Chính vào đêm đó, bên dòng sông, sau khi đã nói về Raymond, Indar bắt đầu nói với tôi về chính anh. Cái đêm làm tôi phấn khích lại làm anh cáu tiết và thất vọng, anh trở nên bị kích động ngay sau khi rời khỏi ngôi nhà của Yvette. Buổi tối đó, lúc trước, khi chúng tôi đi đến ngôi nhà để dự tiệc, anh đã nói đến Raymond như một ngôi sao, như người gần kề với quyền lực, người da trắng của Người Đàn Ông Vĩ Đại, nhưng rồi, bên ghềnh nước, anh nói về Raymond theo một cách khác hẳn. Với tư cách người chỉ dẫn cho tôi, Indar thật sự lo lắng trong việc làm thế nào cho tôi hiểu được bản chất cuộc sống ở Khu, và địa vị của bản thân anh ở đó. Giờ đây khi tôi đã nắm bắt được sự quyến rũ của cuộc sống của anh, anh lại giống như một người hướng lối đã mất lòng tin vào những gì mình đã chỉ dẫn. Hoặc giống một người, vì đã làm một ai khác tin, thấy mình có thể để mất đi một ít lòng tin của mình. Ánh trăng khiến tôi nhẹ nhõm lại làm anh nặng nề, và chính vì sự thất vọng đó mà anh bắt đầu nói. Tâm trạng của một buổi tiệc không còn ở lại với anh, ngày tiếp theo anh quay lại giống như mình trước đó. Nhưng rồi anh sẵn sàng hơn để công nhận sự thất vọng của mình khi nó đến, anh còn quay lại điều anh nói tối đó vào một lúc khác, khi có điều kiện, hoặc khi anh lại rơi vào tâm trạng tương tự tối đó. "Chúng ta phải học cách giẫm đạp lên quá khứ, Salim ạ. Tôi từng bảo anh vậy khi chúng ta gặp lại nhau. Quá khứ không thể khiến người ta rơi nước mắt, cả anh và tôi đều thế cả. Có thể có những nơi nào đó của thế giới – những đất nước đã chết, hoặc những đất nước an toàn và những đất nước bị bỏ quên – nơi con người có thể vui vẻ với quá khứ và nghĩ đến việc chuỷên tài sản và đồ sứ cho người thừa kế. Người ta có thể làm điều đó ở Thuỵ Điển, hoặc Canada. Một tỉnh nông thôn của Pháp đầy những người ngốc nghếch trong các lâu đài, một số thành phố - cung điện đổ nát của Ấn Độ, hoặc một thị trấn chết nào đó tại một đất nước Nam Mỹ vô vọng. Mọi nơi khác con người đều chuyển động, thế giới chuyển động, và quá khứ chỉ có thể tạo ra sự đau đớn. "Thật không dễ dàng đưa anh lại quá khứ. Đó không phải là điều anh có thể quyết định làm đúng như thế. Chính cái mà anh phải tự dựng lên, hoặc thương khóc sẽ mai phục và giết chết anh. Đó là tại sao tôi tiếp tục hình ảnh vê cái vườn bị giẫm lên cho đến khi nó biến thành đất bằng – đó là một vật nhỏ bé, nhưng hữu ích. Cách nhìn quá khứ đó đến với tôi vào cuối năm thứ ba ở Anh. Và khá buồn cười, nó đến với tôi khi tôi đang đứng trên bờ một dòng sông khác. Anh đã nói với tôi rằng tôi mang đến cho anh ở đây một kiểu sống anh luôn cảm thấy cần. Tôi cũng từng cảm thấy tương tự như thế khi đứng bên dòng sông ở London. Khi đó tôi đã có một quyết định về bản thân mình. Và chính vì kết quả gián tiếp của quyết định đó mà tôi về lại châu Phi. Thê mà khi đi tôi từng nghĩ sẽ không bao giờ trở về nữa. "Tôi rất không vui khi ra đi. Anh nhớ đấy. Tôi đã cố làm anh chán ngán – trên thực tế, tôi cố tình làm anh tổn thương – nhưng đó chỉ là vì chính tôi cũng chán ngán quá. Ý nghĩ hai thế hệ bị