Dịch giả: Cao Xuân Hạo
Chương I

 
- Hôm nay ai trực? Bác sĩ Kôbasi à?
Kaôru Unô nhìn lên bảng trực đêm. Cô vừa đi thu nhiệt kế ở các phòng bệnh nhân về.
- Theo bảng trực thì hôm nay là phiên của Kôbasi tiên sinh, nhưng tiên sinh hình như đã đổi phiên cho bác sĩ khác - Nôrikô Simura, lúc bấy giờ đang ngồi cạnh bàn cặm cụi găm mấy tập bệnh án, trả lời bạn đầu vẫn không ngẩng lên.
- Thế à? Đổi cho ai?
- Cho bác sĩ Naôê thì phải.
- Naôê à? Kaôru kinh ngạc thốt lên.
Nôrikô ngạc nhiên nhìn bạn. Kaôru bối rối đưa tay lên bưng miệng.
Nôrikô năm nay đã hăm bốn, cô đươc coi là một nữ y tá có kinh nghiệm, còn Kaôru thì hãy còn như con nít: cô mới mười tám, vừa đi học dự bị từ mùa xuân và được xếp vào hàng tập sự trong bệnh viện máy trong phòng báo:
- Isixura phòng bốn trăm mười hai kêu đau dữ quá.
- Cái ông già có người con trai làm chủ hiệu sushi ấy à?
Hôi trước cụ Yôsidzô Isikura mở hiệu sushi ở khu Nakamegurô, nhưng cách đây ba năm đã thôi làm và giao cửa hiệu lại cho con trai và con dâu quản lý. Ông cụ vào nằm viện Oriental từ cuối tháng chín, tức cách đây một tháng. Trước đó cụ Isikura đau dạ dày nằm cả hai mươi ngày tại bện viện của trường đại học T., nhưng về sau bỗng nhiên được xuất viện và chuyển sang nằm ở đây.
- Ông cụ nằm sấp, rên hừ hừ...
- Có ai là người nhà ở lại với ông cụ không?
- Có cô con dâu.
Rời tập bệnh án, Nôrikô tự lự ngưới mắt nhìn trân trân lên bức tường trắng ở trước mặt.
- Vậy bác sĩ trực hôm nay là Naôê tiên sinh? -Kaôru vừ đếm lại mấy cái nhiệt kế trên khay y cụ vừa hỏi lại.
- Nôrikô làm thinh. Môt. lát sau cô mới buông một câu:
- Chắc hôm nay tiên sinh chả đến nữa đâu.
Kaôru ngạc nhiên hỏi:
- Sao lại không đến nữa? Tiên sinh phải trực kia mà!
- Ừ thì trực chứ sao...
- Hay là tiên sinh đang ngồi ở đâu đấy trong bệnh viện?
- Không, lúc nảy vừa đi đâu rồi.
Nôrikô khó chịu ngoảnh mặt đi.
- Naôê trực kia mà. Làm sao mà có thể đi đâu được?
- Muốn biết cứ gọi điện hỏi xem - Nôrikô chỉ tay lên tấm giấy nhỏ xíu gắn trên mặt bàn. Trên giấy có ghi vội dòng chữ: "Naôê:423-28-50".
Kaôru bỡ ngỡ nhìn lên tấm giấỵ
- Đấy là chỗ nào?
- Tiệm rượu.
- Tiệm rượu ư? Sao, ông ấy đến tiệm rượu ư?
- Thế đấy, - Nôrikô đáp xẵng, rồi lại cuối xuống tập bệnh án.
Kaôru bỏ cái nhiệt kết đang cầm sang một bên.
- Sao lại có thể như thế được?... Đang trực kia mà?
- Dĩ nhiên là không được - Nôrikô nhún vai.
- Thế thì tại sao tiên sinh lại...?
- Tại thế thôi. Xưa nay vẫn vậy.
Mới gần đây Kaôru mới được phân công trực đêm và hôm nay là lần đầu tiên cô trúng vào phiên trực của bác sĩ Naoê.
- Cái tiệm rượu ấy cách đây có xa không?
- Không biết, nghe ông ấy nói là đâu ở khu Đoghendzukaa ấỵ Đi bộ hết mười phút.
- Nhưng sao chị biết đó là tiệm rượu?
- Mỗi lần ra đấy về, bao giờ ông ấy cũng sặc mùi rượu.
- Chị nói gì thế?!
- Không tin thì cứ gọi điện đến đấy mà hỏi.
Găm xong tờ bệnh án cuối cùng, Norikô rút ngăn kéo bàn lấy ra một tấm biểu treo cửa và cây bút lông.
- Cụ Isikura đau thật đấy chị ạ... Dù sao cũng phải gọi điện cho bác sĩ, - Kaôru vừa nói vừa nhìn hàng số điện thoại trên tấm giấy.
- Vô ích.
- Nhưng bệnh nhân đau quá mất rồi.
- Nếu cô chịu không nổi thì tiêm cho ông ấy một mũi.
- Không xin phép bác sĩ?
- Một liều thì không sao.
- Nhưng... - Kaôru ấp úng.
