Dịch Giả NGUƠN HAR CAO THỊ LAN
- 2 -
SỰ ÐỊNH TRÍ

 Sự tham thiền thường có ba mục tiêu. Sự định trí, sự tham thiền và sự chiêm ngưỡng; còn có thể chia ra làm nhiều mục tiêu nhỏ hơn nữa mà ở đây chúng ta không cần nói đến. Tuy nhiên học viên phải nhớ rằng sự tham thiền là một khoa học cần phải cố gắng suốt đời mới làm được vì vậy y chẳng nên hy vọng đi đến mức chiêm ngưỡng ngay ở lúc đầu.
Ðịnh trí nghĩa là hướng cái trí vào một tư tưởng rồi giữ cho cái trí cứ ở mãi trên tư tưởng ấy. Ông PATANJALI, tác giả những câu Châm Ngôn cổ điển, định nghĩa pháp môn Du Già như là “sự ngăn cấm không cho tư tưởng thay đổi”.
Người ta có thể lấy định nghĩa này mà áp dụng cho sự định trí, tuy rằng PATANJALI, còn đi xa hơn thế trong ý nghĩ của ông, để bao gồm cả sự tiêu hủy cái khả năng có thể tạo ra những hình ảnh làm bằng chất trí và mọi dấu hiệu rõ rệt khác của tư tưởng, như thế là đi từ giai đoạn định trí thông thường đến sự chiêm ngưỡng.
Vậy thì muốn có thể định trí được, cần phải làm chủ cái trí và do sự luyện tập mà lần lần học được cách thu nhỏ phạm vi hoạt động của nó cho đến khi có thể định nó vào một vấn đề duy nhất mà thôi. Người ta lựa chọn một tư tưởng hay một vật nào đó để định trí vào, và ở bước đầu tiên người ta phải loại bỏ tất cả các điều gì khác ra ngoài cái trí, phải loại cái làn sóng của tư tưởng xa lạ đối với đề tài này khi chúng lần lần hiện ra trong trí, giống như những hình ảnh lấp loáng của màn hát bóng vậy. Ở trong những giai đoạn đầu thì phần nhiều học viên phải tập luyện theo cái cách cứ loại bỏ mãi những tư tưởng và đấy là một cách rèn luyện rất tốt, nên tập nhiều. Nhưng còn có một phương pháp khác hợp lý hơn, để có thể định trí được: ta hãy hết sức thích thú đề tài, hãy đắm mình vào đó cho đến nỗi mọi tư tưởng khác phải biến đi trong trí. Ðiều này chúng ta vẫn thường làm luôn trong đời sống hằng ngày mà không biết, vì đã quá quen thuộc đi rồi: khi cần viết một lá thư, tính toán sổ sách, quyết định một điều gì quan hệ, khi phải giải quyết một vấn đề thì trí ta bị những sự việc đó thu hút hoàn toàn cho đến nỗi ta ở trong trạng thái định trí ít hay nhiều. Học viên phải tập được cách định trí như vậy mỗi khi y muốn và cái phương pháp tốt nhất để thành công là nên tập nhận xét và chú ý vào những đồ vật ở ngoại giới.
Học viên hãy lấy bất cứ một đồ vật nào, một cây viết, một tờ giấy chậm, một bông hoa, một lá cây, rồi y hãy ghi nhớ lấy tất cả chi tiết bên ngoài về hình thể, cách cấu tạo mà thường không ai để ý đến, y hãy kê khai và xếp loại các đặc tính và rồi y sẽ thấy ngay rằng đấy là một sự luyện tập rất thích thú. Nếu y có thể lấy tư tưởng mà phân tách hay tổng hợp cái cách chế tạo hay phát triển của đồ vật thì lại còn hứng thú hơn nữa. Thật ra thì trong thiên nhiên, không có cái gì gọi là đáng nhàm chán cả; khi ta nhàm chán một cái gì, đó thường do lỗi tại ta không biết cách chú ý nên ta không thưởng thức vẻ kỳ diệu cùng sự đẹp đẽ của vật đó.
Muốn dễ định trí, ta hãy tập nói to lên tất cả những tư tưởng hiện ra trong trí; thí dụ: “ cây viết này màu đen; ở một vài chỗ nó phản chiếu ánh sáng tự nơi cửa sổ chiếu đến, cây viết này hình ống tròn, dài mười lăm phân tây, trên mặt nó có những sọc chéo: hình vẽ có những đường nét rất khít nhau, trông giống như những nhánh cây...”, tùy theo ý muốn của mình.
