Nội dung di bút: Kỳ nữ (Trích trong Mê hồn ca) Ta thường có từng buổi sầu ghê gớm Ở bên Em – ôi biển sắc, rừng hương! Em lộng lẫy, như một ngàn hoa sớm, Em đến đây như đến tự thiên đường. Đinh Hùng |
°
Khởi hành từ trạng thái đớn đau trong tình yêu với sự dằn vặt đoạ đày ở mỗi không-gian-cuộc-sống, Đinh Hùng nhìn chòng chọc vào nó như thách đố và coi nhẹ hệ luỵ đến đỗi tưởng rằng chỉ có thế giới linh hồn là thực, kỳ dư đều mộng ảo. Có những đêm đông Hà Nội, tôi đến thăm Hùng tại căn nhà cổ nằm sâu trong ngõ hẹp ở cửa Ô Cầu Rền, chẳng cách xa phường Dạ Lạc là bao. Bước chân dò từng phiến gạch gồ ghề trơn trợt dưới lớp bùn quánh đặc. Đi qua chiếc sân đất rộng đầy cây cảnh hiện sừng sững với hình thể đục, nặng vì thiếu ánh sáng. Hương nha phiến thoáng ngát. Tôi bước lên thềm cao, căn nhà trống trải âm u dưới ngọn đèn dầu cháy leo lét ở một góc, chỉ vừa đủ soi sáng một khoảng nhỏ. Tiếng kêu vo vo của nhựa thuốc thiêu trên ngọn lửa làm tôi thấy nôn nao. Đã nhiều đêm tôi ngồi bên để nhìn các bạn vui, nhưng sao mỗi lần gặp tôi, tôi vẫn mang cảm giác rờn rợn như gặp yêu nữ. Tôi đứng yên ở dưới mái hiên nhìn vào. Trước mắt tôi, dưới làn khói mỏng như tơ, Đinh Hùng nằm nhỏ nhoi tựa đứa bé. Mái tóc nặng nề lẩn vào bóng tối. Đôi mắt tinh anh, mở nửa vời dài dại. Tôi biết Đinh Hùng đang nhập mộng. Chừng một phút sau, Đinh Hùng nhỏm dậy, cầm ấm trà màu gạch cua rót vào chiếc chén hạt mít trắng muốt đưa lên môi. Tôi nhẹ nhàng đi về phía giường. Mùi ẩm mốc quyện vào dầu lạc làm khó thở. Biết tính, Đinh Hùng không bảo tôi nằm xuống như bao nhiêu bạn khác mà chỉ mời ngồi, rồi lại thản nhiên nằm nghiêng đối diện với ngọn đèn đỏ khè ngọn bấc. Ở khoảng thời gian đó, Đinh Hùng đang đi vào Chiêu Niệm với sự nuối tiếc một hình ảnh hoang sơ man dại từ khi trái đất mới hình thành mà tất cả vạn vật đều trở thành thần tượng với vóc dáng thiên nhiên in hằn trong tâm tưởng. Vật chất đôi khi làm cho thi sĩ đớn đau nhớ tiếc khôn cùng. Tiếng khóc thê lương đòi về đáy mộ. Tấm hình hài nào đó với đường nét thanh tao, với nụ cười tắt nửa chừng, với đôi mắt lưu ly soi thấu vô cùng vũ trụ, và âm dương đòi tái hợp cuồng mê tâm tưởng! Ôi! Niềm giao ước hung tàn giữa kẻ chết, người sống, giữa cõi nhân gian và đáy mộ vực đen, giữa tiếc thương và hy vọng não nề. Đinh Hùng đi tìm tử thần bên cửa huyệt, hay “Trong giấc ngủ đẫm mùi hương phấn lạ”. Đinh Hùng phóng hồn mình vào cõi bi thương với lời van xin ứ nghẹn. Hùng cầu nguyện với tấm lòng trinh bạch như kẻ ngoan đạo nguyện cầu dưới chân đức Thích Ca hay Đức Jésus xin dâng hiến máu, tim mình cho nguồn sống thiêng liêng cao cả mà chẳng đòi nhận về ân tưởng. Trong cõi Mê cung, Hùng lạc vào với từng bước đắm say giữa “Nghìn yêu ma chung bước cõi luân