Đôi lời giới thiệu Truyện ngắn Thầy Lazaro Phiền của Nguyễn Trọng Quản đã được xuất bản lần đầu tiên năm 1887. Truyện ngắn này có thể là truyện ngắn viết theo lối Tây phương sớm hơn cả, và chắc chắn sớm hơn truyện Tố Tâm cuả Hoàng Ngọc Phách (1924). Tác giả truyện này là Nguyễn Trọng Quản. Ông là nhà giáo và viết báo tại sài Gòn vào những năm cuối thế kỷ XIX. Sự nhìn nhận bắt đầu từ miền Nam, ra miền Bắc –qua sự xác nhận chính thức cuả nhà xuất bản Giáo Dục Hà Nội (1995) trong Từ Điển Văn Học Việt Nam cuả Lại Nguyên Ân, Bùi Văn Trọng Cường (trang 313-314). Sự kiện này có lẽ đã góp phần tạo ra phong trào tái bản mảng văn học mà tôi gọi là bi “bỏ quên, bỏ qua” này ở Miền Nam trước đây. Xin mời Quý Bạn đọc Thầy Lazaro Phiền Ai xuống Bà-rịa, mà có đi ngang qua đất thánh ở trong Cát tại làng Phước-lễ, thì tôi xin bước vô đất thánh ấy, kiếm cái mồ có cây thánh giá bằng ván, sơn nửa đen nửa trắng, gắn một bên nhà thờ những kẻ Tử-đạo ([1]) mà thăm mồ ấy kẻo tội nghiệp! Vì đã hai năm nay không ai thăm viếng không ai màng ngó tới. Mồ đó là mồ một thầy đã chịu lương tâm mình cắn rứt đã mười năm, bây giờ mới đặng nằm yên nơi ấy. Tôi xin phép thuật lại truyện tôi đã gặp thầy ấy và làm sao thầy ấy đã tỏ chuyện mình ra cùng tôi, như sau nầy: I. Đồng hồ nhà thờ nhà nước vừa đánh tám giờ tối, đồ tôi đã đem xuống tàu mà đi Bà-rịa rồi. Nói vừa dứt lời, thì đồng hồ vừa đánh mười giờ, nên tàu thổi hơi cùng mở đổi mà chạy, làm cho tôi quên thầy tu mà coi người ta sửa soạn lui tàu. II. Nói rồi thì thầy ấy nhắm mắt lại, cho đặng nhớ mọi sự trước sau cho đủ hầu sẽ thuật truyện lại cho cùng. III. “ Thầy ôi! Tôi là người Bà-rịa, quê quán tôi ở tại Đất-đỏ. Ông già tôi là người có đạo dòng tử tế, vốn là người Quảng-bình, mà vô ở Đất-đỏ đã lâu; còn bà già tôi là người Gia-định. Tôi sanh ra là năm 1847 nhằm năm Tự-đức tức vị. Tôi thấy thầy ấy gác tay trên trán cùng nhắm mắt lại dường như muốn đọc truyện mình ở trong trí khôn, như một người kia đọc trong một cuốn sách đang khi rồi sẽ thuật truyện lại, cho nên tôi làm thinh. IV. Vậy tôi mới nghĩ rằng: người này từ thuở nên ba mà đã biết sự cực khổ ra thể nào, đã biết chịu đói chịu khát, chịu mệt chịu nhọc, chịu trốn lánh vào nơi thú dữ, cọp hùm tây voi ở, đã từng trải sự hiểm nghèo, đã quên sự sung sướng, nên bây giờ lòng đã cứng hơn gan sắt chẳng còn chỗ nào mà sự cực nhọc thấu vào đặng, mà đã than rằng: “ Song sự cực tôi đã chịu cho đến mười hai tuổi thì tính lại không bằng sự tôi sẽ chịu khi Tây qua. Thuở ấy là năm 1860 tôi được mười ba tuổi thì tôi nghe nói xôn xao rằng: “Tỉnh Gia-định đã bị Tây lấy rồi hơn hai ba tháng nay; chừng ít ngày nữa thì Tây cũng sẽ qua đánh lấy Biên-hoà cùng Bà-rịa. Kẻ ngoại khi nghe đều ấy thì lo sợ, còn kẻ có đạo thì mầng rở, vì người ta đoán rằng: “Tây qua sẽ binh vực những người có đạo Datô mà giết những người chẳng giữ đạo ấy.” “ Hẳn thật như vậy, vì năm sau thì nghe Tây đã đánh lấy Biên-hoà rồi, còn kẻ có đạo thì đã bị quan Annam đốt hết, khi ấy ai nấy đều kinh khủng, người thì sợ Tây qua giết, người thì sợ quan Annam đốt trước khi Tây qua. Mà cũng không khỏi vì cách ít tháng (khi ấy tôi đã nên mười lăm tuổi) thì có lịnh truyền dạy bắt những con nhà có đạo cầm tù lại hết; cùng khắc bốn chữ nầy, “Biên-hoà Tả-đạo” trên hai mép tai, hầu sau có trốn mà bắt cho dể. Đến đây thầy ấy vổ trán cùng nói rằng: “Đây nầy! Tôi thấy rỏ các sự ấy như thể mới có hôm qua vậy; nó còn rỏ ràng trong trí tôi đây.” Nói những lời ấy rồi thầy ấy thở ra một tiếng cùng giấu mặt trong tay mình. V. “ Vậy khi tôi thấy tôi còn một mình bơ vơ giữa đàng không cha không mẹ không bà con cô bác. Không ai đoái thương thì tôi