần thành phố, chị mới hỏi: -Chả lẽ điều đó quan trọng với anh đến thế? -Em thấy không,-Anh thận trọng giải thích.-Bọn Đức vừa bị một thất bại lớn nhất trong suốt cuộc chiến tranh. Giờ đây chúng đang bố trí lại lực lượng. Chúng cho rằng trận chiến đấu quyết định, mà có thể mang lại chiến thắng nữa, sẽ diễn ra vào mùa hè, khi xe tăng có thể cơ động không có gì cản trở. Chúng ta phải đón chúng với vũ khí sắc bén trong tay và phải đánh tan chúng! Có thể trận đánh này còn chưa phải là kết cục của chiến tranh,-chúng đã lọt quá sâu vào nước Nga,-nhưng nó phải trở thành mở đầu của kết cục, như Xta-lin-grat đã trở thành nấm mồ của chúng. -Em hiểu rồi, nhưng em vẫn cảm thấy lạ lùng thế nào ấy. Chả lẽ em có thể làm một điều gì đó mà sự tiến triển của lịch sử phải phụ thuộc vào nó? Anh mỉm cười và nói đùa: -Ở bên anh người ta nói: tiến trình lịch sử không phụ thuộc vào cá nhân, nhưng mỗi cá nhân đều tham gia vào tiến trình lịch sử ở phía bên này hay bên kia của cuộc chiến đấu. -Nhưng có những đất nước, những con người và cá nhân trung lập cơ mà? -Nước Thụy Điển trung lập đã làm nhiều việc cho Hít-le đến nỗi anh thấy phải xét xử sự trung lập của họ!-Anh nói quả quyết. -Đúng thế, anh nói phải!-Chị buồn rầu đáp. Chị đỗ xe gần công viên, áp vào người anh giây lát, rồi khẽ đẩy anh ra và bảo: -Em sẽ làm tất cả những gì có thể làm được.