hồi” với khúc hát Vong tình bay chót vót trên núi non mở hội oan hồn. Trong không gian ấm mốc, giữa vùng mê hoặc của hương nha phiến, Đinh Hùng cất tiếng ngâm bài “Tìm bóng tử thần”. Giọng của Đinh Hùng sang sảng. Ánh đèn le lói với hoa bấc rung rinh. Tiếng thơ đã làm tôi rúng động và tôi đâu ngờ, 10 năm sau, tiếng ngâm thơ đó còn vang trên làn sóng điện, tạo niềm cảm thông sâu xa giữa Thơ và cuộc sống qua hội Tao Đàn. Tôi thường đến thăm Đinh Hùng như thế, đôi khi với nhiều bạn khác. Hùng đã tạo cho mình một vị trí, vị trí đó, Hùng làm chủ suý với các người làm thơ tiến bộ tụ họp, trong số ấy có Trần Dần, Phùng Quán, Lê Văn Thanh, Bích Câu v.v… Vì dấn thân quá sớm, nhất là dấn thân vào một địa hạt phức tạp đầy dẫy ưu phiền, Đinh Hùng đốt cháy thân phận chẳng những trên đầu ngọn bấc mà còn ở men rượu và sênh phách. Đinh Hùng huỷ hoại hoa niên trong những đêm dài Dạ Lạc qua các cửa Ô, cũng như đắm chìm vào đáy ly nồng đắng. Ở tuổi hoa niên, tôi quen nhiều bạn biết uống rượu, nhưng chưa thấy ai uống hào bằng Đinh Hùng và Văn Cao. Riêng Đinh Hùng có thể uống hai lít đế, không cần đồ nhắm. Vì thế, Hùng mới có gan đối ẩm với Tản Đà hằng nửa ngày trời. Trong tháng ngày kháng chiến lênh đênh, chúng tôi gặp nhau ở chợ Đại thuộc Khu 3. Tôi và Hùng ngồi trong một quán nước. Hôm đó, không nhằm phiên chợ nên thật vắng vẻ. Những con đường bùn lầy, hố “tăng xê” ngập nước ở hai lối đi. Những mái lá cũ kỹ nằm trên hàng cột tre già láng bóng. Hùng cao giọng đọc thơ, những vần thơ mà kháng chiến không chấp nhận. Tôi gọi hai cút rượu uống cho ấm lòng. Chúng tôi vừa uống vừa thảo luận về thơ và nhắc đến Hà Nội mến thương cách trở. Chúng tôi gọi tên từng người bạn với u hoài kỷ niệm. Hùng kêu rượu nữa, rồi cho tay vào túi áo lấy một gói nhỏ. Hùng nhẹ nhàng mở ra, dốc dúm bột màu nâu sẫm vào lòng chén. Tôi nhìn Hùng mỉm cười. Hùng lạnh lùng rót rượu, lấy ngón tay trỏ khuấy nhẹ rồi ngửa mặt nuốt ực một hơi. Sau chén rượu bất ngờ đó, tôi và Hùng chia tay. Nhưng bài thơ “Sông núi giao thần” của Hùng vẫn còn âm vang trong tôi như lời cầu nguyện: “Trăng ơi đừng bỏ Kinh thành Hồn Cố đô vẫn thanh bình như xưa Nhỡn tiên chợt sáng Thiên cơ Biết chăng ảo phố, mê đồ là đâu?..." Sau thời gian lang thang khắp núi rừng Việt Bắc, bệnh sốt rét đã làm tôi phải trở về Khu 3 để tiếp nối những ngày vô định. Những con người văn nghệ thuở kháng chiến như những cánh chim trời bay lạc loài khắp nẻo. Gặp nhau đấy rồi xa nhau ngay, nên mỗi lần gặp, mỗi lần thương nhớ chẳng rời. Nhân có cuộc họp văn nghệ, tôi và Hùng gặp lại nhau và cùng đi Đống Năm thuộc tỉnh Thái Bình. Lần này đi thêm hoạ sĩ Bùi Xuân Phái, người hoạ có dáng điệu khù khờ với bộ râu đỏ hoe mọc lởm chởm trên màu da trắng muốt. Tôi nhớ buổi