hị Pha bôi thêm tí nghệ vào mặt và chân tay, rồi sắp quang gánh, hạ cửa liếp để đi chợ.Nằm ở nhà mấy hôm, chỉ tiêu mà không kiếm ra đồng nào, chị sốt cả ruột. Nhiều lúc vật tay xuống chiếu, chị thở mạnh ra những tiếng rên rất nảo nùng thảm thiết.Bởi vậy, để được yên tâm lo việc sinh nhai, chị đã nói với bà trưởng Bạt cho cái Bống cháu bà nó bế hộ thằng Bạch, thì chị xóa công làm của chồng chị cấy cho bà mấy hôm nay mà bà còn chịu.Bà trưởng bằng lòng ngay, vì cái Bống năm nay đã lên tám, bố mẹ chết cả rồi, nó ở nhà chơi cũng thế, phải tập làm đi thì vừa. Hễ thằng Bạch nó khóc, đã có bác tư Dậu, con dâu bà, cho nó bú chực. Khi trừ xong nợ, chị Pha hứa trả cho cái Bống mỗi ngày một xu.Chồng chị chẳng nghỉ làm buổi nào cả. Cấy xong cho bà trưởng, anh định cấy đến ruộng nhà. Con nhà nông, trời cho sẵn bộ xương đồng da sắt để chống nắng với mưa. Ngày hè thiêu đốt, cũng như ngày đông tê tái, quanh năm anh phải lợi dụnh hai cánh tay nổi bắp, để đở mang tiếng con trai nhờ vợ, để được ăn ở lương thiện, và để mong đóng góp với làng cho người ta khỏi khinh.Bởi thế cũng như phần nhiều dân quê, sự biết của anh rất hẹp, sự nghĩ của anh rất gần. Nó hẹp, nó gần trong vòng lũy tre quây quanh làng. Xa hơn nữa, là cánh đồng đời đời phẳng lặng. Cuộc sinh họat mộc mạc làm anh bằng lòng sống hiền lành yên phận, không ước muốn cao xa phiền phức, sống như ông cha anh đã sống từ trước, như phần đông người làng hiện đương sống bây giờ.Mục đích cuộc đời chị Pha cũng không có gì khó hiểu. Nó theo nếp những người khác, là lấy chồng để nương tựa, buôn bán để có việc và đẻ con để nuôi.Chị Pha đặt gánh lên vai. Thấy nặng, chị biết chị vẫn còn yếu. Nhưng mặt trời đã lên cao, rọi những tia chói lọi qua khe đám lá cây. Chị nghĩ đến chồng lúc này ở ngoài ruộng. Chị được sung sướng nhàn hạ hơn, vì khi nắng khi mưa, lúc nào cũng ngồi dưới mái lều. Chị bước rảo cẳng theo đà của hai chiếc bồ rún lên rún xuống.- Này, chị Pha tôi nói cho mà biết, có về bảo anh ấy đổi tên cho thằng bé, không có chẳng ra gì với tôi đâu.Chị Pha đứng dừng lại, đặt phịch gánh xuống đất. Chị hung hăng nhìn vơ trương Thi, mặt nóng bừng bừng. Nhưng chưa nói chị đã thấy run lên, đầu choáng váng, và mệt rốc hẳn người. Định thần một lát, chị mới đáp:- Ừ đấy, cứ đặt thế đấy, nghĩ là sinh sự thì sinh sự, chứ bụt trên tòa gà nào dám mổ mắt.Trương Thi chạy ra, tay cầm thanh củi nói:- Phải, muốn sinh sự sự sinh thì rồi xem.Chị Pha nghẹn hơi đến cổ, song biết thế không làm gì nổi. Nhưng không lẽ chịu nước lép, chị giở giọng chua ngoa:- Nhà tôi không chứa nổi thổ đổ hồ, chồng tôi không ăn trộm ăn cướp, tôi không theo trai đánh đĩ không buôn lậu bán vụng, mười đời nhà đứa nào cũng không làm gì nổi tôi tốt!Trương Thi bị chạm nọc, cười gằn trỏ vào mặt chị Pha, dọa:- Ừ, mày xem tao có làm gì nổi mày không.Chị Pha căm giận toan cũng mày tao, và chửi nhau một trận đáo để, nhưng bên địch đã kéo nhau vào nhà.Sao hàng rào, bà trưởng Bạt, đứng lấp ló nhìn qua lớp lá dâm bụt can:- Thôi mà, chị Pha, một câu nhịn chín câu lành.Chị Pha uất lên, chùi nước mắt đáp:- Đấy, bà tính xem ai sinh sự trước.