Theo cách đó, học viên học được cách loại bỏ ra khỏi trí mình cái thế giới rộng rãi bên ngoài để tự giam mình trong một thế giới nhỏ bé hơn mà chính y đã lựa chọn. Khi y thành công thì lúc đó y đã tương đối biết định trí ở một mức nào rồi, vì dĩ nhiên là còn sót lại nhiều tư tưởng tạp nhạp khác lởn vởn trong óc, tuy rằng tất cả đều liên quan đến cây viết này. Vì nói lớn tiếng nên y đã làm cho dòng tư tưởng chảy chậm lại và ngăn cản không cho cái trí ra khỏi đề tài. Do sự luyện tập học viên sẽ lần lần học được cách thu hẹp hơn nữa cái phạm vi của tư tưởng mình, mãi cho đến khi có thể thật định trí vào một điểm duy nhất.
Sự luyện tập nói trên có phần nào giống một bài tập thể thao; cần phải cố gắng thật nhiều và ngoài ra nó còn có vẻ khô khan, đáng nhàm chán vì nó không khêu gợi mối xúc cảm nào cả.
Vì thế nên cùng trong một lúc, chúng ta có thể tập một lối định trí khác nữa, nhưng trước khi miêu tả phương pháp này, cần phải nói rằng học viên phải khá thành thạo về cách tập định trí như trên đã nói. Học viên phải khá khéo léo trong cách luyện tập nói trên, rồi mới có thể thành công trong việc nhắm mắt mà tưởng tượng ra đồ vật làm sao cho thật đúng sự thực (visualisation): đó là cái khả năng có thể vẽ lại trong trí mình một đồ vật nào đó, với tất cả những chi tiết, tuy ta không có sẵn ngay vật ấy ở trước mắt. Ngoài ra, sự tưởng tượng làm sao cho đúng này là một phần cố hữu cần thiết cho rất nhiều công việc mà những sinh viên thành thạo về các cách thức huyền bí học cần phải làm; thí dụ như tự ý tạo ra những hình tư tưởng hay là tạo ra những dấu hiệu trong chất trí khi đang hành lễ.
Vì vậy người học viên thật đứng đắn sẽ không bỏ bê ngành hoạt động này, lấy cớ rằng nó khó khăn và đòi hỏi nhiều cố gắng. Y phải học ngay cách vẽ trong trí hình dáng những đồ vật, học nhận xét và coi kỹ rất tỉ mỉ một đồ vật rồi nhắm mắt lại, cố gắng vẽ ra hình ảnh của vật ấy trong trí mình.
THAM THIỀN VỀ MỘT ÐỨC TÍNH
Cái phương pháp thứ hai mà chúng tôi vừa nói thì thường chủ trương sự định trí vào một tư tưởng chứ không phải vào một đồ vật hữu hình. Nếu học viên lựa chọn một đức tính để tham thiền thì có điều ích lợi là y khêu gợi được ở nơi mình tấm lòng hứng khởi và lòng mộ đạo, đây là một điểm rất quan hệ trong những giai đoạn luyện tập đầu tiên; sự bền chí và kiên nhẫn của học viên được mang ra thử thách rất nhiều. Hơn thế nữa, kết quả của sự cố gắng này là làm cho cái đức tính đang tập luyện được thấm nhuần vào tính nết của học viên. Ở trường hợp này thì sự định trí chỉ nhắm vào tình cảm và không còn có tính cách hoàn toàn thuộc về lý trí nữa. Học viên cố gắng tạo ra ở nơi mình cái đức tính mà y đã lựa chọn, thí dụ như lòng thiện cảm, và khi y cứ dùng sức mạnh của ý chí mà trì chí mãi vào cái tính tốt duy nhất đó, thì rồi với thời gian, y sẽ thành công và cảm thấy mình quả thật là có lòng thiện cảm. Tập trung cảm tình của mình vào một điểm duy nhất thì dễ dàng hơn là tập trung tư tưởng mình vào đó, vì tư tưởng thì tinh vi, tế nhị hơn, hiếu động hơn và khó cầm giữ hơn; nhưng nếu ta thành công tập trung rốt ráo cảm tình lại, thì rồi cái trí cũng theo đó mà được tập trung lại một phần nào.
SỰ THAM THIỀN
Sau khi đã học hỏi như vậy về sự định trí, bây giờ chúng ta có thể đi vào cái phần thứ hai của vấn đề, nghĩa là sự tham thiền thực sự. Tham thiền nghĩa là xem xét về một vấn đề, xem xét nó về đủ mọi mặt, đủ mọi hình thức, trong đủ mọi mối liên quan.