chiều hôm đó trời mưa bụi, chúng tôi lại ngồi uống rượu chờ tối để xuống đò. Mặt Hùng xanh mướt, một phần tại lạnh, một phần vì cơ cực. Chiếc trấn thủ màu cỏ già lem luốc, rộng thênh thang không làm ấm mảnh thân gầy phủ lên bộ quần áo nâu dính bùn bạc phếch. Ba chúng tôi khề khà cho đến lúc không gian mờ đục khuất chìm vào bóng đêm. Từng đốm lửa vàng hoe cháy hiu hắt đó đây. Hùng nhìn ánh đèn với nét mặt đăm chiêu. Qua một đêm trắng nằm đò, chúng tôi lên bến Gián Khuất, đi Đống Năm, lướt qua bao nhiêu làng mạc, bao nhiêu cánh đồng và từng con đê dài thăm thẳm. Trong suốt cuộc hành trình Hùng nói rất nhiều về đủ mọi loại chuyện vui buồn. Hùng đọc thơ Baudelaire và rất thích cuộc sống của thi nhân này. Bài thơ mừng cô vợ da đen chết, Baudelaire lại được tự do, có thể lang thang uống rượu khắp nơi và ngủ ngon lành ở lề đường như con chó, làm Hùng cười sảng khoái. Sau ba ngày đêm chung vui, chúng tôi lại nắm tay nhau giã từ. Hùng ở lại Đống Năm với Vũ Hoàng Chương để dạy học. Vào năm 1949, áp lực chiến tranh mỗi ngày mỗi đè nặng vào vùng đất Liên khu 3. Những con chim trời bay tản mác khắp ngả để tìm nơi an lành trú ẩn. Thời gian trôi đi theo tiếng bom đạn cày nát quê hương đau khổ! Đến cuối năm 50, Hùng trở về Hà Nội. Cuộc sống của Hùng có thay đổi, Hùng đã lập gia đình như lập trường thi ca vẫn y nguyên. Gánh nặng áo cơm và nguồn đam mê đến chết-không-rời quấn chặt lấy thân phận nhỏ nhoi đó mà hành hạ. Thiếu thốn thường xuyên nhưng Hùng vẫn giữ nguyên phong độ của kẻ sĩ. Hùng được một số bạn thương giúp đỡ nhưng sự giúp đỡ này chỉ như những gáo nước nhỏ tưới vào một vùng hạn hán trường kỳ. Cứ như thế, như thế, Hùng sống cho đến ngày di cư vào Nam với thi phẩm Mê hồn ca làm vốn liếng và hành lý. Kể từ đó cuộc đời đối với Hùng đã phần nào đỡ khe khắt. Hùng cố gắng bằng đủ mọi cách như viết truyện dã sử dưới bút hiệu Hoài Điệp Thứ Lang, làm thơ trào phúng ký Thần Đăng, phụ trách mục Tao Đàn v.v… Cuối cùng Hùng đã ngã xuống với tiếc thương đòi đoạn và vĩnh viễn đi vào Cơn-mê-trường-dạ. Đường vào tình sử còn dài lắm, Hùng đành bỏ dở, và có mái tóc nào buồn lênh đênh cho thuyền hồn thi nhân thả mộng?... “Khi anh chết các Em về đây nhé Vị chút tình lưu luyến với nhau xưa Anh muốn thấy các em cùng nhỏ lệ Tay cầm hoa, xoã tóc đứng bên mồ…” ("Cung đàn tưởng niệm", Đường vào tình sử) Nói đến Đinh Hùng là nói đến cô đơn, là nói đến khát vọng. Nỗi cô đơn và niềm khát vọng đó in hằn trong kích thước thi ca mà Hùng đã dấn thân như người lính cảm tử. Hùng đã sống trọn vẹn và chung thuỷ đến lúc lìa đời với hướng đi tự nguyện. Bao nhiêu đau khổ, bao nhiêu mật đắng do cuộc đời trao tặng, Hùng đem thiêu trên đầu ngọn lửa và nuốt trọn vào tim phổi mình với nguồn vui ảo giác. Hùng