quyết lên trên núi liều mình cho thú dữ ăn đi cho rồi. Tôi phăn phăn đi đặng vài dặm đàng như vậy cho đến khi chơn tôi bị cháy nó phồng lên mà làm cho tôi đau đớn lắm; đi không nổi nữa, thì tôi mới ngồi lại bên đàng mà khóc, khi ấy mặt trời đã lặng rồi, lại tôi phần thì đau phần thì mệt và đói nên tôi té ngửa trong bụi kia cùng bất tỉnh nhơn sự. Tôi chẳng biết tôi nằm đó là bao lâu, vì khi tôi tỉnh trí lại mở con mắt ra thì tôi thấy tôi ở nơi nhà thương lính, nằm một bên người lính bị thương tích kia, còn dưới chơn tôi thì có một ông thầy thuốc đang giặc thuốc nơi chơn tôi bị phỏng. Tôi ở nhà thương hơn bốn mươi ngày; không cục cựa đặng vì hai chơn tôi bị bó lại, cho nên đi đâu không được, mà trong bốn mươi ngày ấy thì có một ông quan ba kia cách vài ba bữa thì lại đến thăm tôi một lần. Đến khi hai chơn tôi lành, thì ông quan ba đã đến thăm tôi khi tôi đau, cho người kêu tôi lên và biểu người thông ngôn hỏi tôi rằng: “Mầy còn cha mẹ bà con tại Bà-rịa không?” “ Tôi thưa rằng: “Tôi không còn ai hết, cha tôi đã chết trong ngục rồi, còn mẹ tôi đã chết khi tôi còn nhỏ.” Thì ông biểu thông ngôn nói cùng tôi rằng: “Tao đã gặp mầy nằm trong bụi gần chết, tao coi thấy mặt mầy sáng sủa thì tao thương, muốn đem mầy về nuôi cho mầy lành; nay tao tưởng mầy còn cha mẹ thì tao cho mầụy về, mà mầy nói mầy không có ai thì tao đem về Gia-định với tao. Mầy chịu đi chăng?” “Tôi mới thưa rằng: “Ông đã cứu tôi cho khỏi chết, bây giờ ông thương tôi muốn đem tôi về Gia-định mà tôi không đi thì tôi sẽ bạc ngải và dại dột là dường nào.” “ Ba bữa sau tôi xuống tàu mà về Gia-định đặng sáu tháng, kế lấy ông quan ba mắc bệnh phải về Tây, thì để tôi lại cho Đức cha Lefèbvre. “ Tôi ở giúp đức cha được một năm rưởi cùng học chữ quốc ngữ cho đến năm 1864 thì đức cha cho tôi vô trường Latinh. “ Khi tôi mới vô nhà trường thì tôi kết nghĩa làm anh em vuối một người tên là Verô Liểu, cũng vô trường một lượt cùng tôi. Người ấy là con ông trùm họ Cầu-kho mà bởi nhỏ hơn tôi hai tuổi, thì nhường cho tôi làm anh; hai anh em thương nhau như anh em ruột vậy; chẳng khi nào mà rời nhau, dầu trong nơi học, nơi ngủ, nơi ăn, thì cũng gần nhau luôn; khi đến ngày bải trường tôi muốn ở lại trường; song thầy Liểu một hai không cho, một bắt phải đi về nhà cùng thầy mà thôi. “ Lại cha mẹ thầy Liểu, thấy tôi kết nghĩa với con mình thì lại đem lòng thương tôi như thương con ruột mình, cho nên trong hai năm tôi học nhà trường Latinh, thì tôi chẳng thiếu sự gì, lại đặng vui lòng lắm vì chưng bây giờ tôi thương cha mẹ thầy Liểu và coi hai ông bà ấy như cha mẹ ruột tôi vậy. “ Học đặng hai năm đến 1866, khi có thầy dòng qua lập trường d’Adran, thì hai anh em xin qua đó mà học. Học đó thì hai anh em cũng còn thiết nghĩa với nhau như cũ, lại tôi cũng năng về nhà cha mẹ thầy ấy như thường. Đến năm 1870 là năm có giặt người Allemanha và người Phalangsa đánh cùng nhau thì hai anh em tôi ra đi thi tại Saigon. May đâu hai anh em thi đậu một lượt và lại được sai đi làm việc một nơi tại dinh quan Thượng-thơ cho nên tôi lại còn nương ngụ nơi nhà cha mẹ thầy Liểu nữa. “ Tôi ra làm thông ngôn đặng sáu tháng, khi cha mẹ thầy Liểu thấy tôi ở nơi nhà ấy mà có lòng ngại chưa đặng thong thả, thì lại muốn giúp mà lo đôi bạn cho tôi, để tôi lập cơ nghiệp đặng ra ở riêng cho thong thả. “ Ôi! Thầy ôi! Phải mà tôi biết người thiết nghĩa ấy sẽ phá sự phước tôi, thì tôi sẽ xa lánh người ấy là thể nào? Ấy thầy xem đó mà coi, thì thầy biết lòng người ta giả trá là thể nào? Nó đang còn thiết nghĩa với mình hết sức, mà nó kiếm sự làm cho mình phải khốn không hay. “ Phải chi tôi chết cùng cha tôi trong ngục thì tôi sẽ khỏi chịu cực