Thật ra thì giai đoạn tham thiền không tiếp theo ngay giai đoạn định trí vào một điểm duy nhất mà chúng ta vừa nói ở trên: khi cái trí định lại được phần nào để xua đuổi ra ngoài mọi tư tưởng xa lạ với vấn đề duy nhất được mang ra tham thiền ngay. Tuy nhiên, sự định trí thật sự thì cần thiết để có thể tiến tới mọi phương pháp tham thiền khác.
Nói vài dòng về sự tham thiền thì không lợi ích gì, chúng ta hãy đi ngay vào vài phương pháp tham thiền thực hành, như vậy bản chất và phương pháp của sự tham thiền được giảng giải rõ ràng hơn là những lý thuyết suông.
Vừa rồi chúng ta đã nói đến lòng thiện cảm, vậy chúng ta hãy lấy đó làm đề tài tham thiền
THAM THIỀN VỀ LÒNG THIỆN CẢM
Nên nghĩ rằng lòng thiện cảm cũng là một thuộc tính của lương tri Thượng Ðế, đứng ngang hàng với mọi đức tính khác. Rồi cố gắng hiểu cái bản chất và lòng thiện cảm trong thế gian. Nên coi đó như là một sức mạnh nối liền hai cá nhân riêng biệt. Khi so sánh lòng thiện cảm với tình thương thì ta thấy lòng thiện cảm bao gồm cái khả năng có thể hiểu biết kẻ khác và đặt mình vào địa vị kẻ khác; còn ở tình thương thì không bắt buộc phải có sự thông cảm đó, vì tình thương có thể chỉ là một ý nồng nhiệt muốn hiến mình cho kẻ khác, và tình thương này sẽ trở nên hoàn hảo hơn khi một sự hiểu biết đầy thiện cảm bổ túc cho nó. Ngoài ra, để nói cho rõ hơn, lòng thiện cảm phải có một duyên do bên trong thúc đẩy, đó là tình thương vậy.
Hãy tưởng tượng lòng thiện cảm của Thượng Ðế được ban rải khắp thế gian nhờ sự trung gian của con Người Lý Tưởng - Ðức Christ hay Ðức Chơn Sư - lòng thiện cảm này nhắm bủa rải lên chính Chơn Ngã của chúng ta.
Khi đã tiến đến mức độ này rồi, học viên phải do một ước nguyện mãnh liệt và có hiệu quả mà đắm mình vào cái dòng ảnh hưởng tuyệt vời này phát sinh tự nơi Ðức Chơn Sư và như thế y được tiếp xúc ngay với Ðấng mà y thờ phụng (có thể rằng lúc đó y đạt được trạng thái của sự chiêm ngưỡng). Lúc đó, y phải nghĩ đến sự thực hành lòng thiện cảm trong đời sống hàng ngày, trong khi y giao tiếp với bạn bè thân yêu, cũng như với những kẻ mà y cần phải đối đãi một cách hòa thuận hơn, y hãy lần lượt tưởng tượng ra mỗi người bạn và ban rải cho mỗi người cái ảnh hưởng thiện cảm tự cõi cao đã bủa rải xuống cho y. Dưới đây, còn có cách tham thiền khác, khó hơn dành cho những ai không thể định trí lâu vào tư tưởng duy nhất 
Học viên phải nâng cao tư tưởng mình lên và nhìn ngắm sự rộng rãi bao la của vũ trụ. Hình ảnh bầu trời đầy sao, cái ánh sáng êm dịu của buổi hoàng hôn hay cái ý niệm về vũ trụ càn khôn được chứa đựng trong hạt nguyên tử vô cùng nhỏ bé; các điều đó sẽ giúp y trong việc nâng cao tư tưởng lên; khi muốn lên cao, nếu y muốn thì y có thể theo phương pháp nói trên, đi từ thể thấp đến thể cao hơn (xác, vía, trí...). Rồi nhờ một ước nguyện tối cao, y hãy hướng tư tưởng lên Ðức Thái Dương Thượng Ðế và tưởng rằng toàn thể Thái Dương Hệ đều nằm trong ranh giới của lương tri Ngài: “ Chúng ta sống, cử động, và tồn tại ở nơi Bản Thể Ngài”. Rồi y sẽ hướng tư tưởng vào cái ý niệm đã được nói đến trong tập sách nhỏ này của bà Annie Besant: “ Những trạng thái của tâm hồn” (On Moods) [5]. Dĩ nhiên là người ta cứ tưởng tượng rằng những nhân viên cao cấp nhất trong Quần Thiên Hội thì rất xa cách chúng ta, cái nguyện vọng rụt rè của chúng ta khó lòng mà tiếp xúc được với các Ngài, vì các Ngài rất xa lạ đối với những chuyện bé nhỏ vụn vặt của con người: sự thật thì trái ngược lại, vì chúng ta thường được tiếp xúc một cách chặc chẽ nhất với Lương tri của Thượng Ðế bao gồm vạn vật.