- Thôi, đi chợ đi, trưa rồi.Vẫn còn hậm hực, chị Pha cất gánh lên vai. Chị tiếc sao lúc nãy không cứ xông vào xé con mẹ ấy một mẻ. Nhưng chị tự an ủi:ở đời bao giờ hiền cũng gặp lành mà những kẻ gian ngoan tai quái như trương Thi, tự khắc đã có trời biết mà trị tội. Hạng ấy dứt khoát không thể giữ của bền được. Trương Thi là một tay chơi có tiếng ở làng An Đạo. Cứ một vết sẹo dài chéo trên tráng hắn cũng đủ tố cáo hắn sinh nhai bằng nghề gì. Ở tù ra hắn không ăn trộm cướp nửa, những hắn lại nấu rượu lậu. Việc ấy, cả làng biết đấy, nhưng chưa lần nào hắn bị bắt. Nhà Đoan ở cách làng có 6 cây số, cả Tây lẫn Việt Nam về sục sạo nhà hắn luôn, nhưng lần nào hắn cũng tẩu thoát được hết tang vật. Mà một khi người ta đã quay gót trở ra khỏi làng, hắn lại công nhiên nhóm bếp nấu một mẻ rượu lớn.Cả làng ai cũng kiêng hắn, vì người ta không muốn day dưa với con người ngông ngược. Hắn tưởng thế là giỏi, càng chẳng sợ, chẳng nể ai. Ông lý trưởng, ông chánh hội, cho đến cả quan nghị hách dịch là thế, mà hắn cũng chẳng coi vào đâu.Chị Pha càng nghẫm nghĩ càng căm hờn. Chị không hiểu sao những người thù nhau với hắn, không nghe ngóng đích xác lúc nào hắn làm việc phi pháp, lập tức đi với Đoan về. Chỉ cách ấy mới làm con người nham hiểm phải tuyệt nghiệp, tù tội. Mà vùng này mới được yên ổn làm ăn, thỉnh thoảng đở thấy bóng những người mặc áo vàng, xồng xộc vào làng, để họ nhũng nhiễu, có khi không khám được rượu lậu, họ đâm cả vào nhà người ta ghẹo gái.Đến chợ chị Pha chui vào lều, lấy nón quạt một lát, rồi vởi đôi bồ hàng ra bầy. Người quen kẻ thuộc ai thấy chị vắng mấy buổi, và nay bụng chị bé đi cũng biết là chị ở cữ. Với những người hỏi thăm, chị kể rành rọt cả cho nghe câu chuyện bực mình vừa rồi. Nói được như thế chị mới hả.Chẳng mấy chốc, những hộp gỗ vuông có lòng kính trên mặt đã bày la liệt trước chị, trên chiếc vỉ buồm rộng bằng cói trải xuống đất. Thực là một cuộc triển lãm về công nghệ quốc tế:khuy, phấn, pin, gim, ví, xà phòng con mèo, thuốc lá, lưu hòang, thuốc lậu Từ Ngọc Liên, cỗ bài, dầu cô ba, truyện, vân vân. Trên xà rũ xuống những áo tích cô, khăn mặt bông, pít tất và giải rút.Chị Pha ngồi trên chiếc ghế thấp thỉnh thoảng mỡ hộp trầu ra lấy một miếng để nhai cho đỡ buồn, và luôn luôn mời chào người qua kẻ lại.Nắng như quăng lửa. Càng về trưa chợ càng đông. Mùi người trộn lẫn với mùi cá, mùi thịt, theo bụi bậm xông lên.Chị Pha thấy đói bụng mỡ gói, lấy cơm nắm ra, chấm với trứng cáy.Bỗng vợ đĩ Dự hớt ha hớt hải chạy đến bảo:- Chị về nhà xem anh ấy làm sao kia kìa!Chị Pha giật mình hỏi:- Nhà tôi làm sao hở mợ?