Chương 2

Các cảnh sát viên đến rất nhanh, họ đến trước cả xe cứu thương, Kellin giơ cao thẻ công vụ của anh và nói liên hồi với vị sĩ quan trưởng nhóm. Tôi vẫn còn  áp một bàn tay lên vết thương trên cổ gã đàn ông gầy mảnh, kẻ đã tìm cách giết  Mike Kellin. Hoặc là Elmar Rank. Hiện thời điều đó chẳng mấy khác biệt.
Với bàn tay còn rỗi, tôi khám quần áo gã gầy, nhưng không tìm thấy một  mảnh giấy duy nhất, dù chỉ ghi một cái tên một địa chỉ hoặc bất kỳ một lời  mách bảo nào khác. Gã con trai này thậm chí không có đến cả một chùm chìa  khóa trong người. Chỉ có một vốc tiền, khoảng 60 hay 70 đô-la.
Tôi rụt tay về. Nó đỏ đầy máu.
Không giấy tờ, không chìa khóa. Chùm chìa khóa chắc đã được tay sát thủ để lại trong xe của tòng phạm, kẻ nhận nhiệm vụ ngồi chờ ở ngoài kia với máy xe bật sẵn. Trước đó tên tòng phạm đã gọi điện tới quán, cho đòi Elmar Rank ra  cabin điện thoại, ra ngay trước cổng Colt của tên này. Tên tòng phạm bây giờ chắc chắn đã cao chạy xe bay. Muộn nhất là khi nhìn thấy chiếc xe cảnh sát đầu  tiên.
Một viên cảnh sát, một hạ sĩ giàu kinh nghiệm, nói khẽ vào tai tôi: - Thưa  ngài, người đàn ông đó chết rồi.
Chần chừ, tôi rút tay ra khỏi vết thương, rồi cứng người đứng dậy. Những  mảnh thủy tinh kêu xào xạo dưới gót giày, và hơi rượu Whisky xông lên mũi.  Tôi thấy buồn nôn, có ai đó đã mở những cánh cửa khu toilet. Hai dải sáng rộng  hắt ra hành lang. Tôi nhìn mình trong gương.
Áo sơ mi của tôi, cà vạt và cả hai vạt áo veston đều dính máu.
Tôi bước vào phòng đằng trước của khu vệ sinh, rửa tay và dùng khăn giấy  chùi những vệt màu, nhưng chỉ khiến chúng lan rộng hơn. Sau một hồi, tôi đành  bỏ ý định rửa ráy.
Mike kellin đứng tựa vào cabin điện thoại bên tường. Anh ấn một chiếc khăn  giấy lên vết thương dưới tai. Tôi nhìn thấy vẻ thẩn thờ xa vắng trong hai con  mắt đờ đẫn. Mảng kính cửa cabin điện thoại vỡ tung. Ống nghe lủng lẳng bên  đầu đoạn cáp. Trong mảng tường đối diện của cabin, khi nhìn kỹ, tôi thấy hiện  rõ hai lỗ đạn xuyên. Cao ngang đầu người.
- Ít kinh nghiệm như anh mà ra tay được như thế là khá lắm rồi đấy, - tôi nói, mong kéo người bạn đồng nghiệp khỏi tình trạng u ám thảm thương hiện thời.  Anh đang bị sốc, chuyện chẳng đáng ngạc nhiên.
- Đây là lần đầu tiên, - Kellin lắp bắp. Thật chậm, ánh mắt anh từ nơi xa  vắng dần dần tìm về hiện tại. – Tôi chưa bao giờ... chưa bao giờ... nó chết rồi à?
- Vâng, - tôi nói. – Đây là một tình huống tự vệ hết sức rõ ràng, Mike. Anh  cứ tin chắc vào sự làm chứng của tôi. Nếu người bước đến bên máy điện thoại  là Elmar Rank thì bây giờ ông ta nằm ở đây.
Từ phía sau lưng chúng tôi, vị bác sĩ cùng hai hộ lý mang một chiếc cáng  vào hành lang. Bác sĩ cúi xuống bên tên Gangster. Ông ta lật mí mắt hắn lên, áp  tai nghe, rồi lắc đầu. Hai hộ lý lại rút ra.
- Xin mời ông tới đây cho, thưa bác sĩ! – Tôi nói.
Bác sĩ quan sát vết thương nhỏ của Mike Kellin.
- Phải khâu, - ông quyết định. - Nếu anh nghiến răng lại được, tôi có thể làm cho anh ngay ở ngoài kia. Đi nào, người hùng! – Bác sĩ nói rồi xoay người và  cất bước.
Kellin nhìn tôi ra ý hỏi.
Tôi đã chán trò quyết định giùm anh.
- Anh đi đi! – Tôi nói. - Việc ở đây để tôi.
Kellin chần chừ. – Rank ở đây? Jerry, tôi cần ông ta! Có thể ông ta quen gã  này! Nếu ông ta nhìn thấy những chuyện gì xảy ra ở đây, có thể ông ta sẽ khai!
- Tôi cho người đưa ông ta lại đây, - tôi hứa hẹn.
Kellin bước theo bác sĩ ra phía ngoài. Tôi trao đổi một vài câu với viên hạ sĩ đang cho quân ghi tên những người có mặt. Ban trọng án đã được báo tin và chẳng bao lâu nữa sẽ có một nhóm tới đây. Cả trong những tình huống đã hết  sức rõ ràng, người ta vẫn phải trao vụ án vào tay ban trọng án.
Quầy rượu bây giờ lại đông chật những người và anh pha rượu phải làm luôn  chân luôn tay. Tôi chen lấn ra phía đằng sau quầy, vẫy tay về phía người bồi  bàn, người đã gọi ông Rank đến bên điện thoại. Người đàn ông nhìn ngang qua mặt tôi.
- Anh nhận được cú điện thoại đó ở đâu? – Tôi hỏi anh ta.
- Phía sau phòng. Đằng trước nay ầm quá, chẳng nghe được câu nào. Mỗi  khi máy ở đó đổ chuông, bên dưới quầy rượu sẽ có một bóng đèn nhỏ sáng lên.  Lúc đó tôi sẽ đi ra phía sau. Nếu đó là điện thoại cho khách thì tôi sẽ chuyện  cuộc gọi vào trong cabin và gọi tên vị khách đó.
- Sau này anh sẽ phải nhắc lại lời khai của anh để ghi biên bản. Anh có nhận  thấy điều gì khác biệt trong cú điện thoại đó không? Một giọng nói lạ? Anh có quen giọng người đó không? Giọng đàn ông hay đàn bà?
- Đó là một giọng đàn ông. Nghe rất lịch sự, tôi phải công nhận như thế.  Nhưng mà quen ư? Không, tôi không quen giọng người đó.
- Liệu anh có nhớ ở đây đã lần nào có người gọi tới cho ông Rank chưa?
- Không, tôi không nhớ được, tôi rất tiếc. Nhưng trong thời gian gần đây thì  chắc chắn là không có đâu.
Tôi chỉ về hướng xác tên Gangster. – Anh đã nhìn thấy mặt kẻ đã chết, anh có biết gã ta không?
- Chẳng lẽ đó không phải là ông Rank?
- Không. Tôi hỏi la liệu anh đã nhìn thấy người đàn ông này lần nào chưa?
- Chưa, chắc chắn là chưa. Chưa bao giờ.
Tôi đi ra ngoài. Bây giờ là giữa tháng 10, và trời về tối đã rất lạnh. Nhưng bù  lại, không khí rất trong lành. Tôi đến bên chiếc xe Jaguar màu đỏ của tôi, chiếc  xe đã được tôi cho đỗ ở khúc phố nằm dưới đường trên cao Westside. Bây giờ là 9 giờ 27 phút.
Kể từ cú điện thoại, cú điện thoại mà tôi đoán là nhắm mục đích gọi Elmar  Rank ra trước họng súng của kẻ sát nhân, mới có 21 phút trôi qua. Lần nào tôi cũng phải ngạc nhiên khi nhận thấy khoảng thời gian trong một cuộc đụng đầu  bạo lực như được kéo dài ra một cách đáng sợ.
Tôi ngồi vào trong xe, châm cho mình được một điếu thuốc lá và bật máy điện đàm.
- Cotton gọi Decker, - tôi nói.
Phil lên tiếng ngay lập tức. – Decker đây. Mình đã tìm cách...
- Sang kênh 4, - tôi nói và chuyển kênh. Chúng tôi dùng đến kênh này khi  phải trao đội trực tiếp trong một nhóm nhiều xe ôtô đang đồng thời tham gia  một vụ ra quân, và không muốn chặn dòng giao thông chính.
- Mình đây, - Phil nói. - Chuyện gì thế?
- Mình đang muốn hỏi cậu. Cậu ở đây? Em bé của cậu đây?
- Ông ta ở trong nhà.
- Chắc chắn không?
- Ừ thì, nếu ông ta không chui qua đường vườn, nhưng mình cho là khó có  chuyện đó xảy ra. Trên phòng vẫn còn sáng đèn, xe ông ta đậu ở cửa vào....
- Tốt, Phil. Ở đây xảy ra một vụ đọ súng, Kellin bắn chết một gã đàn ông.  Rank chắc chắn có thể nói vài câu về chuyện này. Đưa ông ta lại đây!
- Thế nếu ông ta không muốn thì sao? Jerry, bọn mình đâu có quyền gì!
- Thúc vào đít ông ta! Đây là chuyện mạng sống của ông ta. Theo những gì vừa xảy ra ở đây thì người bị giết lẽ ra phải là ông ta đấy. Nh7ng đừng nói cho  ông ta nghe điều đó vội!
Phil phản đối thêm lần nữa. – Jerry, đây không phải vụ của bọn mình! Bọn  mình sẽ gặp rắc rối!
- Đây là yêu cầu giúp đỡ chính thức của cảnh sát. Rank phải nhận diện một  người. Nếu ông ta từ chối, Kellin sẽ xoay ra lệnh áp giải. Lúc bấy giờ ông ta sẽ phải ra khỏi nhà lúc nửa đêm. Tùy ông ta lựa chọn.
- Được, Jerry, mình sẽ mang ông ta đến cho cậu.
• •
Phil ấn vào nút chuông cạnh của nhà. Nghe tiếng rung cao vói, anh bước  lùi về và khẽ ngửa đầu ra sau gáy.
Anh chờ ngọn đèn phía sau khuôn cửa số cuối hành lang được bật lên.
Nhưng chuyện đó không xảy ra. Khi Phil bấm chuông thêm lần nữa và bấm  thật lâu, anh cũng chẳng gọi được ai đến bên cửa ra vào hoặc đến bên cửa sổ.  Anh lại lùi về cà cân nhắc xem có nên trèo qua mái nhà để xe và chuồn ra phía  sau nhà. Nhưng rồi Phil quyết định khác. Những ngọn đèn đường vẫn cháy, và  trong những ngôi nhà xung quanh đang có người ở. Nếu có ai nhìn thấy và gọi  cho cảnh sát thì vị thế của anh sẽ chẳng mấy hay ho.
Phil bước đến góc phố, nơi có để một máy điện thoại công cộng. Anh tìm ra  số của Rank trong quyển niên giám, ném xu vào máy và chọn số.
Sau khi nghe chuông reo tới 10 lần, Phil đặt máy xuống. Anh ra xe công vụ lấy một cây đèn pin và đi trở lại phía nhà ông Rank. Cửa nhà khóa kín, cửa nhà  xe cũng vậy. Anh dùng ngọn đèn thúc vào cánh cửa, và thúc vào một trong  những khuôn cửa sổ tối im của tầng trệt. Khi mãi vẫn thấy không có gì động  đậy, anh nhìn vào phía bên trong chiếc xe Toyota.
Cửa xe không khóa. Anh mở cửa phía người lài, cúi mình vào phía trong xe  và chiếu đèn vào hộc đựng đồ.
Quầng sáng phủ xuống lần vỏ màu đen của một máy phát sóng cầm tay. Phil cầm bộ máy đó lên và quan sát cả hai nút bấm với những ký hiệu óng ánh màu  thép, một thể hiện cánh cửa mở và một thể hiện cánh cửa đóng. Anh ấn vào biểu  tượng mở mở, ngay lập tức có tiếng rầm rì nhè nhẹ vang lên.
Chầm chậm, cánh cửa nhà để xe từ từ cuốn lên cao. Đèn trong nhà để xe tự động được bật. Phil cầm máy phát sóng bước vào trong. Nhà để xe được trang trí như một xưởng thợ với một chiếc bàn thợ cùng công cụ và một giá gỗ lớn để những mảnh thảm thừa, những tấm ván gỗ, những phụ tùng ôtô đã cũ và tất cả những gì mà một người thợ cơ khí nghiệp dư sưu tầm được theo năm tháng.
Một cánh cửa bằng thép nằm mé phải dẫn vào phía trong ngôi nhà chính. Phil thử xoay nắm đấm. Cửa không khóa.
- Ông Rank có nhà không? – anh gọi qua khe cửa. Phil không nhận được câu trả lời. Anh bước qua ngưỡng cửa. Qua một khúc cầu thang chật hẹp dẫn lên  tầng trên có một chút ánh sáng lọt xuống dưới này, nhưng nó không đủ cho anh  nhận ra từng chi tiết. Với ngón tay ánh sáng của ngọn đèn pin, anh lần lượt quan  sát từng góc trong gian sảnh.
Trên mặt chiếc tủ gỗ thấp đựng giày và một chiếc ghế mây là nhiều món  quần áo được ném lộn xộn. Phil chĩa đèn vào căn phòng khách tối đen, chiếm  toàn bộ bề ngang ngôi nhà. Cánh cửa ra ban công khóa chặt. Trong khoảng  vườn nhỏ chỉ có một vài cây ăn quả thấp tè đang chĩa những nhánh cành trụi lá  lên bầu trời xám mờ. Đứng sau một khoảng tường hở không cánh cửa là căn bếp  nhỏ rất ngăn nắp và trống trải.
Vừa chiếu đèn, Phil vừa đi lên tầng trên. Những bậc cầu thang bằng gỗ kêu  răng rắc dưới sức nặng của anh. Đi được nửa đường, anh đứng lại. Da đầu anh  co thít lại.
Anh nhìn thấy một khuôn cửa để mở. Căn phòng đằng sau đó có sáng đèn,  đó chính là quầng đèn mà anh đã nhìn thấy khi đứng ở ngoài kia. Trước đây rất  nhiều năm, có thể ông Rank đã gắn hai chiếc móc lớn kia lên khuôn cửa cho hai  đứa con trai của ông có chỗ mà treo ghế đu.
Giờ thì chính ông Rank đang bị treo vào hai cái móc đó, treo bằng một sợi  dây thắt lại thành một vòng tròn quấn quanh cổ ông và đã xiết rất sâu vào da  thịt. Khi Phil chiếu đèn vào cơ thể con người đó, quầng sáng chạm vào hai con  mắt mở lớn của Elmar Rank. Gương mặt người đàn ông nhăn nhúm.
Phil theo những bậc cầu thang cuối cùng lên trên. Anh chạm vào tay người  đã chết. Da tay khô và lạnh.
Phil nhìn ngang người ông Rank vào phía trong một căn phòng được trang  trí đơn giản. Những bức tranh dán trên tường cho biết đây là phòng trẻ em, chắc  đã được Rank sử dụng sau khi người vợ qua đời và các con trai đã ra khỏi nhà.
Cửa sổ đóng kín. Phil nhìn thoáng vào những căn phòng khác của tầng trên.  Đúng như anh đoán, phòng ngủ chính không còn được sử dụng nữa. Giường  không được trải vải. Một trong hai cánh cửa sổ được đẩy lên cao. Lần rèm mỏng  phồng lên trong gió. Phil bước lại gần hơn và nhìn xuống dưới.
Anh nhìn thấy mái của nhà để xe ngay dưới chân mình. Anh chĩa đèn vào  bậu cửa sổ, vào khoảng tường nhà và vào mái nhà để xe được trải nhựa đường,  nhưng không ngay lập tức phát hiện ra dấu vết nào.
Khi một cảnh sát viên gặp chuyện tự tử trong một vụ điều tra, bao giờ anh ta cũng phản ứng bằng thái độ nghi ngờ đặc biệt, mặc dù tự tử la chuyện không  hiếm gặp. Đúng thế, nhiều khi nó được gây ra chính bởi công việc của cảnh sát.  Những đối tượng bị tình nghi, những người liên đới hoặc người thân của họ nhiều khi không chịu nổi sự bàn ra tán vào của hàng xóm, cảm thấy mình bị đẩy vào cảnh tay trắng đứng giữa một rừng các phương tiện thông tin đại chúng mà  không hề có cơ hội bào chữa hay tự vệ, và họ tuyệt vọng chọn con đường thoát  cuối cùng. Bên cạnh đó, thường cũng không hiếm xảy ra việc thủ phạm dùng  cách tự tử để né tránh sự trừng phạt của tòa án nơi hạ giới.
Rank đã biết là ông ta bị tình nghi tội giả mạo giấy chứng nhận vật liệu xây  dựng và khiến thành phố New York bị thiệt những khoản tiền lớn. Vợ ông ta đã  chết. Hai đứa con trai không còn sống cùng bố nữa. Trong một vụ tai nạn rất có  thể đã được ông ta góp phần tạo nên với đám những giấy tờ giả mạo nọ đã có bốn công nhân bỏ mạng. Tất cả những dữ liệu và sự kiện đó hầu như tạo thành  những điều kiện kinh điển cho một quyết định “chập mạch” ở một người đàn ông chắc chắn là đã có một cuộc sống đứng đắn không thể chê trách, trước khi  ông ta bị sa vào vòng xoáy của tội phạm.
Phil để nguyên mọi vật, rời nhà và dùng máy phát sóng đóng cửa nhà để xe.
• •
Tôi đứng chờ Mike Kellin bên cánh cửa xe cứu thương. Các cảnh sát viên  khu vực đã căng vạch ngăn hiện trường, phía bên kia đã có những nhóm người  tò mò đầu tiên tụ lại. Hiện thời chẳng có gì mà nhìn. Các thành viên ban trọng  án. Bắc Manhattan đã tới đây được chừng 10 phút. Tôi có nói chuyện ngắn với  trung úy Carl Hobson, báo cáo với anh về vai trò của Mike Kellin và khuyên  anh bỏ ý định hỏi cung anh bạn đồng nghiệp của chúng tôi ngay tại đây. Hobson  đồng ý. Anh nói sẽ liên lạc với Kellin vào ngày hôm sau.
Cánh cửa xe cứu thương mở ra, Mike Kellin trèo xuống. Bước chân anh lảo  đảo. Một miếng băng lớn ngự trên mặt anh.
- Đau quá, - anh nghiến răng. - Lẽ ra cái tay đồ tể này cũng nên tiêm cho tôi một mũi giảm đau chứ!
Tôi mỉm cười. - Chuyện qua rồi mà, Mike. Thôi đi nào, tôi đưa anh về nhà. Anh còn sống ở quảng trường Tompkins chứ?
Kellin ậm ừ. - Thật ra thì còn, nhưng tôi đã hứa với một người là sẽ tới thăm  cố ấy, dù khuya tới đâu.
- Thì đã sao? Thế thì tôi mang anh đến chỗ ngọn lửa của anh vậy. Đi nào! Cứ vật vờ ở đây mà chờ Rank cũng chẳng được ích gì cho anh đâu. Hiện anh không  được khỏe. Tôi dám chắc là bác sĩ đã cho anh nghỉ bệnh và yêu cầu anh đến  khám chỗ bác sĩ trực trước khi đi làm lại.
Kellin không động đậy. – Tôi muốn có mặt khi Rank nhìn thấy xác chết, -  anh nói.
- Bạn đồng nghiệp của tôi sẽ mang ông ta lại đây. Có lẽ còn phải đợi một lúc  lâu nữa. Đi nào! Tôi sẽ tìm cách gọi điện cho anh ấy.
Tôi dẫn Kellin đến bên xe Jaguar, ấn anh ngồi vào ghế phụ lái rồi đi vòng  sang phía bên kia, ném mình xuống sau tay lái. Bật máy điện đàm lên, tôi gọi  cho Phil. Đến lần gọi thứ ba anh mới lên tiếng.
- Mình vừa mới quay trở lại xe, - anh nói. - Cậu nói chuyện được không?
Cùng câu hỏi đó, Phil muốn kiểm tra cho chắc chắn là trong xe của tôi không  có người không được quyền nghe những câu sau đó.
- Ổn, có chuyện gì thế? – Tôi hỏi, trong lòng thấp thỏm.
- Rank chết rồi, - Phil nói.
Mike Kellin xoay về phía tôi. Anh nhăn môi trên lên như một con chó sói.
- Cứ theo vẻ ngoài thì ông ta đã tự treo cổ. Mình đã nhìn thấy ông ấy đi về nhà. Khi trời tối thì điện trong nhà được bật lên, khoảng lúc 8 giờ 15. Kể từ đó  không có chuyện gì xảy ra. Không một ai đến hoặc đi ra.
- Có cửa sổ hay cửa ra vào nào mà cậu không thể quan sát được không?
- Cửa sổ của phòng ngủ phía trên garage để ngỏ. Đó là mé nhà mà mình  không quan sát được. Có vẻ như không có thư tuyệt mệnh. Bây giờ mình gọi  cho cảnh sát thành phố. Hay cậu muốn sang đây?
Kellin nói: - Tôi muốn sang đó.
- Anh không có khả năng công tác, Mike! Phil, cậu nghe không? Thanh tra  Kellin đòi hỏi phải có một ban trọng án được trang bị đầy đủ xử lý vụ này.  Không được phép bỏ qua bất cứ chuyện gì. - Cả tôi cũng nảy nghi ngờ. Mặc dù những kẻ giết Rank rõ ràng đã chờ ở đây, trong khu Westside của Manhattan.
- Được, vậy là tiến hành toàn bộ chương trình lớn. Mình đoán la các cậu  muốn mình ở lại đây và thúc ép họ phải không? Thuyết phục bác sĩ cho đưa xác chết ngay lập tức đến chỗ bác sĩ pháp y và tiến hành mổ xác?
- Bọn mình muốn biết rõ ràng, - tôi đồng tình.
- Được thôi, được thôi, Jerry, tối hôm nay đằng nào mình cũng chẳng định  làm chuyện gì khác. Nhưng nếu mà cậu hỏi thật thì mình cho đây là tự tử!
- Mình tin cậu chứ. Nhưng sự khác biệt giữa giết người hay tự tử sẽ quyết  định câu trả lời của một câu hỏi khác, hiện thời là một câu hỏi quan trọng hơn  rất nhiều.
Kellin chen vào một lần nữa. – Anh hãy nói là anh ấy cần tìm tất cả giấy tờ!  Mọi thứ đều có thể quan trọng.
- Tôi hiểu rồi, - Phil nói. – Bây giờ tôi đổi kênh đây.
Tôi nhìn sang phía Kellin. Anh căng người ngồi thẳng băng trong ghế phụ lái.
-  Trời đất! – anh lẩm bẩm. – Tôi cứ nghĩ tôi tóm được ông ta rồi! Bản thân  ông ấy không phải nhân vật quan trọng. Nhưng chắc ông ta phải có quan hệ.  Nếu bắt được quả tang ông ấy với tiền đút lót trong tay, có thể tôi thuyết phục  ông ấy khai ra cũng nên!
- Có một kẻ khác chắc chắn cũng đã nghĩ y như vậy, Mike, - tôi bình tĩnh  nói. Tôi bật máy xe Jaguar và lăn bánh. – Bây giờ đi đâu đây?
- Phố số 79 khu Đông, góc thứ hai, - anh trả lời. – Ông ta đã đi trước tay sát  thủ.
Nếu không phải như thế, tôi nghĩ thầm, thì những viên đạn trong bar rượu  kia là nhắm vào Mike Kellin. Nhưng tôi không muốn tiếp tục nghĩ tới khả năng  này. Bởi nếu đúng như thế, thì tôi thật sự không muốn ở vào tình huống của anh hiện thời. Liệu Mike có đang vật lộn với cùng những câu hỏi đó hay không?
Để chuyển anh sang với những suy nghĩ khác, tôi hỏi: - cô ấy có dễ thương  không? Chắc là xinh xắn.
- Cô ấy tuyệt lắm, - anh trả lời.
Tôi dừng xe bên một ngọn đèn giao thông và liếc thật nhanh sang phía anh,  trước khi lại cho xe lăn bánh. - Chắc chẳng bao giờ anh thành người lớn cả,  Mike.
- Tôi thấy người phụ nữ nào cũng tuyệt vời, đó là số phận của tôi. Nhưng mà  lần này…. Cora tuyệt vời thật đấy, rồi anh cũng sẽ nói như vậy cho mà xem. Tôi  thậm chí đã lại nghĩ đến chuyện cưới vợ. Nhưng tôi tin là cô ấy chẳng đồng ý.
- Thế thì cô ấy khôn hơn anh, Mike, - Tôi rẽ vào Đại Lộ Số 11 và hướng  chiếc xe thể thao của mình lên hướng Bắc. Một chiếc taxi bám sát xe tôi. Hai  ngọn đèn pha được chĩa cao của nó biến không gian bên trong chiếc Jaguar  thành một mảnh sân khấu chói chang ánh sáng. Tôi đạp mạnh hơn một chút  xuống bàn ga, nhưng vẫn không thoát được quầng sáng kia, bởi ngọn đèn giao  thông bên Phố Số 56 lúc đó vừa chuyển sang màu đỏ.
- Anh phải gặp cô ấy một lần mới biết, - Mike nói. Anh kiệt lực ngả đầu  xuống chỗ tựa trên lưng ghế và nhắm mắt lại. - Thật đấy, tôi rất muốn nghe ý  kiến của anh.
Tôi cười. – Đã có lần tôi đi xem mặt cô dâu hộ một anh bạn, sau đó anh ta  cưới cố ấy.
- Anh thấy chưa.
- Anh ấy bây giờ vẫn còn ở với cô ấy, nhưng anh ấy không còn là bạn tôi  nữa. Chuyện làm tôi hết sức đau lòng.
Kellin không nghe tôi nói nữa. Lần đầu tiên trong đời anh xả súng vào một  người khác và giết chết gã ta. Những tiếng đồng hồ tới đây đóng một vai trò đặc  biệt quan trọng. Khoảng thời gian đó sẽ quyết định liệu anh có chịu đựng nổi và vượt thắng được sự kiện vừa xảy ra hay không. Tôi có quen những bạn đồng  nghiệp đã nổi điên lên, họ bỏ nghề ngay lập tức và không bao giờ còn chạm tay vào bất kỳ món vũ khí nào. Tôi cũng quen cả những người khác, họ trở nên đểu  giả và điên cuồng ham xả đạn. Ở đây không có chuẩn mực, không có một lối cư xử chung có thể lường trước. Nhưng tôi chưa quen một người nào tỏ ra bình  tĩnh sau một sự kiện như vậy. Có thể sẽ rất tốt cho Mike Kellin nếu anh được  qua đêm hôm nay trong vòng tay của người đàn bà anh yêu.
Tôi đi dọc con phố Công Viên Trung Tâm, khu Tây. Phía bên phải là một  bức tường dài. Đằng sau đó hiện lên những tàn lá của công viên. Chiếc taxi với  cặp đèn pha hất cao vẫn còn bám đằng sau, Tôi né sang phải. Không kết quả.  Nó không vọt lên. Tôi đi vào làn đường giữa, và giờ thì các xe màu vàng to lù lù  đó bắt đầu chầm chậm vượt lên ngang tôi.
Điều gì đã cảnh báo cho tôi? Vào quãng tối đó có rất nhiều taxi rong ruổi  trên đường phố New York, nhiều hơn các loại xe khác. Rất có thể là cặp đèn pha được hất cao, không thích hợp với chuẩn mực chung. Rất có thể là việc tay  lái xe đã có thể vượt qua tôi từ lâu rồi. Xe taxi tại New York bao giờ cũng hối  hả bận rộn. Một tay lái taxi mà lại đi đứng chùng chình và chĩa đèn pha làm  người khác nổi điên là một kẻ bệnh hoạn hoặc là một tay lái taxi giả.
Tôi nhìn sang phải, qua mái đầu đang ngã về phía sau của Michael Kellin.  Trên nền tường công viên thẫm màu hiện lờ mờ bóng những kẻ ngồi trong chiếc  xe màu vàng. Phía sau vành lái là một tấm lưng đang cúi xuống đằng sau mảnh  kính kéo cao.
Nhưng mảng kính phía sau lại được quay thấp xuống. Tôi nhận thấy mảng  sáng mờ của một mặt người đang nhìn sang xe tôi qua độ cao cửa sổ. Ngày hôm  nay tôi không còn nhớ lại được chính xác liệu lúc đó tôi có nhìn thấy một nòng  súng hay không.
- Xuống! – Tôi gầm lên và đập mạnh tay vào vai Kellin. Giật mình, anh  bạn đồng nghiệp, người cho tới nay chỉ quen với những tội phạm cổ cồn trắng,  thả người rơi xuống khoang để chân. Đồng thời, tôi đạp mạnh tối đa xuống bàn  ga và chiếc jaguar nhảy chồm lên phía trước.
Qua khóe mắt, tôi thấy tia sáng lóe lên từ lỗ đầu nòng của một món vũ khí. Bất giác, tôi bực bội nghiến răng khi nghe thấy tiếng nổ chói gắt, viên đạn đã  xuyên thủng một mảng kính trên chiếc xe thể thao thượng hạng của tôi.
Dĩ nhiên tôi không có thời gian để đi điều tra xem gã trai chó chết trong xe  taxi đã bắn thủng mảng kính nào. Ánh đèn taxi lại nhảy nhót trên gương chiếu  hậu của tôi. Nhưng tay lái xe cũng tăng ga, và bởi vì dòng giao thông phía trước  đang tắc lại trên tất cả các làn đường, nên một cuộc chạy trốn về phía trước sẽ chẳng đưa tôi đi mấy xa. Né sang trái cũng không được vì vừa có một chiếc xe  buýt chồm tới.
Kellin bò dậy và nhìn qua mép cửa sổ.
- Cúi đầu xuống! – Tôi gắt.
Tôi giảm ga. Chiếc taxi lao tới bên mé phải. Tôi ngồi trong bẫy. Xe buýt đi  phía trái cũng hạ tốc độ, như thể tay lái xe đã vào băng đảng với lũ chó lợn ngồi  trong chiếc taxi.
- Trời ơi! nó giết bọn mình mất! – Kellin kêu lên, chẳng thèm để ý đến  mệnh lệnh của tôi và rút khẩu P38 ra khỏi bao.
Anh quả có lý. Tôi nghe thấy một tiếng rít chói tai khi tay lái taxi tạt mép xe  của nó vào mép xe tôi. Ô, khốn nạn, tôi nghĩ thầm, khi thêm một viên đạn nữa  bắn thủng mảng kính phía sau và khí lạnh ùa vào.
Tôi đạp một lần nữa xuống bàn ga, nhoai lên khoảng một mét và dứt ra khỏi  chiếc taxi.
Kellin mở cánh cửa phụ lái. Anh không thắt dây an toàn, vì thế mà giờ anh  có thể chuyển động tương đối dự do. Anh bám chặt tay phải vào phần đầu dây  an toàn được gắn chặt trong giá, thả người ngả ra phía ngoài. Tư thế đẹp như trong phim. Bàn tay trái của anh cầm súng lục.
Anh gặm ba viên đạn vào mõm chiếc taxi. Có cái gì đó nổ, đèn pha tắt ngấm,  và cái taxi tạt ngang. Khi xoay đảo đuôi của nó còn kịp hích cú cuối vào đuôi xe  thể thao của tôi. Rồi nó đứng lại. Tôi đạp xuống bàn phanh, bật còi kêu vài lần  để cảnh báo dòng giao thông phía sau. Rồi tôi tắt máy và mở cánh cửa bên phía  mình.
Với khẩu Smith & Wesson rút sẵn, tôi lao vòng quanh xe Jaguar và nhảy vọt  qua đầu mõm xe taxi.
Hai cánh cửa phía phải mở toang. Tôi nhìn thấy cả hai kẻ ngồi trong xe giờ đang ném người qua bờ tường công viên và biến mất.
Tôi nhảy lên, bám chắc vào gờ tường rồi lăn mình lên đỉnh tường, nằm dán  người trên đó và nhìn vào bóng tối. Tôi thấy ánh đèn pha. Đèn của những chiếc  xe đang đi trên con đường xuyên ngang qua công viên. Hai bên ngoài vệt đường  đó là bóng tối thẫm sâu.
Hai gã con trai trong chiếc taxi không phạm sai lầm là bắn về phía tôi mà để lộ hướng chạy chốn. Chúng tận dụng bóng tối, lủi cho nhanh. Nếu chúng khéo  léo, chúng sẽ lại thoát ra khỏi công viên ở mé Đông, trước khi các cảnh sát viên  kịp tung chó đuổi theo.
Tôi quay trở lại xe.
• •
Thanh tra Kellin đã sử dụng máy bộ đàm của tôi để báo cho các cảnh sát  viên ở khu vực số 20 và 22. Trạm cảnh sát số 22 nằm giữa Công Viên Trung Tâm, trạm số 20 nằm ở mé Tây và vì thế đang phải phụ trách đoạn tắc đường rất  dài do chúng tôi gây ra. Hai cảnh sát viên cưỡi mô tô bây giờ đang phải hướng  dòng xe đổ xuống đi sang phía khác cho đoạn tắc đường có cơ hội tan ra. Dàn nhạc còi xe của những người lái vừa qua một buổi tối trong các rạp phim, các  bar rượu, hoặc các nhà hát nghe giận dữ cùng cực.
Tôi tìm cách lờ đi như không nghe thấy. Giao máy bộ đàm cho Kellin và đi  một đôi găng tay mỏng, tôi xoay sang lục soát chiếc taxi. Gắng nén lòng không  để ý đến những vết lồi lõm trên chiếc Jaguar cùng những vết thủng trong mảng  kính.
Kellin báo số của chiếc taxi về trung tâm. Sau đó một chút anh nhận được  thông tin là chiếc xe đã được báo cáo là bị ăn cắp ra khỏi garage của một hãng  taxi bên Đại Lộ Số 8 vào khoảng giữa 8giờ 30 và 9 giờ tối. Từ đó cho tới khách  sạn Atlantis chỉ cách nhau có vài quãng phố. Tìm trong hàng ghế sau của chiếc  taxi, tôi thấy một chiếc ví và một chùm chìa khóa. Cùng chiến lợi phẩm của  mình, tôi bước đến gần ánh sáng. Trong ví có để bằng lái xe và một xấp thẻ câu lạc bộ. Bằng lái xe có dán ảnh của gã đàn ông gầy gò đã chết trong tay tôi ở quán rượu của khách sạn Atlantis.
Gã đàn ông gầy gò tên là Pat Labonte. Tập thể câu lạc bộ được trao cho kẻ đã chết một cách rộng rãi như thế là thẻ của một doanh nghiệp tự xưng là câu lạc bộ Step-in Go Go. Câu lạc bộ này nằm bên phố Canal. Tôi ghi vào đầu tất cả các dữ liệu rồi đặt ví trở lại xe. Chiếc taxi và tất cả những gì bám xung quanh nó  bây giờ nằm trong tay các bạn đồng nghiệp của ban trọng án.
Sau khoảng chừng một tiếng đồng hồ, cuối cùng chúng tôi được phép đi tiếp.  Cuộc kiếm tìm hai tên gangster định giết Kellin không mang lại kết quả. Một  chiếc xe kéo của lực lượng cảnh sát thành phố đã đến đón chiếc taxi, đưa về một  vị trí ở Midtown. Chẳng bao lâu nữa nó sẽ được các chuyên gia dấu vết xem  xét.
- Anh đã bao giờ nghe tới, - Kellin căng thẳng nhìn trân trân về phía trước,  trong khi tôi đưa con ngựa chiến Jaguar bây giờ lồi lõm và thủng lỗ chỗ của  mình đi xuyên qua Công Viên Trung Tâm.
- Tay sát thủ và tòng phạm của nó đã sử dụng chiếc taxi, - tôi nói. – Khi  chúng đã bằng một cách nào đó nhận ra rằng Labonte không giết được anh,  người mà chúng nghi là Rank, chúng nó đã thử thêm lần nữa, Mike. Cái ông  Rank chắc chắn phải là một nhân vật khá quan trọng đấy.
- Quan trọng gì đâu… Ông ấy đã tạo ra những giấy chứng nhận kiểm nghiệm  vất liệu giả mạo hoặc đã đổi mẫu vật liệu. Sau khi bị tôi hỏi cung vài lần, chắc  là ông ta đã ngưng không dám tiếp tục mó máy nữa.
- Ý tôi muốn nói mọi việc khác. Điều gì đã làm cho ông ta trở thành quan  trọng, đến mức độ chúng nó muốn giết ông ta bằng mọi giá? Ông ta có biết mặt bọn đàn ông giật dây không? Liệu bọn người đó có phải tin rằng ông ta sẽ trở thành nguy hiểm không?
- Tôi không tưởng tượng được điều đó đâu.
Chúng tôi im lặng đi dọc Phố Số 79. Khi còn cách ngã tư cắt với Đại Lộ Số Một vài bước chân, tôi dừng xe. Cho tới cách đây một năm rưỡi, văn phòng FBI  New York đã tọa lạc ở một vị trí cách đây không xa. Bức tranh của những ngôi  nhà chung cư cao 18 tầng, những bar rượu bên các góc phố cùng những chùm  đèn quảng cáo trong những cửa hiệu xinh xắn khiến lòng tôi chợt bâng khuâng.
- Cô ấy sống phía bên kia,- Kellin chỉ vào một khuôn cửa sổ của một tòa nhà  đầy những khuôn cửa sổ đang sáng đèn.
- Toàn những người thức khuya, - tôi nói. – Ta uống thêm một ngụm không?
Kellin nhìn tôi thẩn thờ. Rồi anh chầm chậm lắc đầu. Anh chỉ vào chiếc áo veston trên người tôi với những vệt ố màu nâu tởm lợm. – Ăn mặc thế này anh  chả bước vào đây được đâu. Còn tôi thì ổn rồi. Anh đừng lo! – Anh giơ tay sờ nắm đấm cửa.
- Có những ai biết về anh và cô bạn gái của anh?
- Về Cora hả? – Kellin nhún vai. – Tôi không biết, không biết thật đấy. Tôi  chẳng khoe khoang với ai cả, nếu ý anh muốn hỏi chuyện đó. Nhưng tôi cũng  không giấu giếm. Tại sao anh hỏi?
- Anh phải tính đến mọi khả năng, cho tới khi chúng ta thật sự chắc chắn là Rank quả thật đã tự treo cổ, - tôi bình tĩnh nói.
- Thế nếu không?
- Thì cả hai vụ tấn công vừa rồi là nhằm vào bản thân anh. Hãy nhớ đến điều  đó! Mai anh gọi cho tôi nhé? Dĩ nhiên là tôi muốn biết xem việc tiếp tục tiến  triển thế nào.
- Vâng, dĩ nhiên rồi. Nhưng không bắt buộc đâu, Jerry.
- Đằng nào thì tôi cũng đã dính vào vụ này rồi. Chắc phải có ai đó trả tiền  cho những vệt lồi lõm trên chiếc Jaguar này. Tôi hy vọng rằng bộ phận của anh  có một quỹ cho những trường hợp như thế.
- Tôi sẽ quan tâm đến chuyện đó, - Kellin nói thật nhanh.
- Tôi không hề muốn ép anh đâu, - tôi xoa dịu.
- Tôi sẽ nói cho anh rõ khi có kết quả. Được chứ?
- Được mà, - tôi mỉm cười đáp lời. Mike đẩy cánh cửa ở phía bên anh ra. –  Cho tôi gửi lời hỏi thăm cô ấy!
- Tôi sẽ nói. Anh phải làm quen với cô ấy mới được kia, Jerry. Tôi sẽ vui lắm.
- Để chờ xem sao, - tôi né tránh.