Học viên hãy tự giúp mình bằng cách tưởng tượng rằng khi cái xu hướng tinh thần càng nảy nở nơi y thì cái vòng hào quang nơi y cũng được lớn lên lần lần. Y hãy tưởng tượng đến vòng hào quang của con người tầm thường, vòng hào quang của những người học trò và đệ tử đã được điểm đạo, vòng hào quang của Chơn Sư và những sự tiếp xúc chặt chẽ giữa lương tri Chơn Sư và lương tri các đệ tử Ngài, cùng với những kẻ khác mà Ngài hằng giúp đỡ; học viên hãy nghĩ  đến hào quang của Ðức Phật; theo tục truyền thì hào quang này rộng đến tám cây số xa chỗ Ðức Phật đang ngồi. Do tư tưởng, y lần lần đi lên cao như vậy, rồi sau cùng có thể tưởng tượng đến Ðấng Cao Cả mà hào quang hay phạm vi của lương tri Ngài bao gồm cả toàn thể địa cầu của chúng ta, và một Ðấng Cao Cả hơn thế nữa thì có hào quang bao trùm suốt cả Thái Dương Hệ chúng ta. Thật là rất đúng khi ta nói rằng mỗi việc làm, mỗi tư tưởng của chúng ta đều là một thành phần của chính Ngài; trí nhớ của chúng ta cũng là một phần trí nhớ Ngài, vì trí nhớ này không phải chỉ gồm có những kỷ niệm mà thôi; nó còn có thể tiếp xúc với những hình ảnh làm bằng chất Tiên thiên khí (clichés akashiques) trong thiên nhiên nơi đó Thượng Ðế tự biểu lộ.
Lúc ấy học viên sẽ nghĩ đến vài ba tính tốt mà người ta có thể coi như là các thuộc tính của Thượng Ðế được biểu lộ xuyên qua vũ trụ của Ngài - tính Công bình, sự Mỹ lệ, tình Thương yêu. Y sẽ tưởng tượng xem tính Công bình này của Thượng Ðế Tối Cao tự biểu lộ ở nơi những định luật bất di dịch của thiên nhiên, định luật giữ gìn năng lực, định lý của ông NEWTON chủ trương rằng sự hành động và sự phản động thì mạnh yếu bằng nhau và đi ngược chiều nhau. Học viên hãy nghĩ  đến lòng tin thực sự về Nhân quả  phải biết rằng kẻ nào giơ tay giáng mạnh đánh ta một cái thì chính là cái dĩ vãng của ta được sống trở lại đó  và nhờ những tư tưởng ấy, y hãy bình thản chịu đựng những gì xảy ra với y hiện giờ hay có thể xảy ra sau này. Y cũng hãy nghĩ đến vô số những sự giao thiệp trói buộc người này với người khác, đến cái lưới Trời nó là Thiên cơ trong Vũ trụ, và y hãy nhìn thấy cái định luật bất di dịch của sự công bằng tuyệt đối ở nơi những mối giao tiếp rắc rối phức tạp đó.
Rồi đi vào phạm vi của sự Mỹ lệ, y có thể học hỏi về sự toàn hảo của Cơ Trời, cái Cơ của Thượng Ðế, Ngài là vị Kiến Trúc Sư Cao Cả gây dựng Vũ trụ, rồi y hãy xem xét một cách hết sức chăm chú tất cả vạn vật thiên nhiên đã được tạo ra và y sẽ có thể nhận thấy cái tính phổ biến đại đồng của cái vẻ Mỹ lệ hay Ðiều hòa của Ðấng Tối Cao.