rất mực đa tình nhưng mối tình đầu oan trái với người em họ đã thui chột nụ hoa tình ái và biến Hùng thành cuồng bạo trong mỗi suy nghĩ về tình yêu. Nói đến Đinh Hùng, không phải nói đến cái gì mới lạ, vì thi ca Việt Nam bây giờ đã vượt thoát khỏi trạng thái ước lệ, nó đi vào cõi mông mênh của Vô Thức. Từ Vô Thức nó trình bày Ý Thức Mới không hẳn là cố định nhưng, nó là thời đại chúng ta đang góp mặt. Nói về Đinh Hùng là nhắc đến một không gian cũ, là nói tới khoảng cách – ở đó – từ hiện tại trở lui về quá khứ, chúng ta vẫn nhìn rõ ánh sáng của ngọn Thần Đăng chói loà hào quang kỳ ảo. Trích thơ Đinh Hùng Tìm bóng tử thần Nàng nằm mộng suốt đêm hè dưới nguyệt, Nụ cười buồn lay động ánh trăng sao. Xa nấm mồ, chúng ta cuồng dại hết, Để yêu tà về khóc dưới non cao. Hồn Vệ Nữ lạc loài bên cửa huyệt, Xuân bi thương – ôi má thắm, môi đào! Bốn mùa trăng vào mở hội chiêm bao, Trong giấc ngủ đẫm mùi hương phấn lạ. Xa tục phố, đầy bức tranh thần hoạ, Lẫn sâu, vui, ai nhớ tuổi sông hồ? Ta biến hình, thoát khỏi trái tim xưa, Quên tâm sự, chắc đau lòng cõi Đất? Đêm huyền diệu mênh mông hồi thể chất. Dựng Mê Cung, ta bắc dịp phù kiều. Lửa tinh cầu bừng cặp mắt cô liêu, Nhịp máu đọng kiếp Vô Thường hiu hắt. Này Biển Giác: mây trời nghiêm nét mặt, Cây Từ Bi hiện đóa Ác Hoa đầu, Hồn gặp Hồn, ai biết thiện căn đâu? Xuân phương thảo cũng như Xuân tùng bách. Xin Thần Nữ tin lòng tôi trinh bạch, Đốt kỳ thư còn mộng nét văn khôi. Giữa hư không tìm lại vết chân Người, Ôi xứ Đạo có bao mùa tình tự? Trong bản hát thiêng Của bầy thanh nữ, Có ai về ngự, Giữa lòng thuyền quyên? Trong mộng trần duyên Của hồn thiên cổ, Có ai vào ngủ Một giấc cô miên? Trời ơi! Đây nguyệt vô biên Trong lòng người đẹp nằm quên dưới mồ! Ta cười suốt một trang thơ, Gặp hồn em đó còn ngờ yêu ma. Giáng Tiên đâu? Thế kỷ gian tà, Dạo chơi bình địa tưởng qua hai tần. Đi đi, cho hết dương trần, Ngày mai tìm bóng Tử thần mà yêu! Hương trinh bạch Những người gái vẫn cùng ta gặp gỡ, Cũng như em, giấu kín mộng linh hồn. Cũng đắm tình trong mắt liếc, môi hôn, Lòng chưa ngỏ cũng sẵn sàng ân ái. Ta mê muội giữa một bầy yêu quái, Biết cười vui, nói những giọng êm đềm. Và than ôi! Tàn nhẫn cũng như Em, Từng nhan sắc ngẩn ngơ hay kiều lệ. Ta đau đớn mà yêu chưa kịp nghĩ, Cả thịt xương mòn mỏi nhớ thương ai? Đời hưng vong – ôi thành quách, lâu đài Tự thiên cổ đừng buồn soi đáy nước! Vườn Lạc Hoa ngày nay không quen thuộc, Ta ngủ trong tưởng tượng vọng Đóa Hồng xa. Bước chân em đánh thức dậy tình cờ Để trông thấy buổi chiều về tiêu diệt. Em giống ai? Ta điên rồi, không biết! Nụ hôn đầu tê dại đến tâm can. Ta nhìn theo hình bóng những năm tàn, Tay sảng sốt vội ôm ghì xuân sắc. Lời em nói, ta chưa hề nghi hoặc, Tiếng em cười, ta