- Ai biết được, thấy người ta túm đông túm đỏ ở sân đình ấy.Chị Pha vội vàng bỏ cả ăn lẫn hàng, nhờ em dâu trông hộ, tức tốc về. Chị cắm cổ chạy quên cả mệt. Chị cố đoán mà không sao biết được việc gì.Đến đầu làng chị thấy đám đông đi về phía cổng đồng. Vì không gặp ai để hỏi nên chị cứ chạy theo, nhịn thở, nhăn mặt, ôm bụng mà chạy cho kịp. Gần đến nơi chị mới gặp một người mách:- Có ruộng chôn ở ruộng anh ấy.Tin sét đánh làm chị rụng rời tay chân. Chị hiểu ngay. Chị thấy chồng đầu không nón, mình không áo, mà mình nắng chang chang thì thương hại quá. Pha phải trói giật cánh khủyu, đầu dây chảo có người tuần cầm. Người tay đoan mặt đỏ, vẫn như mọi bận, đội mũ vải vàng rộng bìa, mặc áo sơ-mi nịt và quần cụt, chống cái ba toong thật to. Đi với người tây có hai người lính áo vàng, nón vàng, giẫm chân không, nhưng có vẻ oai vệ lắm. Sau bọn nhà Đoan thì Lý Trưởng, chánh hội, phó lý, khán thủ, hai người tuần và đến trăm người kéo nhau đi xem. Những người này đều nhìn Pha bằng đôi mắt ghê tỡm, khinh bỉ. Tự nhiên họ ghét bỏ một người bất lương, hành động trái pháp luật như kẻ cướp, kẻ trộm vậy.Nguyên Nha Thương chính trên huyện được báo tin có rượu lậu chôn ở đông An Đạo, nên phái người về. Người nhà Đoan đến làng, gọi lý trưởng ra ruộng để nhận thực, và tìm bắt chủ ruộng là Nguyễn văn Pha. Lý trưởng tuân lệnh, phán khán thủ và một tên tuần đến ruộng bà trưởng Bạt.Pha đương cấy, thấy tự nhiên có người vồ lấy mình và trói, anh sợ hãi chẳng hiểu việc gì, ngơ ngác hỏi. Nhưng không ai trả lời cả, Họ thít rõ chặt, giòng anh về nhà.Trong khi ấy lính đòan vào nhà Pha, lấy thuốn sắt nhọn chọc chẳng còn thiếu chổ nào, trong nhà, ngoài bếp đống tro, đống quần áo, chỉnh tương, mặc kệ.Lục lọi không thấy gì mọi người trở ra, thì vừa lúc tuần giải Pha đến. Biết rằng bị khám rượu lậu và chắc nhà Đoan lầm. Anh nói:- Thưa các quan tên con là Nguyễn văn Pha đấy ạ.- Phải rồi ruộng mày có chôn rượu lậu.Pha tái mét mặt nhìn sang nhà truong Thi, thấy người đứng lố nhố dòm sang rào. Anh hiểu ngay vì đâu rượu lại bò đến ruộng Anh. Anh biết tội này là quan trọng và đành chịu chứ không thể cãi oan được.Nhưng muốn anh phục nhà nước không bắt lầm ai bao giờ, người ta gảii anh ra đồng để được nhìn bằng hai mắt chính ruộng anh có rượu và ký nhận vào biên bản.Chị Pha thấy chồng oan uổng, vội chay đến trước mặt người tây đoan, chắp hai tay vái lấy vái để và khóc lóc, nói:- Lạy quan lớn quan tha cho chồng con, chồng con không biết nấu rượu bao giờ. Chẳng qua người ta thù.Người Tây trợn mắt giơ ba toong lên dọa. Hàng trăm người chạy ồ như vịt, ngã cả lên nhau. Nhưng không có gì cản nổi người đàn bà ngu xuẩn và liều lĩnh, tuy mặt người ấy nhợt nhạt vì mệt, vì sợ.