cho đến bây giờ! Ôi! Trong ba mươi lăm năm, tôi đặng hưởng phước không đầy năm năm, còn mấy năm kia thì những chịu cực chịu khổ mà thôi.” VI “ Thuở tôi còn ở nhà trường d’Adran thì cha mẹ thầy Liểu thường đến mà thăm viếng hai anh em tôi, nhiều khi đi thăm thì bà già thầy Liểu hay đem một người con gái chừng mười bảy tuổi đi lên theo. Người ấy không lịch sự thiệt, song coi phải thể người mà thôi: tiếng nói dịu dàng, mặt mủi cách điệu, tính nết ăn ở thì dể làm cho người ta thương lắm. Người ấy là con bà dì thầy Liểu. “ Ban đầu khi người đi đến thì tôi cũng tưởng là như bà con; mà cách ít tháng thì tôi lại đem lòng thương, cùng hằng tưởng đến người ấy luôn. Tôi đã thương người ấy như vậy là một năm chẳng, cho đến khi thi đậu mà ra khỏi trường. “ Song dầu mà tôi thương người ấy mặc lòng, tôi cũng chẳng tỏ sự ấy ra cho thầy Liểu là anh em thiết nghĩa với tôi hay. “ Vậy ngày kia nhằm ngày chúa nhựt khi xem lể về, ông già thầy Liểu rủ tôi ra vườn đi dạo chơi. Khi đến một đống đá thì ổng nói cùng tôi rằng: “Ta ngồi đây nghỉ một chặp và nói chuyện hử Mi Lazare!” “ Khi nghe ổng mời tôi ngồi, thì trong lòng tôi bắt hồ nghi có sự gì cả thể, cho nên mới kêu tôi ra ngoài vườn một mình, vậy tôi mới ngồi mà làm thinh. Ông già thầy Liểu cũng làm thinh một chặp rồi nắm tay tôi mà nói rằng: “Thầy! Thầy biết xưa nay tôi thương thầy như con ruột tôi vậy, cho nên khi nào bải trường có con tôi về mà không có thầy thì tôi cũng trông nhớ thầy lắm.” “ Còn thầy thì tôi cũng biết thầy thương hai vợ chồng già tôi như cha mẹ thầy, cho nên hai vợ chồng tôi cũng mầng, và lại tôi thấy thằng Liểu nó yêu mến thầy thì tôi càng mầng hơn nữa, vì nó đặng bắt chước cách ăn ở thầy mà sửa mình lại và nó khỏi theo những đứa hoang đàng mà hư đi.” “ Tôi nghe nói như vậy thì tôi làm thinh cúi đầu xuống mà nghe cho cùng, thì ông già thầy Liểu nói rằng: “ Thầy nay đã lớn tuổi rồi, cho nên bữa nay tôi muốn nói mà hỏi thầy có ưng nơi nào thì nói ra, cho tôi liệu cho thầy.” “ Xin thầy đừng ngại mà từ chối làm chi. Nếu thầy từ chối thì sẽ làm cho vợ chồng tôi buồn bực lắm, tôi không có giàu có muôn hộ chi, song tôi cũng có đủ mà lo cho thầy cách tử tế vì thầy là như con tôi. Còn khi thầy có đôi bạn rồi, mà muốn ra tư riêng thì tôi cũng sẽ lo cho thầy đặng đủ mọi sự, mà lập cơ nghiệp riêng.” “Vậy tôi xin thầy tỏ thật lòng thầy đã ưng nơi nào cho tôi biết?” “ Tôi trả lời rằng: “Bỏ và vú thấy tôi mồ côi, mà đem tôi về nuôi như con ruột, mà tôi chưa đền ơn ấy được nay bỏ vú lại muốn lo đôi bạn cho tôi nữa, thì tôi khi nào trả nghỉa cho vú bỏ cho xong ơn ấy kể sao cho xiết?” “ Lại tôi xưa rày chưa tưởng đến sự vợ chồng, cho nên chưa chọn nơi nào cho xong. Ông già mới nói rằng: “Ơn ngải chi đâu mà đền, Mi Lazare! Thầy là con, ta là cha, thầy nói ngay ra thì ta sẽ lo cho. Vậy nếu Mi Lazare không biết nơi nào, thôi để ta chỉ cho.” “Vậy thầy có biết ở trong làng ta có người con gái nào chừng mười tám tuổi, thường đến thăm ta đây không?” “Khi tôi nghe hỏi như vậy thì tôi dấu mặt lại cho nên ông trùm mới cười mà nói rằng: “Bộ đây! Mi Lazare cũng biết nàng ấy thì phải! Cho nên mới dấu mặt lại như vậy.” “ Khi tôi thấy ông già thầy Liểu hiểu biết ý tôi đã có lòng thương người ấy, thì tôi quyết lòng nói thật ra rằng: “Thưa với bỏ, xưa nay tôi không tỏ lòng tôi ra cùng ai, mà nay bỏ đã dò lòng tôi mà biết rõ sự ấy, thì tôi xin thú thật. Tôi đã có lòng thương cô ấy hơn một năm rưởi nay, mà bởi tôi tưởng tôi là đứa mồ côi không xứng đáng nơi ấy, nên tôi để trong lòng không dám tỏ ra cùng ai.” Ông già nghe đặng mới cười lớn lên mà rằng: “Hã! Hã! không hề gì đâu Mi Lazare! Không hề gì! Các con trẻ tưởng ông già không biết chi! Hã! Hã! Già biết rỏ hết. Để già hỏi đây, thì con cháu sẽ ừ liền không khỏi đâu.” “ Mà thật tháng sau người con gái bà dì thầy Liểu và tôi đến bàn thờ mà chịu phép hôn phối. “ Thầy ôi! Nói sự phước hai đứa tôi thì không cùng, tôi tưởng có ít người mà thương vợ như tôi. Dầu mà vợ chồng đã về cùng nhau rồi, song lòng tôi còn thương tưởng như trước. “ Lại bạn tôi gặp tôi thì cũng lấy làm có phước lắm, vì cũng có lòng thương tôi như tôi đã thương vậy, cho nên không khi nào, dẫu có phiền lòng thể nào, thì cũng không nói lời gì ra, làm cho tôi nhớ phận tôi là con mồ côi cô độc. Khi ấy sự phước tôi là vô cùng. “ Tôi với bạn tôi về ở nhà thầy Liểu đặng sáu tháng, kế lấy có tờ quan sai tôi đi làm thông ngôn tại Bà-rịa.” Tới đây thầy tu nghe đồng hồ đánh ba giờ khuya thì thầy ấy la hoảng lên rằng:”Đó! Đó! thầy! nó nằm đó…! gần chết…! nó nắm tay tôi đây…!” Rồi nói nhỏ rằng: “Ôi! Tôi là kẻ có tội; tôi là kẻ có tội!” Nói dứt lời, thì nhắm mắt lại mà nghỉ. Nghỉ một hồi, thức dậy nói rằng: “Bây giờ mới đến sự cực tôi đây thầy! Tôi về Bà-rịa đặng hai tháng rồi, mà bởi tôi có làm quen với các quan trong đồn cho nên thường đi ăn cơm với các quan ấy. Vậy trong các quan thì có ông quan ba kia có một con vợ annam. “Mà con ấy khi thấy tôi thì làm nhiều cách thể, muốn như xui giục tôi phạm tội cùng nó, cho nên tôi trốn lánh cho khỏi dịp làm thiệt hại cho vợ mình, vậy lần lần tôi bớt vô đồn ăn cơm với các quan nữa cho nên tôi đã khuất mặt người đờn bà ấy đi. “Qua năm 1872, thầy Liểu thôi làm việc đã bốn tháng nay, xuống tại Bà-rịa mà mua ngựa đam về Saigon. “Thầy ấy tới nơi thì anh em rước nhau mầng rở bội phần, vì cách mặt đã hơn tám tháng trường, cho nên gặp đặng thì truyện vãn cùng nhau luôn.” Tới đây thầy tu nắm tay tôi mà nói rằng: “Thầy hảy ghé tai lại đây mà nghe cho rỏ. Đây là đến hai tội tôi, tới đây là tới đầu sự khốn cực tôi. – Tôi mệt lắm, xin cho tôi nghỉ một chút cùng nhớ các sự cho rỏ hơn.“ VII Thầy ấy mở con mắt ra mà nói rằng: “Xin thầy chịu khó mở rương tôi ra mà lấy cái thơ tôi để trong ấy mà đọc, rồi tôi sẽ nói tiếp theo cho thầy nghe.” Tôi lại mở rương ra thì thấy có một cái thơ; tôi đem cái thơ ấy kề bên đèn mà đọc rằng: Bà-rịa, ngày 14 tháng tám năm Tân mùi. “Kính thăm thầy đặng rỏ: người viết thơ nầy là một người xưa nay những tưởng tới thầy luôn. Dầu mà tôi biết nói thiệt sự nầy ra thì đau đớn lòng thầy lắm. Song là sự chán chường trước con mắt mà nính đi thì sao đặng? “Xưa nay ai nấy đều khen bạn thầy là người nhơn đức, hiền lành trung hiếu cùng chồng lắm, chẳng ai ngờ sự rất quái gở! Tôi không biết làm sao mà người bộ bề ngoài nhơn đức như vậy, mà có lòng ngoại tình được. Lại sự rất gớm ghiết hơn, là người ấy đã chọn bà con mình và bạn hữu thiết nghĩa của chồng mình mà phạm tội ấy. “Tôi biết rằng, khi thầy được thơ nầy thì thầy sẽ nói tôi là một đứa nói gian; song tôi có đủ tang án mà làm cho thầy tin tôi. “Vậy xin thầy kiếm trong tủ để áo của bạn thầy, thì thầy sẽ thấy hai cái thơ của thầy Liểu gởi cho bạn thầy thì thầy sẽ biết tôi có nói sai chăng? “Bấy nhiêu xin thầy nhậm lời cùng miển chấp.” Khi tôi đọc thơ rồi thì thầy tu ấy nói rằng: “Thầy ôi! Ngày kia đang khi vợ chồng bạn hữu bà con vui vẻ sum vầy cùng nhau thì sự dữ ấy đến nhà tôi, vì ngày ấy tôi đặng cái thơ nầy đây. “Ôi! Thầy ôi! Nói sự đau đớn lòng tôi đã chịu khi được thơ ấy thì không nổi. Tôi xin thầy đừng khi nào biết sự đau đớn ấy thì hơn. “Nhưng vậy dầu cực thể nào tôi cũng làm như không có sự gì vậy. Song thật trong lòng tôi quyết kiếm thế nào mà báo cừu hai người đã phá sự phước tôi như vậy. “Ôi! Thầy ôi! Người ta nói rằng: “Chẳng có sự dữ nào mà nó đến một mình đâu, một sự dữ thì nó kéo một bầy sự dữ khác theo. VIII “Tôi đặng thơ đã hơn một tuần lễ, kế thầy Liểu mua đặng ngựa thì chở về Saigon. Thầy Liểu lui ghe đặng một ngày thì có tin báo rằng: “Ăn cướp đã chận đàng Saigon mà đánh ghe buôn nhiều lắm.“ “ Khi quan tham biện nghe báo như vậy thì kêu tôi mà hỏi rằng: “Thầy dám lảnh mười tên lính đi bắt ăn cướp chăng?” “Tôi suy một hồi rồi thưa lại rằng: “Xin quan lớn cho tôi quân lính và thuốc đạn cụ túc, cho được chống trả phi đảng thì tôi dám đi.” “Vậy quan tham biện liền cho tôi đủ quờn phép khí giái quân lính cùng dạy tôi phải lo xuất hành cho kíp.” “Khi tôi đặng phép thì trong lòng tôi bồi hồi run sợ, nữa vui nữa buồn, vì tôi có ý xin đặng đủ quờn phép mà làm một sự quái gở kia, cho bằng lòng tôi mới thôi. “Sửa soạn rồi, tới ngày ấy tôi đem mười ba tên lính xuống ghe mà đi. Tôi đi đặng vài con nước thì bỏ Tắc-mọi đã xa. “Vậy ngày sau chừng sáu giờ chiều, tôi thấy phía bên kia sông, đậu gần bên bờ, một chiếc ghe giống như ghe thầy Liểu vậy. Khi coi đi coi lại, rỏ là ghe thầy ấy, thì tôi dạy đậu ghe lại ăn cơm, soạn sửa khí giái, vì tối nay nước lớn thì sẽ có ăn cướp mà bắn. “Phải mà thầy thấy mặt tôi khi ấy thì thầy sẽ kinh khủng chẳng sai.” Là vì tôi khi đó như bị quỉ ám vậy. Một ít nữa thì tôi sẽ giết một người kia vô tội, mà bây giờ tôi còn gượng mà cười đặng, thì mặt mủi tôi hóa ra gớm ghiết lắm. “Vậy khi ăn cơm nước nghỉ ngơi rồi, thì vừa tới nửa canh ba, nước mới lớn, tôi liền dạy dưới ghe tắt đèn hết, cho ăn cướp không thấy mà đi qua. “Súng ống vừa sẳn sàng, thì vừa ghe thầy Liểu đi giữa dòng sông, ngang ghe tôi; tôi liền dạy tên cai đứng nơi lái mà kêu ghé. “ Song người cai mới kêu rằng: “Ghe đi kia ghé!” thì tôi nghe một viên đạn đi vo vo bên tai tôi, cùng một tiếng súng nổ nơi ghe thầy Liểu. “Tôi thấy viên đạn gần trúng tôi thì tôi giận quá sức cho nên sự tôi hềm thù thầy Liểu lại càng thêm nữa. Tôi liền la rằng: “Cha! Chả! Nó cự bây! Bắn! “Tức thì mười mủi súng giay qua ghe thầy Liểu mà phát một lượt; vừa khi ấy tôi nghe một tiếng rằng: “Cha ôi! Chết tôi!” Tôi nghe tiếng ấy thì tôi biết là tiếng thầy Liểu thì sự giận và sự hềm thù tôi như thể biến đi đâu mất vậy, cho nên tôi sợ hải và trách mình tôi lắm. Vậy tôi dạy chèo ghe lại có ý coi có phương thế nào mà cứu thầy ấy chăng. “Song vừa lại đến nơi thì thầy Liểu đã tắc hơi rồi. Nên tôi buồn bực trách móc tôi, cùng khóc lóc lắm, mà tôi khóc tội tôi mà thôi, chớ còn thầy Liểu thì tôi không thương tiếc chúc nào. “Hỏi cớ sự rồi tôi dạy lính đem ghe vô bờ mà nghĩ cho đặng đến sáng về mà báo quan. “Về đến nơi thì tôi đến trình quan tham biện rằng: “Ngày kia hồi canh ba có một chiếc ghe đi ngang qua chỗ tôi đậu mà đón bắt kẻ cướp. Thấy ghe ấy đi ngang qua thì tôi kêu ghé, song ghe ấy không ghé mà lại bắn lại một phát súng, tôi thấy vậy tưởng ghe muốn cự thì dạy lính bắn lại. Bắn rồi chèo ghe ra mà coi, thì tôi thấy là ghe thầy Liểu đi mua ngựa về có giấy thông hành tử tế, tôi hỏi bạn thì bạn thưa rằng: “Khi thầy tôi nghe kêu thì tưởng là ăn cướp, nên trèo lên mui mà bắn chúng nó; chẳng ngờ đàng kia tưởng ăn cướp bắn cự thì bắn lại; mà tại thầy tôi ở trên mui cho nên bị đạn mà chết đi.” “Tôi trình rồi, quan tham biện nói rằng: “Thầy có phép quan sai đi bắt ăn cướp, mà bởi thầy kia đã không hỏi hang cho rỏ trước khi bắn lại cho nên chết thì phải chịu; thầy không tội gì!” “Nói rồi quan tham biện quở trách tôi sao không hỏi cho kỉ càn cùng dạy tôi về mà chôn cất thầy ấy cho tử tế. “Vậy thầy ôi! Từ ngày ấy cho đến bây giờ thì trí tôi không khi nào an đặng, tôi những thấy súng ống khí giái luôn, nhứt là khi ngủ thì tôi thấy tôi bị ăn cướp bắt mà bắn tôi hoài. “Song dầu mà lương tâm tôi cắn rứt tôi thể nào thì tôi cũng không quên sự lổi của thầy Liểu và của bạn tôi đã phạm với tôi. “Nhiều lần tôi ở trường án mà về thì tôi muốn lại hỏi mọi sự ra cho vợ hay mà tha lỗi cho vợ. Song khi lại gần thì tôi không muốn nói ra lại tưởng rằng: hỏi nó thì nó đương chịu cho đó. Ai dại mà chịu làm cha ăn cướp, bởi vậy cho nên tôi không khi nào ngui sự lổi bạn tôi đã phạm cùng tôi đặng. IX “Khi tôi còn nhỏ, thì thường có Mọi hay đến mà bán hàng nơi nhà tôi. Trong mấy người mọi đó thì có một đứa hay ra ngoài vườn mà hái một thứ bông tím tím kia, ở dưới cỏ mà mọc lên; tôi thấy người ấy hái thì tôi cũng bắt chước hái chơi. Người Mọi thấy tôi hái bông đó thì la tôi biểu đừng có hái, vì nó là giống độc lắm: sắc chừng một nắm mà uống thì phải mắc bịnh lần lần cho đến bảy tám tháng một năm thì phải chết: uống vô rồi không thuốc nào mà chữa đặng. “Khi ấy thầy Liểu đã chết đặng mười lăm bữa rồi. Ngày kia tôi nhớ đến sự cực tôi, thì trí khôn tôi nó bắt xao xiến bối rối làm cho tôi như điên vậy, thì tôi đi ra vườn cho có gió mát giải phiền một ít. “Tôi đi chưa đặng giáp vòng vườn thì tôi ngó thấy một đám cỏ bông tím dưới chơn tôi, tôi cúi xuống mà hái nó mà coi, thì tôi thấy nó là cái bông thuốc độc người Mọi đã nói với tôi khi trước. “Vậy tôi nhắm cái bông một hồi, rồi cúi xuống hái một nắm bỏ vô khăn cầm vào nhà. Thật sự tôi sẽ làm thì hiểm độc lắm, mà khi tôi vô nhà thì trí tôi cũng an tỉnh như tôi mới làm một sự phước vậy. “Tôi vô nhà thấy bạn tôi đang bắc một cái siêu trên bếp thì tôi hỏi rằng: “Mình sắc gì đó vậy?” Bạn tôi trả lời: “Ba bốn bữa rày nó bắt tôi ho dữ quá, cho nên khan tiếng; tôi sắc thử lá nguyệt bạch với chanh uống coi có hết chăng.” “Tôi làm thinh không nói gì, cứ cúi xuống mà ngó cái siêu luôn, tôi ngó cái siêu thì thấy cái nắp nó nhảy lên nhảy xuống dường như muốn mời tôi bỏ nắm bông trong khăn vô đó vậy. Vừa khi ấy bạn tôi lên nhà trên ăn trầu, thì tôi lại dở nắp siêu lên bỏ nắm bông ấy vô. “Khi bạn tôi uống rồi, đến ngày mai thì không chổi dậy khỏi giường cũng không ăn uống gì đặng. “Thầy ôi! Khi tôi biết tội tôi trọng là thể nào, cùng khi thấy bạn tôi nằm trên giường mà than thở thì tôi buồn bực ăn năn trách mình muốn cứu vợ tôi cho khỏi chết. Tôi rước không biết là mấy thầy; mà mỗi khi thầy nào đến tôi cũng lắc đầu hết, vì khi ấy tiếng người Mọi đã nói với tôi hơn hai mươi năm nay thì tôi nhớ lại hết: “Uống vô rồi không thuốc nào cứu đặng” “Bây giờ mỗi ngày thì bạn tôi lại thêm ốm o gầy mòn hoài. Khi tôi thấy bịnh bạn tôi càng ngày càng nặng hơn chừng nào thì tôi lại càng trách mình chừng nấy. “Bạn tôi đau đã hơn mười một tháng song tôi không nghe khi nào bạn tôi mở miệng ra mà nói cùng than thở đều gì; khi thấy tôi buồn thì kiếm lời dịu dàng mà an ủi tôi thì có. “Ôi! Trong mười một tháng ấy tôi trách mình tôi không biết là bao nhiêu; tôi buồn bực cho đến đổi có nhiều lần bạn tôi thấy tôi chảy nước mắt ra thì tưởng tôi khóc vì nó, thì nói cùng tôi rằng: “Xin thầy đừng rầu rỉ làm chi, tôi không chết đâu; tôi đã chịu thuốc rồi, it ngày đây thì tôi sẽ lành.” “Những lời như vậy thì nó làm cho tôi đau đớn như lưởng gươm đâm thấu vào lòng tôi vậy. “Tôi chịu cực thể ấy cho đến gần nữa năm 1873. Ngày kia tôi thấy bạn tôi mệt lắm thì tôi biết đã gần giờ nó phải lìa khỏi thế rồi, nên tôi ở gần một bên bạn tôi luôn. Đến nữa đêm khi tôi thấy bạn tôi còn thở hơi ra mà thôi thì tôi không còn trông cậy gì về sự sống nó nửa, thì tôi cho mời các chức đến mà đọc kinh giúp kẻ mong sanh thì. “Khi các chức đến đọc kinh cùng kêu chúa đặng một hồi lâu, thì đồng hồ đánh ba giờ sáng. Khi ấy bạn tôi bắt tay tôi mà kéo tôi lại một bên miệng mà nói rằng: “Tôi biết vì làm sao mà tôi phải chết, song tôi cũng xin Chúa thứ tha cho thầy.” Nói rồi làm thinh cho đến bốn giờ thì linh hồn ra khỏi xác. “Ôi! Thầy ôi! Khi tôi thấy tôi còn ở đời một mình thì sự buồn bực nó đã quá trí tôi đi. Lại khi tôi tưởng đến hai người, tôi đã thương mến quá chừng mà đã phải bị tay tôi mà chết thì tôi buồn bực sợ hải đêm ngày. “Cho nên khi chôn cất bạn tôi rồi tôi xin thôi làm việc mà lên Saigon đặng xin Đức cha chuẩn cho tôi vô ở nhà dòng Tân-định mà tu trì đức hạnh ít lâu. “Tôi vô nhà dòng rồi, thì tôi ở một cách sốt sắng lắm: đêm ngày tôi những đọc kinh cầu nguyện, ăn chay hãm mình cùng học hành siêng năng tử tế lắm cho nên các thầy bề trên tôi đều bằng lòng mà khen ngợi tôi hết. Tôi có ý ra sức mà làm các sự ấy, cho đặng quên hai tội tôi không xưng ra. Bởi vậy, bề ngoài người ta gọi tôi là người nhơn đức, mà hẳn thật tôi là đứa tội lổi giả hình mà thôi, cho nên dầu tôi làm thể nào, thì lương tâm tôi cũng cắn rứt luôn chẳng khi nào cho trí khôn tôi bình an đặng. “Thầy ôi! Tôi chịu cực mà học như vậy đã đặng sáu năm, chịu đặng chức thầy, cho đến năm kia là 1882, thì tôi mắc bịnh nầy; vì mình tôi đã mệt lại thêm trí tôi không an nữa thì nó sanh ra nhiều chứng bịnh lắm. “Đã hai năm nay tôi ở nhà thương mà uống thuốc, song bịnh tôi càng ngày càng tấn tới thì thầy thuốc dạy tôi xuống Vủng-tàu, “ở đó thanh khí có lẽ ông bớt chăng.” “Nói tới đây thì trời vừa sáng, tàu đến Vủng-tàu. Vậy tôi mới nói với thầy ấy rằng: “Tội thầy đã nói với tôi đó là đều độc dữ lắm, song Chúa nhơn từ vô cùng, còn dung thầy sống đến nay thì thầy phải xưng tội thì Chúa sẽ tha cho thầy chẳng sai đâu.” Thầy ấy trả lời rằng: “Thầy đừng sợ làm chi, mai đây cha sở Bà-rịa xuống Vủng-tàu thì tôi sẽ xưng tội tôi ra hết, vì tôi chịu cực cũng đã quá trí rồi.” Tôi lại hỏi rằng: “Thầy xuống Vủng-tàu mà ở nhà ai?” Thầy ấy trả lời rằng: “Tôi xuống ở nơi nhà cha Bà-rịa đã cất để mà nghỉ tạm khi cha xuống Vủng-tàu.” Nói truyện vừa rồi tàu gieo neo; khi thầy ấy bắt tay tôi từ giả mà lên đất, thì thầy ngó tôi mà rằng: “Thầy! Coi tôi cho rỏ có lẽ ta gặp nhau lần nầy là lần sau hết. Xin thầy đi bằng an, đến sau khi thầy có xuống Bà-rịa, thì tôi xin thầy hảy đọc một kinh nơi mồ LAZARO PHIỀN.” Nói rồi thầy Phiền xuống đò mà lên đất. X Thầy ấy lên đất đặng nữa giờ thì tàu đi vô Bà-rịa. Tôi ở Bà-rịa, đặng một tuần lễ, rồi tôi trở lại Saigon không nghe tin thầy Lazaro Phiền nữa cho đến ngày 27 janvier 1884 thì người đem thơ đam đến nhà tôi một cái thơ. Tôi coi ở ngoài bao thơ thì thấy có đóng con dấu Bà-rịa, tôi dở thơ ấy ra thì thấy đề rằng: Bà-rịa, ngày 25 janvier 1884 “Kính thăm thầy đặng mạnh giỏi trong chúa “Khirixitô, cùng xin Chúa phù hộ cho hai vợ chồng thầy. “Thầy ôi! Tôi xưa nay đã giấu tội tôi khi còn sống “làm cho thiên hạ tưởng tôi là người trọn lành cho nên “trước khi tôi bỏ thế mà xuống nằm nơi tro bụi tôi muốn “cho người ta biết tôi là ai, biết tội tôi là thể nào. Vậy nay “tôi mới viết thơ nầy mà xin thầy giúp tôi làm việc ấy cho “nên. Bây giờ có một mình thầy cùng cha sở Bà-rịa biết “các việc tôi mà thôi, mà cha sở người chẳng có phép mà “tỏ tội tôi đã xưng ra với người. Bởi vậy tôi mới dám xin “thầy, khi tôi chết rồi, thì thuật truyện tôi lại cho mọi “người biết, lại tôi xin thuật truyện sau nầy đặng cho thầy “tiếp theo sự tôi đã nói cùng thầy dưới tàu Jean-Dupuis “ngày 12 janvier 1884, có lẽ khi thầy đặng thơ nầy thì “Lazaro Phiền chẳng còn ở đời nữa. “Tôi về Bà-rịa đã đặng ba bữa rày cho đặng gần cha “linh hồn, vì thầy thuốc đã đoán rằng: tôi không còn sống “đặng hơn ba ngày nữa. Vậy ngày hôm qua