vẫn khát khao nghe. Ta van xin từng phút mộng vai kề, Lòng tín ngưỡng cả mùi hương phản trắc. Đời ta bỏ nằm trong tay Nữ Sắc, Đêm hãi hùng nghe vẳng bước thời gian. Bóng thê lương rờn rợn ghé bên màn, Ta gục khóc, tưởng Tình Xưa ngồi cạnh. Em đã đi như bao người gái lạnh, Vẫn cùng ta gặp gỡ những đêm buồn. Say vô cùng dư vị cặp môi son, Thoảng xiêm áo, nhớ mùi hương da thịt. Ta không biết, em ơi! Không dám biết, Ai hững hờ, ai mộng với ai say? Những ai kề môi ân ái vơi đầy, Những ai nói, ai cười như hứa hẹn? Quên Tình Ái, ta phá tàn cung điện, Đi ngoài Sao thầm lặng khóc trời xanh. Xa mắt em, xa ánh sáng kinh thành, Mỗi bước chậm xót thương hồn đường phố. Ôi gác ca lâu, rèm buông, lửa đỏ! Ôi mộng xuân lả lướt những đêm tình! Cốc rượu hồng, hy vọng sáng rung rinh, Mùi son phấn khác gì hương trinh bạch? Tỉnh truy hoan, ta vẫn là sầu khách, Mảnh hồn đau lạc lõng dưới trăng tà. Kìa, xiêm đào thương nữ thoáng như hoa… Thần tụng Trước ngọn thần đăng; Chập chờn gió lốc. Lạc giữa tang thương; Hồn nào cô độc? Bao trời viễn ảnh chờ cuối quan san; Một khối thiên tư nằm trong u ngục. Lũ chúng ta: Mấy kẻ không nhà, tưởng dành bạc đức với nhân tình nên mê tràn tâm sự, có buổi vò nhung xé lụa, chưa mời giăng một tiệc đà nhắc giọng Lưu Linh; Từng giờ thoát tục, đã quyết vô tâm cùng thể phách thì đốt trọn tinh anh, đòi phen khóc nhạc, cười hoa, chẳng luyến mộng mười năm cũng nổi tình Đỗ Mục. Chiều Thăng Long sầu xuống bâng khuâng, cửa Đế Thành bỏ ngỏ, hằng gợi khi đời lạnh sương bay; Hồn Do Thái gió lên bát ngát, niềm tâm ý đi xa, luống ngại lúc trời thanh Sao mọc. Nhân thế bỏ hoài nhân thế. Ô! Bao phen dâu bể ngậm ngùi giấc mộng Châu Dương, ai đến đó xin bày riêng Ngự Uyển, còn khi Liễu ủ Đào phai; Hồng nhan để mặc hồng nhan, ôi những trận cuồng phong tan tác cành hoa Thục Nữ! Ta về đây thử đốt hết A-Phòng, này lúc thành say, lửa bốc. Mê thiên hạ vào một đêm hồng phấn, để ta quên nửa giấc u hoài; Gọi sinh linh sang từng cuộc truy hoan, cho người tránh nghìn năm oan khốc. Nhờ men phá hoại, xót giang sơn cười ngả cười nghiêng; Mượn bút tung hoành, lỗi thời thế xoay ngang xoay dọc. Hỡi ôi! Luỵ tài hoa vẫn đành đoản mệnh, có say đâu một làn hương thoảng? Có yêu đâu một nét mây hờ? Sao còn ngộ, còn điên, còn dại? Trí cảm thông mờ ngủ dưới chao đèn; Mộ nhan sắc đến nỗi vong tình, chẳng mê vì một bóng tiên qua, chẳng chết vì một bầy yêu đến, mà cũng hờn, cũng giận, cũng ghen, hồn lưu lạc mỉm cười trong đáy cốc. Chúng ta đây: Mấy lòng vương giả bơ vơ từ thuở suy vong, nửa cuộc giao tranh sầu đến tâm tình gỗ đá, kẻ phong sương, người lữ quán, dù chưa dựng kinh kỳ ảo tưởng đã xoay nghiêng gác phấn, lầu son; Từng điểm tinh anh lang thang những chiều tái tạo, bốn mùa hôn phối hiện