- Lạy quan lớn, chồng con vẫn lương thiện không dám làm những chuyện phạm pháp. Đây, có mặt các cụ lý, cụ cánh, quan lớn hỏi ngay thì rõ.Lý trưởng quắc mắt:- Ơ hay cái chị này, việc gì đến tôi chỗ ấy. Tôi không biết đâu. Bước! Quan lớn đánh cho bây giờ.Người Tây đoan thản nhiên đánh diêm hút thuốc lá và chữa cái quai mũ. Chị Pha vẫn khóc lóc và nói lải nhải:- Nó thù nó chôn rượu vào ruộng nhà tôi.Rồi cảm động quá chị nức to lên:- Ai làm thế nào mà canh ruộng ở ngoài đồng được, hở trời! Khốn nạn thân tôi quá trời ơi.Người tính đoan xua tay đuổi.- Đi lên Hà Nội mà lý sự, đây không biết. Rồi tù mất nhà, mất ruộng.Thấy chị Pha khóc một cách lố bịch, người Tây đoan nhăn răng ra cười. Hình như hắn đã chai mắt chai tai về hàng nghìn hàng vạn tấn kịch có tiếng khóc lóc thống thiết như thế.Thấy tiếng kêu vang của mình vô công hiệu, chị Pha quay lại nói với lý trưởng và chánh hội:- Lạy các cụ, các cụ làm phúc nói với quan hộ cho. thật là oan nhà cháu quá. Có người đáng bắt thì các quan không bắt.Người lính đoan quắc mắt:- Im mồm!Chị Pha tức quá không chịu được bèn nói liền:- Các ông làm việc vô lý, chỉ bắt ức người ta thôi. Ruộng ở tận ngoài đồng, chả lẽ ra đấy mà ngồi canh suốt đời à?- Mặc kệ. Lên Hà Nội mà kêu.Từ nãy Pha không van lạy gì. Anh cũng thản nhiên như người Tây đoan, vì anh coi việc phải trói và giải đi, rồi phải tù, mất nhà, mất ruộng chăng nữa, là một việc dĩ nhiên.Ở gần nhà đoan từ thưở nhỏ, làm gì anh chẳng thấy được mắt thấy tai nghe biết bao nhiêu việc như việc này.Bởi vậy, tuy thương vợ còn yếu đuối, anh chỉ lẳng lặng mà chịu tội, còn hơn là cưỡng, là kêu, lỡ bị tát, đá đánh, thụi, lại thêm khổ vào thân nữa chứ ích gì.Pha theo người ta dẫn đến cánh Mả Giơi có ruộng mình có người lính đoan thứ ba nữa đang đứng đợi và ý chừng để canh tan vật.Bỗng chị Pha chạy vòng lên trước như có việc gì lạ vậy. Rồi tự nhiên chị quay lại, mừng rỡ, cuống quýt, chấp tay lạy người tay đoan và nói:- Lạy quan lớn, ruộng này không phải của nhà con.Cả ngần ấy mắt trố lên. Ai nấy ngạc nhiên hết sức. Pha cố nhìn, thì bỗng nhẹ hẵng người, như được sống lại.Chị Pha cười khanh khách nói:- Bẫm đấy là ruộng của quan nghị Lại ạ.Mọi người tưng bừng ngơ ngác nhìn nhau, ra ý sợ hãi. Pha tươi tỉnh trỏ ruộng bên cạnh, nói:- Ruộng nhà con đây chứ không phải ruộng ấy.Người Tây đoan hất hàm, hỏi lý trưởng. Lý trưởng và chánh hội đồng thời đáp:- Bẩm ruộng này của tên Phạm Lại thật ạ.Người ta nhúng vai, giơ ngang hai cánh tay...May quá! Pha lại lương thiện như thường.