bỏ phí – thật là đau lòng lắm. Ý nghĩ mất đi ngôi nhà ông tôi đã xây, ý nghĩ vè những rủi ro ông tôi và bố tôi đã phải hứng chịu để xây dựng một cơ ngơi từ hai bàn tay trắng, sự can đảm, những đêm không ngủ - thật là đau lòng. Tại một đất nước khác một nỗ lực như vậy và một tài năng như vậy có thể làm chúng tôi trở thành triệu phú, quý tộc, hoặc bất kỳ thang bậc đáng kể nào cho nhiều thế hệ. Thế mà tan thành mây khói hết cả. Sự điên giận của tôi không chỉ với người châu Phi. Mà còn với cả cộng đồng và nền văn minh của chúng ta, cái đã cho chúng ta ý chí nhưng theo mọi cách đều bỏ chúng ta lại cho sự thương hại của người khác. Làm sao chúng ta có thể điên giận với một điều như vậy chứ? "Khi đến Anh, tôi nghĩ mình có thể để lại tất cả những cái đó sau lưng mình. Tôi không có kế hoạch gì hơn thế cả. Từ "đại học" làm tôi rối trí, và tôi còn ngây thơ đến nỗi tin rằng sau khoảng thời gian ở đại học một cuộc đời tuyệt diệu đang chờ đợi tôi. Ở tuổi đó ba năm là một thời gian dài – anh cảm thấy mọi điều có thể xảy ra. Nhưng tôi không hiểu nền văn minh chúng ta lan rộng đến đâu thì đó chính là nhà tù của chúng ta. Tôi cũng đã không hiểu nơi chúng ta lớn lên có thể lan rộng đến đâu, chúng ta thuộc về châu Phi và cuộc sống giản đơn bên bờ bỉên, và chúng ta có khả năng nào để có thể hiểu được thế giới bên ngoài. Chúng ta không có cách nào để hiểu một đoạn tư tưởng và khoa học cũng như triết học và luật học đã tạo ra thế giới đó. Chúng ta chỉ đơn giản là chấp nhận nó. Chúng ta đóng góp cho nó, và đó là toàn bộ những gì chúng ta có thể làm. Chúng ta cảm thấy thế giới vĩ đại chỉ đơn giản là ở đó, là cái gì đó cho những người may mắn trong số chúng ta để khám phá, và rồi sau đó chỉ ở bên lề mà thôi. Không bao giờ chúng ta có thể có được đóng góp gì cho chính bản thân chúng ta. Và đó là lý do chúng ta nhỡ nhàng mọi thứ. "Khi chúng ta đến một nơi như sân bay London chúng ta chỉ lo sao không bị rối mù lên. Nó đẹp và phức tạp hơn bất kỳ thứ gì chúng ta có thể mơ đến, nhưng chúng ta chỉ lo sao để mọi người thấy rằng chúng ta có thể xoay xở và không bị đè nát. Thậm chí chúng ta còn có thể giả vờ như chúng ta từng tưởng nó đẹp hơn thế nhiều. Đó là bản chất sự ngu dốt và sự thiếu năng lực của chúng ta. Và đó là cách tôi xử sự khi ở trường đại học tại Anh, cố sao không bị đè nát, luôn tỏ ra thất vọng nhẹ nhàng,chẳng hiểu gì hết cả, chấp nhận mọi thứ, không thu hát được gì hết. Tôi nhìn và hiểu rất ít kể cả cho đến khi kết thúc thời gian học ở trường đại học tôi chỉ có thể phân biệt những toà nhà qua kích thước và hiếm khi tôi cảm nhận được các mùa trôi qua. Và dù vậy tôi vẫn là một người thông minh, và có thể qua được các kỳ kiểm tra. "Ngày xưa, sau ba năm như thế, nhẽ ra tôi có thể trở về nhà, đứng trên bục giảng và dành tâm sức kiếm tiền, sử dụng một tí chút những kỹ năng đã thu thập được, một phần kiến thức của sách vở của người khác. Nhưng dĩ nhiên tôi không thể làm thế được. Tôi phải ở lại nơi đó và kiếm một việc làm. Tôi đã không học được một nghề, anh biết không, không có gì ở nhà đẩy tôi