- Bác sĩ có ở đây thì cũng nói thế thôi. Cụ Isikura lâu nay vẫn phải dùng thuốc có chất á phiện.
- Nhưng đó là ma túy.
- Đúng, mà lại là loại mạnh. Giảm đau rất công hiệu.
- Nhưng luật cấm dùng ma túy kia mà!
- Sao lại cấm?... - Nôrikô nhúng bút lông vào chén thuốc vẽ màu trắng, rồi viết thử lên tờ báo.
- Cụ Isikura bị ung thư dạ dày à?
Norikô gật.
- Thế mà người ta bảo là bị ung thư chẳng đau tí nào. Em chưa bao giờ tưởng tượng la con người ta có thể đau đến thế.
- Sở dĩ đau nhiều là không riêng dạ dày bị tổn thương. Di căn đã lan vào tận xương sống, chạm đến trung khu thần kinh.
- Thế thì mổ cũng không ăn thua nữa à?
- Không ăn thua. Chính vì thế mà ở bệnh viện của trường đại học họ cho ông cụ ra viện.
-Tội nghiệp ông già... - Kaôru thở dài. Nửa năm làm việc ở bệnh viện cô đã có dịp trông thấy khá nhiều điều, nhưng cho đến nay cái gì đối với cô cũng hãy còn mới lạ và có sức lôi cuốn lạ thường. -
Ông cụ còn sống được bao lâu nữa?
- Bác sĩ Naôê cho là còn được khoảng hai tháng nhiều nhất là ba.
- Ông cụ có biết không?
- Dĩ nhiên là không. Chỉ có người trong nhà biết.
- Thế ra họ chỉ còn chờ ông cụ chết?
- Đúng thế.
Nôrikô lại cầm bút lên. Dòng chữ Hán màu trắng nét bay bướm, chạy trên tấm bảng nhỏ màu đen:
"Tsunêô Muraya" - tên họ bệnh nhân mới nhập viện. Nét chữ của Nôrikô nhẹ nhàng, tao nhã.
- Cô chớ nói hở ra đấy, - Nôrikô dặn dò, tuy cô biết cũng chẳng cần như thế: không đời nào Kaôru lại có đủ can đảm nói lại với ông già. Nhưng cô bé vẫn gật đầu ưng thuận một cách hết sức nghiêm trang. Vừa lúc ấy có tiếng chuông gọi của bệnh nhân phòng 412 gọi.
- Isikura
- Cô lấy hai liều brobarin xuống mà tiêm. Nói là sẽ bớt đau ngay.
- Vâng.
Kaôru đến tủ thuốc lấy ra một cái hộp màu đỏ chạy vội ra hành lang.
Tên gọi của bệnh viện nghe khá hợm hĩnh: "Oriental". Song đó chỉ là một bệnh viện tư thuộc loại thông thường nhất ở Tokyo. Chủ nhân - bác sĩ Yutaro Gbyoda - đồng thời cũng là bác sĩ trưởng. Tòa nhà cao sáu tầng, lại thêm một tầng hầm nữa, xây gần ngã tư chỗ phố Tamagawa gặp đại lộ chu vi số 6 của thành phố, bề mặt trông ra đường. Ở tầng trệt là phòng đón tiếp bệnh nhân, phòng tiếp khách, phòng ghi danh, phòng phát thuốc và phòng X-quang. Tầng thứ hai dành cho phòng mổ, phòng vật lý trị liệu, phòng xét nghiệm, phòng điều hành, phòng làm việc của bác sĩ trưởng và phòng văn thư. Từ tầng ba đến tầng sáu là các phòng của bệnh nhân. Bệnh viện Oriental chỉ có cả thẩy bảy mươi giường.
Số bệnh nhân ngoại trú xê xích tùy theo từng ngày trong tuần lễ, nhưng kể trung bình thì mỗi ngày có khoảng 150-160 người đến bệnh viện. Trên của các phòng đều có treo những biển bề: "Bác sĩ nội khoa", "Bác sĩ da liễu", "Bác sĩ niệu học", "Bác sĩ phẩu thuật", "Bác sĩ phụ khoa", "Phòng phẫu thuật thẩm mỹ", "Khoa nhiễm xạ". Thế" nhưng số bác sĩ làm việc thường xuyên ở bệnh viện Oriental không lấy gì làm đông; chỉ có bác sĩ nội khoa Kawahara, hai bác sĩ phẫu thuật là Naôê và Kôbasi, bác sĩ nhi khoa Marayama, kể cả bác sĩ trưởng nữa là năm người. Ngồi tiếp bệnh nhân ở phòng phẫu thuật thẩm mỹ cũng là Naôê, còn ở phòng niệu học và phòng phụ kho thì cứ mỗi tuần hai lần, có hai bác sĩ ở bệnh viện của trường đại học M. đến làm việc. Nữ y tá, kể cả y tá cấp một và tập sự, ở bệnh viện Oriental có cả thẩy hai mươi hai người. Bác sĩ trưởng Yutarô Ghyôda chuyên về nội khoa, nhưng mấy năm gần đây hầu như không xuất hiện ở ở các phòng bệnh nhân nữa, mà giao hết công việc này cho Kawahara vốn và bạn thân của ông. Bản thân ông ta chỉ quan tâm đến cái ghế hội đồng dân biểu thành phố và công việc quản trị Hội liên hiệp Lương y, vốn là những công việc rất xa với y học. Thảng hoặc có khi nào bệnh viện tư của ông được người ta nhắc đến thì ông than thở rằng nó chẳng đem lại một chút lợi nhuận nào. Tuy vậy cái bệnh viện Oriental vẫn được coi là một bệnh viện khá lớn không riêng gì trong khu mà ngay cả trong toàn thành phố Tokyo nữa.