Rồi y hãy rời bỏ cái vẻ đẹp của Thiên nhiên, y đừng nhìn ngắm nó nữa và hãy nhìn ngắm cái vẻ đẹp trong các việc làm của con người, có thể dùng trí tưởng tượng mà bay lên cao và ngắm các tác phẩm mỹ thuật của con người rất gần cận với phạm vi Mỹ lệ Thiêng liêng của Thượng Ðế. Vì thật ra những vật liệu mà bàn tay của nhà nghệ sĩ đã nhào nặn nên, thì cũng chứa đựng những quyền năng Thiêng liêng của Thượng Ðế trong Thiên nhiên. Cho nên về âm nhạc, các âm thanh kết hợp lại thành những tòa lâu đài hùng vĩ, phản chiếu xuyên qua biết bao nhiêu màu sắc, những nguồn thần lực khuôn mẫu của Thiên nhiên, nhờ sự trung gian của các Thiên Thần Âm Nhạc, tỏ lộ cho con người thấy mãnh lực của Tiếng Thánh Ngữ Ẩn Tàng và giúp con người đi trở về nước Thiên Ðàng tức là Di Sản Thiêng Liêng của y.
Tất cả những mối giao thiệp của con người tràn đầy tình thương yêu, trìu mến đều phát sinh tự tấm lòng từ bi của Ðấng Tối Cao. Ðối với con mắt của tinh thần thì vẻ đẹp của người đàn bà không khêu gợi những dục vọng ô trược, nhưng lại khiến ta kính trọng ở nơi nàng một đứa con của Thượng Ðế và một phản ảnh của cái vẻ Mỹ Lệ Tối Cao của Ngài. Trong khắp vũ trụ, chỉ có một tình thương yêu duy nhất mà thôi, Thượng Ðế Ðấng Từ Phụ Thiêng Liêng, mang giao phó tình thương này cho các con của Ngài giữ gìn, đó là cái thần lực nguyên thủy duy nhất; trong cái trạng thái sáng tạo sơ khai của nó, thì nó đã phát sinh ra vô số hình hài, và ở trong trạng thái cao siêu nhất của nó, thì nó đã hợp nhất các linh hồn lại bằng cách thu hút chúng vào sự hợp nhất và sự duy nhất của Ðời Sống Ðộc Nhất Vô Nhị.
Mới thoạt đầu thì những cách tham thiền mà chúng ta vừa mới nói ở trên có thể chỉ là những cách luyện tập có tính cách lý trí, chúng có hứng thú nhiều hay ít đối với người mới bắt đầu muốn học tham thiền, đó là tùy theo khuynh hướng và bản chất của học viên; những sự tập luyện như thế có thể khêu gợi tình cảm đến một mức độ nào. Nhưng khi y càng kiên tâm cố gắng và đi sâu hơn nữa vào những vẻ kỳ diệu và sự đẹp đẽ của những ý niệm cao cả mà y đang chiêm ngưỡng thì rồi lần lần y sẽ hoạch đắc được phần nào cái kinh nghiệm tinh thần cá nhân nó bắt được một cái cầu chạy ngang qua vực thẳm ngăn cách con người khoa học với con người Minh Triết, và rồi y sẽ cảm nhận được phần nào sự an lạc nội tâm, sự hứng khởi của tâm hồn mà Thánh ALPHONSE DE LIGUORI đã nói khi Ngài định nghĩa  “Sự tham thiền giống như một lò lửa đầy ơn phước trong đó những linh hồn được bừng cháy vì Tình Thương yêu Thiêng Liêng của Thượng Ðế”.  Sự tham thiền làm điều hòa những thể của chúng ta (chúng ta thường làm việc với các thể ấy, sự tham thiền cũng khiến cho ánh sáng của tinh thần bủa rải xuống để soi sáng những góc cạnh tối tăm của lương tri ta trong khi ta thức chớ không ngủ. Sự tham thiền khiến cho phàm ngã ta bớt xao động kể cả trí khôn, những mối xúc động cùng sự hoạt động không ngừng của khối óc và khi làm cho các thể thấp rung động theo cùng một điệu nhịp, thì sự tham thiền cũng khiến cho Chơn nhơn ảnh hưởng đến Phàm nhơn. Khi học viên càng đi xa mãi như thế để càng có nhiều kinh nghiệm tinh thần, thì y sẽ thấy mở rộng ra trước mắt nhiều trạng thái tâm linh khác nữa.
Y giữ cho nguyện vọng của y được gắn chặt với lý tưởng y, rồi y sẽ lần lần nhận thức được cái ảnh hưởng của lý tưởng này bủa rải lên y; và nếu y hết sức cố gắng để đi lên tới Ðấng mà y hằng mộ mến thì cánh cửa Thiên Ðàng sẽ hé mở trong chốc lát: y sẽ được hợp nhất với lý tưởng của y và khi thực hiện được lý tưởng này rồi thì sự chói chang huy hoàng sẽ chảy tràn trề vào y. Ðó là những giai đoạn của sự Chiêm Ngưỡng và sự hợp nhất. Chiêm ngưỡng là sự cố gắng để vươn lên cao, sau khi đã vượt khỏi những hình ảnh cụ thể của cái trí; còn sự hợp nhất là sự thực hiện được cái trạng thái xuất thần khi những giới hạn của Phàm ngã và cả cho đến cái bóng mờ của sự chia rẽ đều bị tiêu tan đi trong sự hợp nhất hoàn toàn giữa mục tiêu và kẻ đi tìm kiếm. Không sao có thể miêu tả một các tỉ mỉ hơn những kinh nghiệm như thế, vì chúng vượt khỏi mọi khả năng của ngôn ngữ. Những từ ngữ thì có thể được sử dụng như những tấm bảng dùng để chỉ đường, để chỉ dạy về đường dẫn tới những cảnh huy hoàng tuyệt diệu và để chỉ dẫn phương hướng cho kẻ hành hương biết lối mà tiến bước thôi  
II
ÐI TÌM CHƠN SƯ
Những đường lối tham thiền vừa phác họa ở trên sẽ là cái nền tảng chắc chắn cho người mới bắt đầu tu học; nếu được thực hành một cách siêng năng, đứng đắn thì những cách tham thiền này nhất định sẽ mang lại những kết quả tốt đẹp. Dĩ nhiên là cái giá trị của những kết quả này là tùy thuộc vào người hành đạo. Nhưng người ta biết lợi dụng một vài sự dễ dàng dành riêng cho các hội viên Hội Thông Thiên Học thì người ta có thể thu ngắn lại các thời gian nhập đạo, tức là thời gian bước vào đời sống nội tâm với những kinh nghiệm tinh thần.
Trong nhóm những hội viên này, người hội viên đứng đắn chẳng bao lâu sẽ nhận thấy cái chìa khóa chánh đại của cả tòa lâu đài tinh thần của chúng ta nằm ngay trong cái ý niệm về Chơn sư; chính thần lực của các Ngài là nguồn sống của Hội Thông Thiên Học. Người ta nói rằng hội được thành lập bởi các vị Chơn tiên trong Quần Thiên Hội để các Ngài sử dụng một cách đặc biệt trong thế gian. Nếu điều này đúng thực thì các hội viên Hội Thông Thiên Học gặp được những cơ hội tốt đẹp, vô cùng sáng lạn huy hoàng; vậy người mới nhập hội hãy tự mình chứng minh lấy cái sự thực quan trọng này, cũng như các hội viên khác cũng đã chứng minh được như thế từ trước.
Nhắc lại lời của một vị Chơn Sư, bà BESANT nói khi một người trở thành hội viên Hội Thông Thiên Học, thì y được nối liền với vị Chơn Sư bằng một sợi dây mảnh mai. Sợi dây là con đường liên lạc với Chơn Sư, được làm bằng chất từ khí; do sự cố gắng anh dũng, lòng tận tâm và công việc phụng sự vô tư lợi, học viên có thể làm cho sợi dây đó mạnh mẽ và nở rộng ra cho tới khi nó trở thành một vệt sáng linh động. Các Chơn Sư thâu nhận làm đệ tử người nào có những đức tính đặc biệt cần thiết. Người học viên đứng đắn chẳng bao giờ nên nản lòng vì thấy ít người có cái đặc ân quí hóa ấy, vì Chơn Sư chú ý đến rất nhiều người, tuy họ còn lâu mới tiến đến cấp bậc đệ tử được; thỉnh thoảng Ngài vẫn giúp họ một cách tổng quát hay là một cách chú ý đặc biệt. Quả thật là người ta nói rằng thần lực của Chơn Sư hoạt động một cách liên tiếp ở phía sau Hội Thông Thiên Học, cho nên các hội viên muốn thu nhận lấy thần lực này thì họ có thể trở thành những con kênh để thần lực chảy xuyên qua, khiến họ có thể nhân danh các Ngài mà làm được những công việc vĩ đại hơn là nếu họ làm việc tự sức họ.
Người học viên đứng đắn đã hiểu được tất cả những điều này thì y phác họa chương trình tập luyện nơi nội tâm y, chắc chắn y sẽ coi sự đi tới Chơn Sư như là một lý tưởng tối cao, có thể đạt được nhờ lòng ước nguyện thiêng liêng của y. Y sẽ đến Chơn Sư bằng cách nào? Trước hết, y phải phụng sự một cách chân thành và siêng năng  trong đời sống riêng tư hằng ngày cũng như trong Hội Thông Thiên Học, một tổ chức của Chơn Sư ở cõi trần. Ðó là điều dĩ nhiên; lát nữa chúng ta sẽ trở về với vấn đề này; nhưng rồi học viên phải tiến bước như thế nào?
Các bước kế tiếp của y thì tùy thuộc vào bản tính y. Y có thể tưởng tượng ra một con người lý tưởng, thu gồm nơi mình những tính tốt và những nét đặc biệt về đức hạnh mà y ưa thích nhất; y cố gắng nhân danh con người lý tưởng này mà hành động; trong khi tham thiền, y cố gắng tiến lên con người lý tưởng ấy. Vài ba người còn lựa chọn một phương pháp cụ thể[6] hơn: họ cố gắng tiến đến các Ðấng Cao Cả bằng cách giao tiếp với những học trò và những vị đệ tử đã được điểm đạo của các Ngài ở cõi trần.
Thí dụ chúng ta hãy chọn những người đã được toàn thể nhìn nhận là những vị lãnh đạo phong trào Thông Thiên Học. Nhiều người trong số chúng ta đều coi các vị lãnh đạo này là các vị đại diện của các Chơn Sư, các Ngài đang đứng ở phía sau Hội; các vị đại diện này là những con kênh xuyên qua đó cái ảnh hưởng mãnh liệt của các Ngài được ban rải xuống Hội. Thật ra thì một số người không ưa thích cái thái độ “Tôn thờ anh hùng cá nhân”, không thích mến mộ, thờ phụng những con người; than ôi, nguyên do của sự không ưa thích này là những sự thất vọng đã trải qua trong dĩ vãng, là những mối hy vọng đã bị cắt đứt; còn ở nhiều trường hợp khác thì sự không ưa thích tôn thờ cá nhân này là một khuynh hướng cố hữu tự nhiên của tính người. Quả thật là như vậy đó, con người thường có nhiều điều khuyết điểm: dĩ nhiên là học viên không nên bắt chước những khuyết điểm này, mà cũng chẳng nên chú ý quá đến chúng mà trở nên bối rối, vì cái điều mà học viên tôn thờ ở cõi hữu hình này, đó chẳng phải là cái lý tưởng thuần túy thôi hay sao? “ Há các ngươi lại chẳng biết rằng thân thể các ngươi là đền thờ của Ðức Thánh Linh ngài đang ngự nơi các ngươi và chính Thượng Ðế đã ban phát Ðức Thánh Linh đó cho các ngươi hay sao?” (Thơ gởi cho dân cư thành CORINTHE, VI,19).
Những nét đặc biệt mà chúng ta tán thưởng ở nơi một người thì đó chính là sự biểu lộ của Thượng Ðế chiếu diệu xuyên qua y, và sự thán phục của chúng ta có nghĩa là nội tâm ta đã đáp ứng, đã trả lời sự kêu gọi của cái lý tưởng mà chúng ta thấy đang tỏ lộ nơi kẻ khác. Vậy chúng ta có thể không cần biết đến những tật xấu của đồng loại; chúng ta có thể biết ơn mỗi khi nhận thấy được ở nơi họ những tia chớp nhoáng của Aùnh Sáng Thiêng Liêng; nhưng chúng ta không phải đi quá mức, mà cũng đừng đặt để họ lên bệ thờ.
Phương pháp đi tìm kiếm Chơn Sư có một điều lợi ích là nó mang lại cho học viên một lý tưởng mà y có thể luôn luôn chiêm ngưỡng được, một lý tưởng rõ rệt mà y có thể rờ mó được. Nhiều người giống như thi sĩ Lamartine, họ kêu lớn lên rằng họ cần phải có một vị Thượng Ðế gần cận, có cá tính, một Thượng Ðế với những cánh tay có thể ôm lấy nhân loại đau thương, một vị Thượng Ðế mà những kẻ tội lỗi đang hối hận có thể ôm bàn chân Ngài mà hôn được.
Theo một đường lối khác, cũng cái tư tưởng nói trên đã được thường diễn tả trong câu này mà mọi người đều biết:” Kẻ nào không thương yêu người anh em của nó mà nó thường trông thấy, thì làm sao nó có thể thương yêu Ðức Thượng Ðế mà nó chưa hề trông thấy bao giờ?” (Phúc âm theo Thánh Jean, IV, 20). Mỗi người đệ tử hoặc người chí nguyện muốn được điểm đạo, đã được Chơn Sư thâu nhận đàng hoàng, và cao hơn nữa, mỗi kẻ thắng trận đã bước qua cánh cửa điểm đạo thì đều là một con kênh để cho ảnh hưởng của Chơn Sư chảy xuyên qua; người ta có thể đi đến Chơn Sư nhờ sự trung gian của người đệ tử đó. Chơn Sư đã giao phó cho y một phần trách nhiệm rõ rệt, và người đệ tử giống như một tiền đồn của công việc của Chơn Sư tại thế gian. Vì vậy nên ai giúp đỡ người đệ tử thì chính là giúp đỡ Chơn Sư phần nào, dù rằng đó chỉ là sự giúp đỡ về những điều thật bé nhỏ, vụn vặt, thí dụ làm cho công việc của người đệ tử được dễ dàng, chăm nom về sự tiện nghi vật chất của y, không kể đến những sự việc to tát hơn nữa.
Người học viên có tấm lòng quả quyết nhất định xoay mặt về phía cái mục tiêu cần phải đạt được, thì sẽ hiểu rõ ràng sự quan hệ của tất cả các việc này. Thí dụ y có nhiều cách tiếp xúc với Bà Hội Trưởng Hội Thông Thiên Học Thế Giới. Những cuốn sách hay, những bài báo của bà viết ra, những bài diễn thuyết của bà trong phạm vi lý trí. Bức hình của bà sẽ giúp học viên khi tham thiền nghĩ đến bà và đi đến gần bà; trong suốt ngày, vào những lúc nhất định, y sẽ định trí và nghĩ đến hình ảnh bà, gởi cho bà những tư tưởng mến thương, trung thành, mến mộ, biết ơn và dũng mãnh. Tuy nhiên, y phải hết sức cẩn thận về hai điểm này: trước hết là coi chừng trong tâm trí y phải trong sạch, tư tưởng phải cao thượng, khi y nghĩ đến bà; khối óc của y cũng không được chứa đựng những tư tưởng thấp hèn và phù phiếm: vì vậy cho nên trước tiên phải dành ra vài ba phút để rửa lòng cho trong sạch và tạo ra sự điều hòa.
Ðiểm thứ hai là y phải loại bỏ mọi sự chờ đợi để được giúp đỡ, được hưởng lợi lộc hay đặc ân của bà trao lại cho, vì như thế là y đã ích kỷ. Khi tham thiền phải nhớ luôn luôn trong trí rằng nếu y muốn tiến lại gần lý tưởng để chiếm đoạt một cách tư riêng, hay để tự mình được thỏa mãn sung sướng - nếu y vô tâm mà có một thái độ muốn trở nên hùng mạnh hơn hoặc muốn có một kết quả ích kỷ - thì sự cố gắng sẽ không đem lại sự thành công trong ý muốn: điều cần thiết phải là một hành động có nguyện vọng trong sạch và vị tha, một sự hứng khởi để bay vọt lên đến Ðấng mà y thờ phụng, không có một tư tưởng nào khác với cái tư tưởng muốn tự hiến mình. Chỉ khi nào tư tưởng của học viên được thật sạch sẽ, không hề bị nhơ bẩn vì lòng tư kỷ thì y mới có thể tiến lên một mức độ khá cao để mở tâm trí đón nhận cái ảnh hưởng cao siêu chảy tràn vào.
Sự cố gắng theo đường lối này có thể mang lại một thành công rất lớn lao; vì định luật thì bất di dịch, và khi lý tưởng ở sát gần bên ta thì lòng hứng thú lại nhiệt liệt và cái kết quả cũng theo đó mà tăng tiến.
Nếu học viên giữ cho ý muốn của mình được hết sức trong sạch và nếu trong trí y, tư tưởng của y được luôn luôn hướng về phía Chơn Sư, thì một ngày kia, y sẽ nhận thấy rằng cái ảnh hưởng mà y thường tiếp xúc, dường như từ nơi đâu mà chảy xuyên qua Ðấng hiện thân của lý tưởng y, chớ không phải là ảnh hưởng này phát sinh tự ngay nơi Ðấng cao cả đó, như thế y sẽ lần lần càng ngày càng tiến lên cao để nhận thức ngay được sự hiện diện của Chơn Sư.
Như vậy, lúc thoạt đầu, đối với y thì các Chơn Sư chỉ là một ý niệm của cái trí, một kết quả tự nhiên của lý luận, trong cái hệ thống triết lý của nó nhưng rồi lần lần khi mà các thể thanh bai (vía, trí,...) của y có thể càng ngày càng đáp ứng được với những ảnh hưởng cao siêu, thì các vị Chơn Sư sẽ trở thành một sự thực linh động trong đời sống của y, một sự thực mà trái tim y và cả khối óc y cũng đều nhìn nhận và cảm thấy.