vào hướng đó cả. "Đôi khi những người bạn đồng học của tôi nói về nghề nghiệp và những cuộc phỏng vấn. Người ta càng sớm nói đến các cuộc phỏng vấn bao nhiêu các công ty sẽ trả nhiều tiền bấy nhiêu. Trong ngăn kéo của những người đó đầy những phong bì màu nâu từ Hội đồng việc làm trường đại học. Những người ngu si nhất cũng là những người có những trỉên vọng đa dạng nhất, họ có thể làm gì cũng được, và trong ngăn kéo của họ những chiếc phong bì màu nâu dầy cộp nhiều như những chiếc lá mùa thu. Tôi phải tìm một việc, nhưng tôi không bao giờ nghĩ mình là người có thể đi được qua cuộc phiêu lưu của những chiếc phong bì màu nâu. Tôi không biết tại sao, tôi chỉ không làm được, và khi đó, khi gần học xong, tôi xấu hổ nhận ra cái mình có. Tôi hẹn gặp Hội đồng việc làm trường đại học và một buổi sáng tôi mặc bộ áo cánh rồi ra đi. "Ngay khi tới nơi tôi biết mình lang thang không mục đích. Hội đồng muốn cho các sinh viên người Anh những công việc ở Anh, không có chỗ cho tôi. Tôi nhận ra ngay khi tôi thấy vẻ mặt của cô gái ở văn phòng nơi đó. Nhưng cô thật xinh đẹp, và người đàn ông mặc đồ đen bên trong cũng thật đẹp. Anh ta rối tinh lên với gốc gác châu Phi của tôi, và sau khi nói chuyện một lúc về châu Phi,anh ta nói "Thế tổ chức vĩ đại này có thể làm gì cho anh?" Tôi muốn nói "Liệu anh có thể gửi đến cho tôi những phong bì màu nâu như thế không?" Nhưng tôi lại nói "Tôi hy vọng anh có thể nói cho tôi biết", dường như anh ta thấy thế là buồn cười lắm. Anh ta nhìn các chi tiết về tôi, từ mẫu đơn, rồi anh ta thử tiếp tục cuộc trò chuyện, người mặc đồ cấp cao với người mặc đồ đen cấp thấp, người với người. "Anh ta không có gì nhiều để nói với tôi. Và tôi càng có ít điều để nói với anh ta. Tôi hiếm khi nhìn vào thế giới. Tôi không biết nó vận hành thế nào hoặc tôi có thể làm gì trong đó. Sau ba năm chết lặng học hành, tôi đã bị bao trùm bởi sự ngu dốt của mình, và trong cái văn phòng bé nhỏ đầy những giấy tờ hiền lành đó tôi bắt đầu nghĩ về thế giới bên ngoài như một nơi đáng tôn sùng. Bộ trang phục đen dành cho phỏng vấn của tôi trở nên bồn chồn. Anh ta nói "Chúa ơi, anh bạn, anh phải có định hướng nào chứ. Anh phải có ý tưởng nào về loại công việc anh nghĩ là anh sẽ làm chứ". "Anh ta đúng, dĩ nhiên rồi. Nhưng cái câu "Chúa ơi, anh bạn" đã ảnh hưởng đến tôi, cái gì đó anh ta có thể nhặt ra trong quá khứ tữ người ở trên anh ta và giờ đây ném vào tôi như một kẻ yếu thế hơn. Tôi trở nên giận dữ. Tôi nghĩ rằng rằng có thể nhìn chằm chằm anh ta với vẻ căm ghét tột độ và nói "Công việc tôi muốn là việc anh đang làm. Và tôi muốn làm việc của anh bởi vì anh thích thú nó lắm mà". Nhưng tôi không nói những từ đó ra, tôi không nói lời nào hết cả, tôi chỉ nhìn anh ta căm tức. Thế là cuộc phỏng vấn của chúng tôi kết thúc không có kết quả gì. "Bên ngoài tôi trở nên bình tĩnh hơn. Tôi đến quán cà phê nơi sáng sáng tôi thường đến uống. Như một sự an ủi, tôi mua cho mình một chiếc bánh sô cô la. Nhưng khi đó, trong sự ngạc nhiên, tôi nhân ra rằng tôi đang hạnh phúc ở quán cà phê vào lúc giữa ngày, uống