Ban đêm thường có hai nữ y tá ở lại trực. Cổng chính cửa bệnh viện - cổng dẫn thẳng vào phòng cấp cứu - mở cho đến tám giờ tối. Sau tám giờ thì cổng sẽ đóng, ai đến phải bấm chuông.
Tối hôm ấy trong bệnh viện không có sự cố gì - cứ như thế mọi người đều biết trước rằng bác sĩ trực sẽ đi đâu mất tăm. Chỉ có cụ Isikura kêu đau, với lại Sughimôtô, anh chàng trẻ tuổi nằm ở tầng ba, đến xin thuốc cảm lạnh. Những bệnh nhân ngoại trú đến sau năm giờ, khi phòng khám thường đã chuẩn bị nghỉ, cũng không nhiều; hai người đến thay băng thêm hai người nữa đến tiêm thuốc theo lời dặn của bác sĩ điều trị.
Những bệnh nhân chấn thương, thường thường cứ hai ngày đến một lần, hôm nay cũng không phải đến. Dĩ nhiên Nôrikô tự ý cho thuốc cảm và thay băng mà không có chỉ thị của bác sĩ trực như vậy là vi phạm điều lệ, nhưng cô không dám quấy rầy Naôê vì những chuyện không đâu như thế. Nôrikô biết rất rõ mình phải làm gì; vả chăng nếu cô có tự dưng nảy ra cái ý gọi điện cho ông ta, thì chẳng qua cũng sẽ được nghe ông trả lời là: "Tốt lắm, cứ thế mà làm".
Đến chín giờ, đèn ở các phòng bệnh nhân đều đã tắt hết, mà Naôê vẫn chưa thấy về. Công việc có thể coi như là đã xong xuôi, cho nên Nôrikô mở một cuốn tiểu thuyết và bắt đầu thả hồn vào cái thế giới ư cấu của một nữ văn sĩ đang thời thượng viết về tình yêu. Kaôru mở máy thu hình, chỉnh cho máy kêu khe khẽ, và bắt đầu theo dõi chương trình hòa nhạc. Phòng trực của nữ y tá ở tầng ba, bên phải thang gác, các cửa sổ đều trông ra một ngõ hẻm vắng không có lấy một bóng người qua lại. Màn cửa sổ bao giờ cũng vén ra hai bên, và trong khoảng lở có thể nhìn thấy cảnh đô thành lấp lánh muôn vạn ánh đèn đêm. Đến chín giờ rưỡi chương trình nhạc kết thúc. Kaôru vươn vai ngáp dài. Cô đến bệnh viện từ sáng sớm vào lúc tám giờ, ăn trưa xong thì đi học lớp dự bị, sau đó lại trở về bệnh viện trực đêm. Đến giờ này cô đã mệt nhoài ra. Biết làm thế nào được? Đành phải kiên nhẫn chịu đựng vài năm.... Nôrikô cúi đầu đọc sách, tóc rũ cả xuống tận mặt.
Kaôru tắt máy, ngồi nhìn ra cửa sổ.
- Chị ạ, tiên sinh vẫn ở ngoài tiệm rượu à?
- Không biết.
Nôrikô rời cuốn sách. Cô đọc gần hết.
- Có lẽ ta pha tí cà-phê nhỉ?
- Ờ, hay đấy.
Kaôru nhanh nhẹn đứng dậy thắp bếp ga. Ở góc phòng sau tấm màn trắng có thể trông thấy mờ mờ một cái giường ghép đôi và hai cái tủ con. Cà phê và chén tách đặt ở ngăn trên cùng. Kaôru lấy bình cà-phê bột không cặn và lọ đường, đặt cả lên bàn.
- Mấy viên đường?
- Một thôi.
Bây giờ, khi tivi đã im tiếng, từ ngoai cửa sổ lùa vào cái tiếng rì rầm thoang thoảng của thành phố ban đêm.
- Ôi, chút nữa thì đổ hết... - Kaôru thận trọng đặt tách cà phê xuống trước mặt Nôrikô.
- Cảm ơn.
- Sao lâu về thế nhỉ... Không biết đứng có còn vững được nữa không?
Không trả lời thì không tiện; Nôrikô đành nói lùng bùng cái gì đó không rõ, và vội vành nốc hết chén cà phê.
- Nhỡ có tai nạn thì sao? Hay là có ca mổ cấp bách? Lúc bấy giờ biết làm thế nào?