Tốt nghiệp ra trường, tôi về dạy học ở một huyện vùng trung du. Cái thị trấn nho nhỏ. Ngôi trường ngự ngay trên đồi. Từ khu trường có thể nhìn bao quát xuống thị trấn, những mái nhà lô xô, cái mái ngói, cái mái tranh, trông đến vui mắt. Xa xa nữa, là những vạt chè xanh, trải dài ngút ngát. Một thị trấn thanh bình, mơ mộng!
Lũ học trò hiền lành, chăm chỉ. Cứ nhìn chúng tròn xoe mắt, lắng nghe từng câu, từng chữ trong các tiết học, trong những bài giảng của tôi, thấy chúng thật đáng yêu. Công việc, cuộc sống chỉ đến thế là cùng, mình có ước ao gì hơn nữa.
Năm dạy học đầu tiên qua đi tốt đẹp. Vào cuối năm ấy, tôi có người yêu, anh công tác ở một cơ quan trong huyện và hơn tôi dăm tuổi. Bước vào năm thứ hai, mọi việc diễn ra vẫn bình thường, nếu như không có chuyện, một cậu học trò thường gây khó chịu cho tôi. Ngay tiết học môn văn đầu tiên, lên lớp được chừng 5 phút, đang giảng bài, tôi chợt nghe có tiếng thưa rõ to:
- Thưa cô!
Nhìn ra cửa, một cậu học trò cao lớn, không cặp, không sách, áo bỏ ngoài quần và nhất là cái đầu - trọc lốc - nghênh nghênh đứng. Trong lớp nổi lên những tiếng cười khinh khích. Tôi khó chịu, song cố nén, cất tiếng hỏi:
- Cậu... tên gì?
- Thưa cô, em là Nguyễn Lê Tùng Sơn, mười tám tuổi, học sinh tổ bốn, ngồi bàn cuối, nhà ở thôn Chùa,....
Cả lớp rộ lên tiếng cười
- Thôi! Cậu vào lớp ngay cho tôi nhờ!
Trường hợp này, chỉ còn cách xử lý như vậy. Nếu giằng co, làm căng, mất hết cả tiết học, mà lại là tiết học đầu năm. Cậu học sinh khuỳnh khuỳnh đi vào lớp, vừa đi, vừa đưa tay nhứ nhứ cậu này, hất hàm với cậu kia. Tôi cố nén, tiếp tục tập trung vào bài giảng. Một lúc sau nhìn xuống chỗ cậu ta, cậu học trò cũng kiếm đâu được cây bút, đang hý hoáy viết vẽ gì đó. Đến giữa tiết học, cậu ta không viết vẽ nữa, cái đầu trọc lốc gục trên mặt bàn. Cho đến tận lúc ra chơi, cậu học trò vẫn ngon lành ngủ. Biết làm gì với thứ học trò này đây, một loại học sinh cứng đầu, cứng cổ. Tôi băn khoăn tự hỏi, cần phải áp dụng biện pháp cứng rắn, hay mềm dẻo. Nghe tôi phàn nàn ở văn phòng, cô giáo dạy văn năm trước của cậu ta, nhún vai:
- À, cái cậu Nguyễn Lê Tùng Sơn chứ gì? Chịu! Đến Tài thánh cũng chịu. Loại đó, chỉ có.... đuổi.
Đuổi thì đơn giản, tôi nghĩ. Trong những tiết học tiếp theo, cậu ta còn nghĩ ra nhiều trò quỷ quái khác. Cả lớp đang cắm cúi chép bài, bỗng dưng một cái máy bay giấy phi đánh vèo. Truy hỏi thủ phạm, cả lớp ngồi im lặng. Hay có lần, ngay trên mặt bàn giáo viên, một tờ giấy nguệch ngoạc những hình vẽ bậy bạ... Một hôm, tôi đang giới thiệu về tác giả, thì cậu ta đứng lên, cắt ngang:
- Thưa cô, cô cho em hỏi một câu ạ?
- Cậu hỏi gì?
- Thưa cô! Thế nhà thơ Nguyễn Khuyến ở đâu ạ?
- Cậu đã học chương trình văn học lớp dưới chưa?
- Thưa cô, rồi ạ! Sách viết, ông Nguyễn Khuyến quê ở Hà Nam, đỗ tam nguyên, ra làm quan,... Thế mà nay ở quê em, hàng ngày vẫn thấy ông Nguyễn Khuyến dắt trâu ra đồng?
Cả lớp cười rộ lên. Tức quá, không kìm được, tôi quát to:
- Ra, ra ngay! Cậu ra ngay khỏi lớp!
- Thưa cô, em phải ra ngay ạ? Cô bảo em về mời ông Nguyễn Khuyến đến đây! Vâng, thưa cô em đi, đi ngay đây ạ!
Nói rồi, cậu ta tót nhanh ra khỏi lớp. Tôi chỉ còn biết nhìn theo, uất ức, không nói lên lời. Cố kìm nén mà nước mắt cứ trào ra. Học trò cả lớp cùi gằm. Ngay ngày hôm sau, theo kiến nghị của tôi, Ban giám hiệu nhà trường yêu cầu cậu ta lên văn phòng làm kiểm điểm. Tối ấy tôi đang ngồi chấm bài. Đây là bài kiểm tra văn đầu tiên của năm học. Nhìn đến cái tên Nguyễn Lê Tùng Sơn, tôi đã định cho con hai rõ to, song chợt dừng lại. Kể chữ viết của cậu ta cũng đẹp, nó có cái vẻ khoáng đạt. Chữ như thế này mà sao người lại có những hành động như vậy nhỉ? Tôi chậm rãi đọc bài văn của cậu ta. ừ, cậu ta viết khá, câu cú chuẩn xác, văn phong súc tích, ý tưởng của bài văn khá mới lạ. Đang vu vơ nghĩ, chợt nghe tiếng động cửa, ngẩng lên nhìn, tôi thấy cậu học trò tai quái kia:
- Thưa cô...
Khác với mọi khi, cậu học trò lúc đó lại rụt rè. Tôi nghĩ bụng, hoá ra biện pháp cứng rắn lại có tác dụng. Tôi bảo đến mấy lần, cậu ta mới lúng túng ngồi xuống. Thấy cậu ta cứ ấp a ấp úng, tôi đành chủ động:
- Cậu.... Cậu đã thấy khuyết điểm của mình chưa?
- Dạ... thưa cô!...
- Tôi vừa đọc bài kiểm tra của cậu xong. Sơn ạ, tôi thấy buồn và hơi lạ, một học trò viết được những điều như thế, sao có thể....
- Thưa cô.... Em....
- Em làm sao?
- Dạ.... em phải nghỉ học.
Cậu học trò vốn có cái vẻ phớt đời, ngông nghênh, giờ hiền khô, tội nghiệp. Tôi thoáng thấy ái ngại và hơi mủi lòng:
- Sao, sao Sơn lại nghỉ học?
- Thưa cô.... hoàn cảnh nhà em.... Hôm nay em đến xin lỗi và chào cô....
Sơn đặt bản kiểm điểm lên mặt bàn, rồi lặng lẽ đứng lên. Bất ngờ khi biết ý định bỏ học của Sơn, tôi bảo cậu ta ngồi xuống, định có vài lời khuyên nhủ. Cậu ta vẫn đứng, lý nhí chào và dứt khoát ra về. Khi cậu ta đi rồi, tôi thoáng ân hận. Có phải vì mình mà cậu học trò bỏ học? Vài ngày sau, vào sáng chủ nhật, hỏi thăm địa chỉ, tôi đạp xe đến thăm nhà Sơn. Nhà Sơn nằm lưng chừng một quả đồi, căn nhà tranh ba gian, có vườn chè bao quanh. Sơn cởi trần, đang lúi húi sửa cái xe cải tiến. Nhìn thấy tôi dắt xe vào sân, cậu ta có vẻ bất ngờ, miệng ấp úng chào. Trong khi tôi đang tìm nơi dựa xe, thì Sơn vội vã chạy vào nhà. Tôi ý tứ đứng lại ngoài sân, đợi cậu học trò mặc quần áo. Từ trong nhà, một người đàn bà xấp xỉ tuổi năm mươi, tong tả chạy ra:
- Cô giáo.... cô giáo đến chơi. Thằng cháu Sơn nhà tôi nó chẳng báo trước gì cả. Mời cô, mời cô giáo vào nhà...
Tôi bước vào nhà theo người đàn bà. Một căn nhà tềnh toàng, nền đất gồ ghề, giáp tường có mấy bao sắn và bao thóc chồng lên nhau. Tài sản đáng giá nhất là ban thờ và cái giường gỗ rẻ quạt. Người đàn bà lúng túng giải thích, nhà chỉ có hai người, nên chẳng nước non gì cả. Nói rồi bà xách cái ấm xuống bếp. Từ trong buồng, Sơn ngập ngừng bước ra:
- Sơn.... sao hai ba hôm rồi, không thấy Sơn tới lớp?
- Thưa cô...
Vẫn chưa hết lúng túng, cậu học trò tay vân vê gấu áo...
- Có điều gì mà Sơn lại nghỉ học? Có phải tại tôi...
- Dạ... thưa cô, không, không... Nhà em có chuyện. Khó...
- Khó thì mới phải cố gắng. Chỉ còn dăm tháng nữa. Sơn không nghĩ tới tương lai của mình sao?
Chúng tôi đang dang dở câu chuyện, thì bà mẹ từ dưới bếp xách ấm nước lên. Bà ngỡ ngàng khi hay tin con trai định bỏ học:
- Báo cáo cô giáo, thảo nào, mấy hôm nay, thấy nó cứ ở nhà. Hỏi thì nó bảo....
Sơn cắt ngang lời mẹ:
- Kìa mẹ! Mẹ biết gì mà.... Con, con đã quyết rồi!
- Thế có chết không cơ chứ. Đã đến đận gì mà phải bỏ học. Việc của bố mày là việc của bố mày. Làm sao mày phải bỏ học....
Tôi đã biết lý do vì sao Sơn bỏ học qua câu chuyện của bà mẹ. Vừa dấm dứt khóc, bà vừa kể: Bố Sơn là thợ xây, ông thường đi vùng nọ, vùng kia xây cất nhà cửa. Trước đây ông còn có trách nhiệm với gia đình, thỉnh thoảng mang về chút tiền cho vợ con. Hai ba năm lại đây, đã rất ít về, mà tiền nong cũng tịnh không thấy một đồng nào. Mãi cho đến gần đây, mẹ con Sơn mới biết, ông có vợ bé. Giờ đây mọi công việc đều trút lên vai người vợ. Bà lại hay đau ốm. Thương mẹ, Sơn quyết định bỏ học, để kiếm một công việc nào đó. Tôi ngồi lại qua trưa, ăn bữa cơm đạm bạc với hai mẹ con họ và rì rầm khuyên nhủ Sơn. Sau buổi tôi đến nhà, Sơn trở lại lớp học.
Từ buổi ấy Sơn như người khác lạ. Cậu học trò ngỗ ngược ngày nào, nay trầm tĩnh. Đúng là một học sinh có năng khiếu môn văn, những ý tưởng lạ, mơ mộng, những bài phân tích, bình luận sắc sảo, khúc chiết. Trong những giờ tôi lên lớp, cậu yên lặng, chăm chú nghe bài giảng. Một lần đang ngồi xem sổ điểm, trong khi cả lớp cắm cúi làm bài, bất chợt ngẩng lên, tôi vô tình bắt gặp cái nhìn của Sơn, cậu ta lúng túng, vội nhìn nhanh sang hướng khác. Tôi nghĩ ngợi, hình như gần đây Sơn có cái nhìn khang khác.
Lại một đợt chấm bài kiểm tra. Xem đến bài của Sơn, tôi hơi bất ngờ. Cậu ta không làm theo đề ra, mà kể một câu chuyện yêu đương, chàng trai yêu thiết tha, còn cô gái... Thế là linh cảm của tôi chính xác, Sơn đang yêu tôi, yêu cô giáo của cậu ta. Xử lý thế nào đây, một chàng trai mới lớn. Tôi đâm ra lúng túng. Không thể mang ra kiểm điểm, hay nói trước lớp. Khi trả bài kiểm tra, tôi giữ bài của Sơn và bảo cậu ta, cuối giờ ở lại gặp tôi. Nhìn cậu học trò mặt mũi đỏ rừ, ngắc ngứ ngồi sau bàn, tôi nhẹ nhàng nhắc, Sơn làm lại bài kiểm tra, còn câu chuyện mà cậu ta viết ra, thì ở cái tuổi và vào thời điểm cuối cấp học này, là chưa nên. Sau buổi đó, Sơn tránh giáp mặt tôi. Nhưng đôi lần, vô tình tôi vẫn bắt gặp ánh mắt của cậu ta, từ xa dõi nhìn tôi.
Giữa năm học đó tôi xây dựng gia đình. Đám cưới của chúng tôi diễn ra vui vẻ, nào bạn bè, đồng nghiệp hai cơ quan, rồi học trò các lớp. Trên hội trường khi cùng chồng đến các bàn chúc rượu và cảm ơn, tôi bắt gặp cái nhìn đượm buồn của cậu học trò sau khung cửa sổ. Rồi năm học sắp kết thúc, học trò tập trung vào kỳ thi tốt nghiệp, thi đại học. Trong buổi liên hoan chia tay, lớp Sơn tổ chức ăn uống, đàn hát đến khuya. Tránh tiếng đàn hát, chúc tụng ồn ào, tôi bước ra khỏi phòng liên hoan. Đêm hè sân trường yên tĩnh. Cái nóng gắt gao ban ngày đã dịu bớt. Ngẩng lên, thấy bầu trời đầy sao. Lâu lắm rồi, có lẽ từ khi ra trường, tôi mới có dịp ngắm sao. Nghĩ nhanh thật đấy, ngày nào còn là cô sinh viên mơ mộng, bao lần cùng đám bạn bè leo lên gác thượng, ngồi tán gẫu và ngắm sao. Đang thả hồn vẩn vơ giưã bầu trời đêm thăm thẳm, tôi chợt thoáng nghe có tiếng chân người bước sau lưng và đứng lại. Linh tính mách bảo, đó là ai. Một lúc khá lâu, vẫn không thấy cậu ta lên tiếng. Hình như có tiếng thờ dài. Tôi chủ động quay lại, hỏi:
- Sơn đấy hả?.... Sao không ở trong lớp vui với các bạn!
- Dạ....
- Chuẩn bị thi tốt chứ? Phải cố gắng lên nhé, Sơn!
- Dạ...
Rồi cả hai im lặng. Thời gian trôi đi. Chắc đã muộn rồi, tôi quay mình định vào chào mọi người, đến lúc này Sơn mới lên tiếng!
- Dạ... Cô.... Cô cho Sơn gửi....
Sơn trao nhanh cho tôi lá thư, rồi vội vã bước vào khoảng tối trên sân trường. Lá thư tỏ tình chứa chan lời yêu đương. Phân vân, cuối cùng tôi quyết định, đưa lá thư của cậu học trò cho chồng tôi xem. Xem xong, anh mỉm cười, nói một mối tình học trò, chỉ tiếc là không có đoạn kết. Sau mùa thi, Sơn trúng vào trường sỹ quan công binh. Tiếp đó, thỉnh thoảng tôi nhận được những thông tin rời rạc về Sơn. Ra trường cậu ta được điều về một đơn vị công binh. Nghe nói đơn vị không đóng ở một chỗ cố định, mà nay đây, mai đó. Còn tôi, do bộn bề công việc và chuyện chồng con, nên ít có thời gian nghĩ về cậu học trò ấy nữa.
Số phận con người ai mà biết được. Cuộc đời của tôi tưởng như êm đềm, bất ngờ bị đảo lộn. Chồng tôi không may mắc một căn bệnh hiểm nghèo, bao thuốc thang, mà anh không qua khỏi. Những ngày tháng đó tôi như kẻ mất hồn. Ban ngày vì công việc có thể còn nguôi ngoai, chứ đêm xuống, trong gian nhà vắng lặng, nhìn đứa con nhỏ, tôi tưởng như không sao chịu nổi. Để dịu bớt đi nỗi buồn, tôi chỉ còn biết lặng lẽ thắp nén nhang lên ban thờ chồng. Nhìn làn khói hương chao lượn, cảm giác trong tôi như thấy anh đang về cùng với mẹ con tôi. Sau lễ cúng trăm ngày, lúc đó khoảng tám giờ, tám rưỡi tối, tôi nghe có tiếng ai gõ cửa. Thật bất ngờ, Sơn sừng sững đứng trước hiên nhà. Bộ quần áo sỹ quan làm Sơn thêm già dặn, cứng cỏi. Sơn đặt bó hương lên ban thờ và thắp một nén nhang. Tôi đứng khóc lặng sau Sơn. Đến lúc này tụi cảm giác, càng thấy mình mất mát lớn quá. Sơn nói mấy lời chia buồn, rồi lặng lẽ ngồi hút thuốc. Tôi cũng ngồi yên lặng.
Tối hôm sau Sơn lại đến. Một tối nữa, một tối nữa, cho đến hôm trước khi trở lại đơn vị:
- Lan.... tôi yêu Lan. Biết Lan đang đau khổ... Nói chuyện vào lúc này thật không hợp, nhưng...
- Thôi, đừng nói nữa Sơn. Tôi biết, tôi biết Sơn.... Nhưng... không thể. Có lẽ, không bao giờ tôi quên được anh ấy. Hãy hiểu tôi....
- Không,.... Sơn sẽ đợi. Dù là bao lâu.... anh sẽ đợi.
Sơn trở về đơn vị. Qua những lá thư, tôi biết Sơn đang ở đâu, khi thì một thị xã miền Trung, lúc tại một khu phát triển công nghiệp. Nhận thư của Sơn, nhưng tôi không hề đáp lại. Có lẽ đó là cách trả lời tốt nhất. Tháng tháng, vẫn những lá thư Sơn đều đặn gửi cho tôi. Chợt bẵng đi một, hai tháng, tôi không nhận được thư của Sơn nữa. Thôi, thế cũng hay, có lẽ Sơn đã hiểu. Một buổi chiều đang đứng lớp, tôi thấy đám học trò lao xao, ngó ra ngoài sân. Trên sân trường, tôi nhìn thấy từ phía sau lưng, ông bảo vệ đi cùng một anh bộ đội. Tự dưng tôi lại nghĩ tới Sơn. Hết tiết học, đang ngồi trong lớp, thì một cậu học trò chạy vào báo, tôi có khách, đang đợi ở văn phòng.
Tôi hồi hộp nghĩ, hay là Sơn. Bước vào văn phòng, thì biết mình nhầm. Anh bộ đội từ tốn đứng dậy:
- Chào cô giáo!
- Chào anh!
- Có phải, cô là Nguyễn Thị Huyền Lan?
- Vâng....
Anh bộ đội vẻ ngần ngừ, chưa biết bắt đầu chuyện ra sao. Rót chén nước mời anh, tôi chủ động:
- Dạ... Có việc gì thế ạ?
- Dạ. Tôi.... Tôi cùng đơn vị với Sơn.
Anh bộ đội tần ngần lôi từ trong cặp ra cuốn sổ nhỏ.
- Đây là cuốn sổ tay của Sơn.
Tôi hơi bực mình nghĩ, cậu ta còn bày ra trò gì nữa đây. Thư từ gửi mãi rồi, chưa đủ sao. Giọng hơi bực bội, tôi hỏi:
- Sao.... Sao lại gửi cho tôi?
- Đây là kỷ vật của Sơn. Cậu ấy đã hy sinh rồi!
- Sao?
- Hai tháng trước Sơn nhận nhiệm vụ tháo gỡ một quả mìn... Trước khi tắt thở, Sơn nhắn lại, muốn cuốn nhật ký này đến tận tay Lan.
Thế là một người nữa lại ra đi! Đặt cuốn nhật ký lên ban thờ, bên tấm ảnh của chồng, tôi thắp nén nhang. Chắc chồng tôi sẽ rộng lượng, cảm thông cho nén nhang thắp chung này, thắp cho một người đàn ông và một chàng trai, một người tôi yêu tha thiết và một người tha thiết yêu tôi.
2004
 

Xem Tiếp: ----