cà phê và ăn bánh, trong khi kẻ hành hạ tôi ngập ngụa trong đống phong bì màu nâu trong văn phòng của hắn. Đó chỉ là sự trốn chạy và không thể kéo dài. Nhưng tôi nhớ nửa giờ đó của tôi đã tràn ngập niềm hạnh phúc trong trẻo. "Sau đó tôi không trông chờ gì từ Hội đồng việc làm hết. Nhưng anh chàng đó dù sao cũng là một người công bằng, một nền hành chính quan liêu vẫn là một nền hành chính quan liêu, và một ít những phong bì màu nâu đã đến với tôi, không đều đắn, không phải một phần của sự chạy đua mùa thu, làm kinh động những chiếc ngăn kéo trong nhà, mà giống như những chiếc lá rơi cuối cùng của năm, rách rời bở những cơn gió mạnh tháng Giêng. Một hãng dầu mỏ, hai hoặc ba hãng lớn khác có quan hệ làm ăn ở châu Á hoặc châu Phi. Với mỗi miêu tả công việc mà tôi đọc, tôi đều cảm thấy một sự thắt lại về cái mà tôi phải gọi là tâm hồn. Tôi tự thấy mình đang ngày càng giả dối với mình, hành động với chính mình, tự thuyết phục mình về sự đúng đắn với tất cả những gì được miêu tả. Và đó chính là nơi tôi cho là cuộc sống đã kết thúc với hầu hết mọi người, những kẻ củng cố những thái độ của mình để tự làm mình trở nên thích hợp với những công việc và cuộc đời mà người khác để lại cho họ. "Không có công việc nào trong số đó hợp với tôi. Lại lần nữa tôi thấy mình đang đùa giỡn với những cuộc phỏng vấn một cách không ý hướng. Một hôm tôi nói "Tôi không biết gì về công việc của ngài, nhưng tôi có thể để công tìm hiểu". Theo lý do nào đó điều này làm cho công việc đổ bể - trong trường hợp này đó là một hội đồng ba người. Họ cười, người già nhất cười đầu tiên, và cuối cùng chảy cả nước mắt, và họ đuổi tôi đi. Mỗi lần bị đuổi đi tôi lại có cảm giác nhẹ nhõm, nhưng mỗi lần bị đuổi tôi lại thêm lo lắng về tương lai. "khoảng một tháng một lần tôi ăn trưa với cô giáo hướng dẫn tôi. Cô khoảng ba mươi tuổi, trông không đến nỗi xấu, và rất tốt với tôi. Cô không có điều gì bất thường vì cô luôn hoà thuận với chính mình. Đó là điều tôi thích ở cô. Chính cô đã khiến tôi làm điều phi lý tôi sắp miêu tả đây. "Người đàn bà đó cho rằng những người như tôi đang trôi nổi ngoài biển vì chúng tôi là nó của hai thế giới. Cô đúng, dĩ nhiên. Nhưng cùng lúc điều đó lại không phải là trường hợp của tôi – tôi nghĩ tôi nhìn mọi thứ rất rõ ràng – và tôi nghĩ cố có ý tưởng đó từ một anh chàng nào đó từ Bombay đến hoặc ai đó đã cố tự làm cho mình trở nên hấp dẫn. Nhưng cô ta cũng nghĩ là giáo dục và nền tảng của tôi là đặc biệt, và tôi không thể chống lại ý tưởng về những điều đặc biệt của tôi. "Một con người đặc biệt, một người của hai thế giới cần có một công việc đặc biệt. Và cô gợi ý tôi trở thành nhà ngoại giao. Đó là điều tôi đã quyết định làm, và đất nước tôi quyết định phục vụ - vì một nhà ngoại giao phải có một đất nước nào đó để phục vụ - là Ấn Độ. Điều này thật là phi lý. Tôi biết nó là phi lý, dù vậy tôi vẫn làm, tôi với một lá thư đến hội đồng tối cao Ấn độ. Tôi nhận được câu trả lời và họ hẹn gặp tôi. "Tôi đi tàu hoả đến London. Tôi không biết rõ London lắm, và nó cũng không giống với điều tôi vