(phần 1)

Ngôi làng nằm chênh vênh giữa một khoảng đất lớn, nó không hẳn là cao nguyên, không hẳn là đồng bằng. Nhìn từ xa, ngôi làng trông giống cây nấm độc sần sùi, màu mè và to ụ nằm nghiêng nghiêng trên mảnh đất cong veo. Vì địa thế kỳ quặc mà ngôi làng cũng trải qua nhiều phen thay đổi lớn.
Mới đầu, họ chỉ là một túm năm người đến đây, nhưng chỉ sau hai năm, tám đứa trẻ ra đời, nâng dân số lên thành mười ba người. Con số tăng nhanh cũng không lấy làm ngạc nhiên, vì khi ấy, Bố trong một đêm mưa gió quyết định giao phối với bốn người phụ nữ còn lại. Năm đầu họ đẻ ra bốn đứa nhóc. Năm thứ hai thêm bốn đứa nữa, chưa kể một trong số bốn người phụ nữ phải mang bầu đôi hai đứa, nhưng khi chị rặn ra thì chúng chỉ là hai nắm đất nâu, bé tẹo nằm trong bàn tay. Mọi người hãi quá bèn vùi hai nắm cát vào bếp lửa, chúng cháy xèo nhanh chóng và tỏa ra mùi giun đất nồng nặc. Nhưng hai tuần sau, tại chiếc giường đơn sơ làm bằng củi ghép lại, người phụ nữ ấy ngủ một giấc say chưa từng có, rồi chị mơ thấy ngôi làng trống không, chị vừa đi vừa khóc vì bụng đói cồn cào, thế rồi chị bốc cát mà ăn, ăn cho đến bụng no kềnh ra thì chị bắt đầu thấy đau bụng đi tiêu, nhịn thế nào cũng không được nên chị đành ngồi thụp sau gốc cây và rặn. Lúc ấy trời gần sáng và mọi người kinh hãi khi nghe tiếng trẻ con khóc từ chỗ chị nằm. Mọi người chạy đến thì thấy một đứa bé nằm ngo ngoe giữa lòng người mẹ.
Nhưng rồi vụ sinh nở bất thường này cũng nhanh chóng trôi qua vì mọi người phải quyết định nên sống ở phần cao hay phần thấp của miếng đất. Phần thấp thì có vẻ rộng rãi nhưng ngược lại đất đai không được màu mỡ lắm, vả lại họ cũng sợ lụt lội đến chẳng biết nấp vào đâu. Họ muốn dời lên phần cao nhưng trên ấy lại có một đặc điểm là không hiểu tại sao gió khắp nơi tụ về, bay phần phật, chạy theo từng luồng, từng ống hoặc đôi khi giãn ra như cái lưới đánh cá, quăng ập từ trên mái đầu xuống. Nghĩa là, gió có mặt khắp nơi và không một vật gì nằm yên được với nó. Nhưng không vì thế mà vạn vật lại chịu thua cơn gió này, cây cối và các loại rau ăn được lại thi nhau mọc liên tiếp và phát triển hơn cả các loại cây phía vùng đất thấp. Thế là Bố quyết định chọn phần đất cao nhưng với điều kiện là phải xây một bức tường dài, kiên cố để chặn cơn gió. Ông và bốn người phụ nữ bỏ công sức để xây lên bức tường này. Họ xây theo kiểu đoán hướng gió, nó chạy đến đâu thì họ dựng tường chụp nó đến đấy. Nhưng gió ở đây thật chướng, thổi bốn bề và di chuyển theo muôn hình vạn trạng. Cuối cùng, bức tường dựng lên với lối kiến trúc thật kì lạ: hình dạng một con nhái khuỳnh chân ngồi ôm ngôi làng.