tôi xin cha “cho phép người ta vỏng tôi đi xuống Đất-đỏ mà viếng “quê hương tôi một lần sau hết, ôi! Khi tôi thấy nơi tôi ở “thuở còn thơ ấu thì hai hàng nước mắt tôi tuôn xuống “ròng ròng. “Khi ấy trí khôn tôi nhớ trực lại hết những sự trốn “lánh cực khổ ông già tôi và tôi đã chịu khi còn bé thì tôi “bước xuống vỏng lại ngồi trên miệng giếng ở trước nhà “tôi thuở trước cùng ôm mặt tôi mà khóc ròng; một hồi “lâu tôi chổi dậy lên vỏng biểu người ta đem tôi về Bà-rịa. “Tôi về vừa đến nhà thì cha sở đưa cho tôi một cái “thơ cùng dạy tôi đọc cái thơ ấy cho đến cùng. “Tôi dở thơ ra thì thấy chữ viết trong thơ là chữ đờn “bà không có ký tên. Vậy trong thơ ấy viết thể nầy; tôi xin “chép lại đây cho thầy coi: “Thơ nầy là thơ một người đã làm cho thầy phạm hai “tội rất trọng cùng bởi hai tội ấy mà làm cho thầy chịu “cực khổ mười năm nay, tôi cúi lạy thầy! Nay mai thì “thầy sẽ về cùng Chúa cho nên tôi giám đến mà tỏ ra “cùng thầy sự thiệt hại tôi đã làm cho thầy phải chịu, mà “xin thầy hảy theo gương Chúa mà lấy lòng thương xót “tha sự tội ấy cho một người đã có lòng thật thà mà ăn “năng cùng đền tội mình. “Lạy thầy tôi là một người đờn bà tội lỗi dại dột “cùng bạc ác lắm; thuở tôi còn xuân xanh thì đã theo đàng “tội lỗi mê sa sắc dục thế gian xát thịt, cho đến hai mươi “mốt tuổi. Khi ấy tôi ở với ông quan ba kia ở tại đồn Bà-“rịa đã đặng ba tháng; rồi qua năm 1871 khi tôi thấy thầy “xuống làm thông ngôn tại Bà-rịa thì tôi lại đam lòng mà “thương thầy một cách rất lạ lùng lắm. Ban đầu tôi mướn “người làm cách nọ thể kia mà đam thầy vô đàng tội lổi “cùng tôi mà tôi thấy thầy khinh dể chê ghét tôi, thì tôi “lại kiếm thế mà oán thù. Tôi đã kiếm cách thế mà hại “thầy đã hơn hai tháng, vừa may kế lấy thầy Liểu xuống “đây mà mua ngựa; nhơn dịp ấy tôi mới viết hai cái thơ “giả chữ thầy Liểu, mà sai người đem giấu hai thơ ấy nơi “áo bạn thầy, rồi tôi gởi một cái thơ khác cho thầy mà cáo “gian hai người nhơn đức ấy. “Bây giờ thầy biết rỏ ràng rằng: “Bạn thầy cùng thầy “Liểu là ngươiụ vô tội mà đã bị chết hoan vì tôi. Cho nên “tôi lạy xin thầy tha tội cho tôi, thì Chúa cũng sẽ tha tội “cho thầy. “Tôi chẳng giám viết tên tôi vào thơ nầy; tôi xin thầy “hỏi cha sở Bà-rịa thì thầy sẽ biết tên người đờn bà tội lỗi “ấy là ai.” Qua năm sau, là 1885 nhằm ngày bải trường, tôi xuống Bà-rịa một lần nữa mà thăm bà con cùng cha sở Bà-rịa. Ngày kia tôi đi cùng cha sở ra đất thánh mà viến nhà thờ Tử-đạo, vì nơi ấy có ông bà tôi nằm đó. Khi tôi ra khỏi nhà thờ thì tôi thấy có một cái mồ gần một bên có cây thánh giá, có đề chữ mà mưa đã làm lu hết còn sót bốn chữ: 27 janvier 1884 mà thôi; tôi hỏi cha rằng: “Mồ ấy là mồ ai?” Cha sở trả lời rằng: “ Mồ ấy là mồ thầy kia đã phạm tội trọng lắm, mà khi gần qua đời đã ăn năn tội một cách rất trọn lành cho nên bây giờ ở tại nước thiên đàng chẳng sai?” Tôi hỏi cha rằng: “Có phải là mồ thầy Phiền chăng?” Cha sở vừa ừ; thì tôi quì gối nơi mồ mà đọc rằng: “Chúng tôi cậy vì danh Chúa nhơn từ cho linh hồn Lazaro Phiền đặng lên chốn nghỉ nghơi. Hằng xem thấy mặt Đức Chúa Trời sáng láng vui vẻ vô cùng.” ------------------------------------- Ba trăm bổn đạo xác nằm đây Những trông sống lại hưởng phước đầy Vì chúa tù lao dư ba tháng, Cam lòng chịu đốt chết chỗ nầy, Lập mồ táng chung vào một huyệt, Giáo nhơn coi đó nhớ hằng ngày. [2] Truyện thầy tu thuật lại sau nầy về sự giam cầm trong ngục thuở bắt đạo khi Tây qua, thì tôi đã nghe bà già tôi nói lại nhiều lần; vì bà già tôi khi ấy cũng bị bắt bị đốt tại Bà-rịa song đã trốn ra khỏi. – Đã hai mươi năm nay mà bốn chữ “Biên-hoà Tả-đạo” cũng còn rỏ ràng nơi mép tai như mới khắc vậy. Nguyễn Trọng Quản