lên thanh sắc cỏ cây, màu quân tử, nét văn khôi, tuy chẳng ơn mưa móc từ bi cũng bừng nở cành vàng, lá ngọc. Nào hiểu đâu thiên lương lúc mờ, lúc tỏ, vì hiện thân chốc chốc mỗi hư huyền, sớm rồi sớm nhớ màu xiêm mặc khách, vũ đài kia ai tỉnh với ai mê? Sao chẳng biết hình hài là có, là không? Nhưng trường mộng đêm đêm hằng thấp thoáng, ngày lại ngày thương nét mặt nhân gian, thế sự ấy nên cười hay nên khóc? Lũ chúng ta: Một đoàn đãng tử, lấy bút thơ mà phác hoạ vũ trụ chi Tình, lại truyền bá Vô Vi chi Đạo, xét giang hồ chi khí cốt thực đã nên bốn phương huynh đệ, mười dặm thân sơ; Xóm quê nhà: Trăm họ thanh bình, dùng hương phấn để hình dung Giao Đài chi Cảnh, còn vun trồng Khoái Lạc chi Hoa, ngẫm tuyết nguyệt chi ân tình thì cũng đáng một nét phù vân, nghìn vàng tơ tóc. Làng Yên Hoa tha thiết dáng yêu đào, này sân hồng lý, này mái Tây Hiên, giao những bóng bào huynh, xá muội, gần đây cũng tư thất son vàng; Chiều lưu đãng ngẩn ngơ đường xa mã, có bước hồi hương, có giờ ái mộ, chen những hồn du mục tha phương, ghé đâu chẳng giang san gấm vóc. Đồng cảm, đồng tâm, ai nói gì vong quốc hận? Vì đây cũng Cửa-Đình-Thét-Nhạc gọi hồn non nước tiêu sơ, sao chẳng muốn đeo bầu viễn thú, chở phăng lòng tới Giang Nam? Một mình, một bóng, ta gợi chi cố viên tình? Mà đó thì bên gối Dâng Hương, cảm khói trường đình man mác, vậy cứ mơ lầm tẩu vân du, hướng thẳng hồn sang Tây Trúc? Phù Dung bên phù thế, cõi nào thực cõi tiêu tao? Hồng phấn lẫn hồng trần, đâu đã vì đâu ô trọc? Ta hát mà chơi, ta sống đó tuy hư lại thực, giữa chợ đời vất vưởng bóng sầu nhân, thì bán rẻ linh hồn cho Quỷ, tìm Hỉ Thần kết bạn tâm giao; Ngươi cười cho thoả, ngươi ở đây dẫu ác mà hiền, gần cửa mộ lạc loài hồn dị khách, hãy nhập chung tinh thể với Người, dùng độc dược thử lòng thế tục. Lũ chúng ta: Xoay nhỡn tiền lại nhắm hiện thân; Lấy kỳ thư về làm sách học, Mới hay: Hồn hỡi hồn! Trời đất ngủ trong chiều khói lửa Hồn chập chờn bên cửa Dung Nhan. Gọi nhau vào cuộc bi hoan, Ta thiếu thể phách giải oan Hồn về. Hồn lại đặt cơn mê cơn tỉnh, Hồn lại bầy đêm quạnh đêm vui. Hồn xui rượu nói lên lời, Khói dâng thành ý, nhạc cười ra hoa. Hồn bắt ai tiêu ma ngày tháng, Hồn giúp ai quên lãng hình hài. Hồn từ siêu thoát phàm thai, Sầu trong tà dục, vui ngoài thiện tâm. Hồn ở khắp sơn lâm, hồ hải, Hồn sống trùm hiện tại, tương lai. Mênh mang một tiếng cười dài, Hồn lay bốn vách Dạ Đài cho tan. Hồn hỡi hồn Hồn phá hoại điêu tàn cuộc sống, Hồn điểm trang ảo mộng đời tiên, Hồn về nhập thuyền quyên, Mượn duyên bèo nước làm duyên đá vàng. Hồn thả bướm dựng làm Hồng phấn, Hồn tung hoa bày trận Hương Say. Hồn gieo phách ngọt, đàn hay, Quần hồng phấp phới Hồn bay xuống trần. Hồn mơn trớn ái ân cánh nhạc, Hồn đẩy đưa khoái lạc thuyền ca. Trắng đêm mở cặp thu ba, Mặt phai nét phấn, môi nhoà màu son. Hồn hỡi hồn! Nào đâu xứ cô đơn Hồn ngự? Nào đâu nơi lữ thứ Hồn đi? Phóng tâm ta đón Hồn về, Đắm say mỗi sớm, điên mê từng chiều. Hồn hỡi hồn! Hồn bắc nhịp phù kiêu trong rượu, Hồn gợi câu “tiến tửu” bên hoa. Hồng tô sắc mặt dương nhoà, Tiếng cười rạn cốc, lời ca nghiêng bình, Hồn ngồi với Lưu Linh cuồng khách, Hồn nhập vào Lý Bạch trích tiên. Hồn xoay đổ núi ưu phiền, Đốt tình cháy lửa cho quên Dáng Tình. Hồn nhốt trí phù sinh vào hũ, Hồn khép tay thế sự trong vò. Gào to một tiếng: Ô hô! Của ai này những cơ đồ không tên! Hồn hỡi hồn! Có Hồn đây đảo điên vũ trụ Có Hồn đây nghiêng ngửa giang san. Vắng Hồn lạnh lẽo nhân gian, Say đâu nước biển, suối ngàn mà say Hồn hỡi hồn! Hồn vốn sẵn bàn tay nhung lụa Hồn lại còn “cặp má hồng nâu”. Hồn cho đơn thuốc nhiệm mầu, Khêu lên ngọn lửa, tiêu sầu thế nhân. Hồn thấu đáo phong trần lục địa, Hồn cảm thông tình nghĩa năm châu. Mê Hồn ai phụ Hồn đâu? Cười trên nghìn cuộc bể dâu, thương đời! Hồn hỡi hồn! Ta gọi hồn chơi vơi ngọn lửa, Ta cầu hồn nức nở bài kinh, Tỏ mờ trong cõi U minh, Nghe ta Hồn hỡi có linh thời về! Mắc sinh tử, ước thề khó diệt, Tàn thịt xương, mệnh kiếp khôn soi. Về đây! Từ Cửu-Trùng-Đài, Gió âm ty lạnh hình hài thế gian. Hồn sầu bên cửa dung nhan, Ta thiêu thể phách giải oan hồn về. Thơ huyền diệu bốn bề khói toả, Nhạc dị kỳ vạn ngả Sao rơi, Về đây, Hồn hỡi! Hồn ơi! Tâm hương một nén muôn đời không tan… Cung đàn tưởng niệm Khi anh chết, các Em về đây nhé, Vị chút tình lưu luyến với nhau xưa. Anh muốn thấy các em cùng nhỏ lệ, Tay cầm hoa, xoã tóc đứng bên mồ. Em lả lướt, Em là Buồn cố kết, Tự ngày anh ra sống kiếp trần ai. Em khóc cho anh mối hận tình dài, Em nói cho anh tấm lòng cô lữ. Và em nữa, ôi Sầu-Hoài-Thương-Nữ! Anh thường mê tiếng hát của Em xưa. Những ngày vui, bóng mộng mất không ngờ, Em thân ái vẫn cùng anh tưởng nhớ. Anh quên đấy: còn người em duyên số, Em đã về chưa nhỉ? Hỡi Đau Thương! Nhớ cùng Em đối bóng mấy canh trường, Tự đêm ấy cầm tay nhau không nói… Anh tưởng niệm các Em về một buổi, Ở bên mồ, cỏ úa sắc chiều rơi. Ngược Sông Mê, bàng bạc nẻo luân hồi, Sầu rũ tóc, ngậm ngùi in khóe mắt. Anh đã thấy dáng Em Buồn cúi mặt, Anh cảm lòng vì lệ của Thương đau. Các Em sang vĩnh biệt tấm thân sầu, Các Em khóc các Em buồn lắm nhỉ? Phải xa anh, từ đây đường nhân thế, Các Em đi, phiêu bạt giữa thời gian. Và từ đây trong khe núi, bên ngàn, Các Em dạo, làm những hồn oan khổ. Anh bơ vơ lạc trên đường thiên cổ, Lạnh tâm tư, mờ tỏ ánh tinh cầu. Mất anh rồi, Các Em sẽ về đâu? Đường vào tình sử Khi tóc mùa xuân buông dài trước cửa, Khi nắng chiêm bao khẽ chớp hàng mi, Khi những con thuyền chở mộng ra đi, Giấc phiêu lưu như bầy hải điểu, Kỷ niệm trở về, nắm tay nhau hiền dịu, Ngón tay thơm vàng phấn bướm đa tình, Anh sẽ tìm em như một hành tinh, Mặc trái đất sắp tan vào mộng ảo. Trên đường ta đi, Những đóa hoa nở mặt trời xích đạo, Những làn hương mang giông tố bình sa, Những sắc cầu vồng nghiêng cánh chim sa, Và dĩ vãng ngủ trong hồ cẩm thạch Của đôi mắt sáng màu trăng mặc khách, Thời gian qua trên một nét mi dài. Núi mùa hu buồn gợn sóng đôi vai, Dòng sông lạ trôi sầu vào tâm sự. Chúng ta đến nghe nỗi sầu tinh tú Những ngôi sao buồn suốt một chu k ỳ Những đám tinh vân sắp sửa chia ly, Và sao rụng biếc đôi tay cầu nguyện. Ôi cặp mắt sáng trăng xưa hò hẹn, Có nghìn năm quá khứ tiễn nhau đi. Anh vịn tay số kiếp dẫn em về, Nhìn lửa cháy những lâu đài mặt biển. Phơi phới thuyền ta vượt bến, Từ đêm hồng thuỷ ra đi. Lòng ta dao cắt Chia đôi Biên thuỳ, Dòng máu kinh hoàng chợt tỉnh cơn mê. Chúng ta đi vào lá hoa Tình Sử, Hơi thở em hoà sương khói Đường thi. Anh đọc cho em những dòng cổ tự Ai Cập và Cổ Ly Hy. Anh viết cho em bài thơ nho nhỏ Bài thơ xanh ánh mắt hẹn tình cờ, Có những chữ Hoa yểu điệu, Không phải đại danh từ. Nét uốn đơn sơ Lưng mềm óng ả Những chữ hoa không thêu phù hiệu, Những chữ hoa không biết phất cờ. Một bài thơ Có tiếng thở dài đôi hồn tình tự, Vần điệu dìu nhau đi trong giấc mơ, Sông núi trập trùng lượn theo nét chữ, Những chữ thương yêu, Những chữ đợi chờ, Đẹp như Dáng em e lệ chiều xưa. Anh sẽ tìm em, chiều nào tận thế Khi những sầu thương cất cánh xa bay. Khi những giận hờn, khi những mê say, Khi tất cả hiện nguyên hình ảo mộng: Giọt lệ hoa niên, cung đàn hoài vọng, Và những hương thơm tình ái trao duyên. Những không gian thăm thẳm mắt u huyền, Những vạt áo bỗng trở màu sóng biển. Chúng ta đến, mùa xuân thay sắc diện, Chúng ta đi, mùa hạ vụt phai nhoà, Gương mặt mùa thu phút chốc phôi pha, Ta dừng gót chợt mùa đông tàn phế. Em hát mong manh bài ca Tuổi Trẻ, Bướm bay đầy một âm giai. Khúc nhạc lang thang như hồn Do Thái, Đại dương cồn sóng gọi tên ai? Vời vợi tên em lướt qua Hồng hải, Tiếng hát nhân ngư tuyệt vọng than dài. Chúng ta thở những hơi nồng nhiệt đới, Nghe mùa xuân nẩy lộc rợn trên vai. Có những giấc mơ lẻn vào quá khứ, Có những chiêm bao đi về tương lai. Anh gặp em tự thuở nào? Mênh mang sóng mắt Ngờ biển dâu. Núi non nhìn ta vừa nghiêng đầu Hình như hội ngộ Từ ngàn thâu. Ta tỉnh hay mơ? Chiều nay trăng khép Hàng mi sầu Hay tà dương thu Mưa rơi mau? Em ơi! Vệt nắng phù kiều uốn mình ô thước, Ta, suốt đời ngư phủ, Thả con thuyền trên mái tóc em buồn lênh đênh. Ôi chao dĩ vãng! Dĩ vãng thần linh! Một phút, một giây, nhìn ta vạn kiếp! Thầm gọi cỏ hoa sang tự tình. Lời nói bâng khuâng, bàn tay duyên nghiệp. Anh nhìn em như chiêm ngưỡng một hành tinh.