Mỗi tối, tôi thường ngồi một mình tại cái cây có chạc ba duy nhất trong làng. Mọi cây cối ở đây đều thẳng đuột mọc từ rễ hướng lên trời, xum xuê lá hoặc quả, nhưng tuyệt nhiên chúng tôi không biết được tên chúng là gì, từ đâu tới. Bố nói đó là dấu tích do những cơn gió khi xưa để lại, nó xoáy lung tung mọi nơi và khiến những cái cây không thể mọc cành được nữa, nhưng trông chúng vẫn xanh tốt và ra lá đều. Tôi luôn thắc mắc tại sao khi có bức tường rồi mà cây vẫn không chịu thay đổi hình dáng. Trong làng chỉ duy nhất có cái cây này, đột ngột tẻ thêm một nhánh, không ai dám trèo lên ngoài tôi. Ngồi ở đây thật thú, có thể nhìn qua bức tường để thấy cảnh vật xung quanh. Nhưng bên ngoài là một thế giới dễ sợ thuộc về gió, nơi đó bọn chúng lồng lộn và dữ tợn, quắc mắt ngó vào những cái bọc chúng tôi máng trên thành tường.
Trong làng, tôi là người lì đòn nhất, có lẽ tôi đã đi theo Bố và làm tất cả những gì ông sai bảo. Mấy năm đầu xây bức tường, tôi thường bị cảm nặng vì gió táp vào mặt, vào bụng, làm người tôi luôn tái mét, khuôn mặt như không có máu, bụng lép và chân tay trơn nhẵn, trụi lủi không mọc được lông lá. Tôi còn hay chui vào những hóc kiến lửa, đào lỗ để chôn tập thể chúng. Tôi đập bể vỏ chai và dùng cạnh sắc bén của thủy tinh để cứa đứt đầu bọn kiến cỏ. Tôi thường chơi trong im lặng và hoàn toàn cô lập với thế giới bên ngoài. Có thời gian, vào mùa hè tôi ham theo đuổi và bắt những luồng gió nóng mà người cứ nổi rộ vết đỏ, khiến tôi luôn khó chịu trong người, đi tiểu nước bốc khói như nước sôi, chân tay vàng úa. Trong một đêm tôi nhai nát tất cả vườn củ cải trong làng và đọt cải xanh, người mới dễ chịu đi và dân làng tận tình đem những hòn đá lạnh từ con suối gần đấy đắp lên người để chữa cơn nóng cho tôi. Mùa hè khó chịu là vậy, nhưng rồi cũng qua với sự ảnh huởng thông qua thái độ điềm đạm, im lặng của Bố. Ông muốn tôi chuẩn bị sẵn sàng sinh một em bé cho năm tới, tôi phải ăn thật nhiều và không thể tham gia những trận bắt gió nữa.
Một năm đó, lần đầu tiên ngồi thảnh thơi, kìm nén và quan trọng nhất là tập trung cho sự nhìn.
Buổi sáng, trời thâm lại như màu thép sắc trên lưỡi dao bén. Tôi mơ hồ cảm giác hàng ngày là những buổi sáng kéo dài và dính liền nhau bằng bầu trời không có vảy. Ngôi làng chợt nhỏ tí và hầu như vắng người, có lẽ họ không muốn thò mặt ra ngoài nữa cũng nên. Đôi lúc tôi thấy mọi vật thật lớn, phổng phao, trong suốt và ngọt như hạt nước nở to. Nhưng có lúc chính những sự vật tôi vừa thấy vĩ đại thì bỗng nhiên nhỏ xuống, thu dần và lặn tăm trong lòng đất. Người trong làng lác đác, thưa dần. Bố ngồi trên cục gạch, cầm que cời lửa giết từng con mối. Vài thằng bé ngoài sân cũng ngồi im như tượng gỗ, chúng nhìn nhau nhưng không nói chuyện, môi chúng nẻ ra vì khát nước nhưng không buồn uống. Mà tôi cũng không nhớ chúng có khả năng nói hay không nữa. Đứa nào từng là con tôi, cũng không biết. Trong làng không một tiếng động nào ngoài những bọc vải trắng đang xụi lơ, vải cọ vào nhau kêu loạt xoạt và sắp sửa được tháo xuống. Con bò, con bê, ngỗng và chuột nhắt, cũng đơ ra như tảng đất sét. Tôi quyết định mời Bố đến để thụ thai cho tôi.
Phải nhắc lại mấy tiếng, ông mới ừ hử. Tôi cần một đứa con mới cho mùa sau. Ông chầm chậm đi theo con đường mòn dẫn đến chỗ tôi ở. Căn nhà nhỏ nhìn ra cái cây chạc ba duy nhất trong làng, chắc cũng vì vậy mà ông cũng quyết định chấm dứt bức tường ở đây. Chỗ của tôi vừa là nơi gió quẫy mạnh nhất, mà cũng là nơi nó kết thúc với cái bao lép kẹp, xì hơi thối.
Tôi biết trước sẽ đợi ông từ khi thấy trời có màu như thế này. Nhưng khi thấy dáng ông đi tới, tôi lại ngỡ ông là một đợt gió khác vừa thổi về, tôi vội lấy tấm chăn và úp lên đầu, chỉ chừa ra một lỗ nhỏ để đánh hơi. Không biết có phải vì trời hôm nay đổi khác hay vì tôi mệt trong người mà nhìn ông với hình dáng là ngọn gió. Ông di chuyển từ từ và dừng trước cổng nhà. Bỗng nhiên tôi nhận thấy đằng sau lưng ông từng đợt gió nổi lên và oằn xuống, như chực chờ ông cúi đầu là nó có thể phóng tới táp vào mặt tôi. Nó cố đẩy ông ngã để chồm tới nhìn rõ khuôn mặt vàng như mướp bủng của tôi. Bố cúi xuống nhìn, huơ huơ tay và muốn kéo tôi lên giường. Khi ngón tay ông chạm tới tấm chăn cũng chính là lúc tôi thấy ông hiện nguyên hình là ngọn gió lớn, nồng nặc mùi cải chua và đất ẩm. Ông phồng mang trợn má và cố nuốt tôi vào bụng. Bằng bản năng duy nhất tôi xô ông ngã, vùng tháo chạy, không quên vơ theo một bao tải dày và trong lúc đợi ông chạy ra khỏi nhà thì tôi đã nhanh chóng bắt được ông, cho vào bao tải và cột dây thật kĩ.
Chưa bao giờ tôi thấy gió lại có tiếng thét ghê rợn và dữ tợn đến thế, nó vùng vẫy và hắt hơi thật lớn, những ngón tay của nó như muốn cào rách bọc vải. Tôi thấy lờ mờ gương mặt của nó lồi lõm sau lớp vải, miệng nó ngoác ra và chực đớp vào tay tôi, đầu gối nó thúc mạnh hòng bứt tung miệng bọc. Tôi nhanh chóng cầm cái cối giã gạo và giáng thẳng vào cái mũi đang lồi lên của nó. Gió ho lên từng tràng và hộc ra máu tươi. À thì ra mày cũng có máu, thảo nào tôi luôn ngửi được mùi tanh mỗi khi mở bọc vải, khi ấy tôi luôn tưởng tượng hẳn nó đã ăn thịt nhiều người sống lân cận đây và biến xương thịt của họ thành khối không khí, nó ăn thịt người càng nhiều, hơi lạnh càng tỏa và càng thổi dữ tợn hơn bao giờ hết. Giờ thì ngọn gió trong bọc cũng chịu nằm yên và xụ ra một đống trong bao tải. Tôi vác nó trên lưng, tìm cây cột chắc nhất để máng nó lên.
Mùa hè năm ấy dân làng thấy tôi treo một bọc gió to và nặng nề, đầy máu tanh tưởi, hầu như không đung đưa nổi trên cọc. Khoảng một thời gian dài sau đó, trong một lần nằm mơ tôi mới biết mình đã ra tay giết Bố, con đực già nhất làng, người có công duy trì nòi giống và tạo ra lương thực cho chúng tôi. Ngủ dậy sau giấc mơ đó, tôi ra cây cọc treo xác Bố, tháo xuống và mở ra, bên trong cái xác đã dẹp lại, khô như tờ giấy và tôi hoàn toàn không nhận ra hình dáng của ông.
Giờ thì tôi thấy ông chỉ là cái bóng lẩn khuất, khi thì ngồi trầm ngâm bên đống lửa, khi thì đi qua lại nhẹ nhàng. Tôi thấy ông dường như vui hơn lúc trước mặc dù ông chỉ là cái bóng không gương mặt và dẹt lét như cọng cỏ cháy. Ông vẫn cầm que cời lửa, thỉnh thoảng ngước lên xem tôi đang làm gì. Cái nhìn của ông vừa xa lạ, vừa thân thiện khiến tôi nhớ lại lần đầu tiên chúng tôi gặp nhau.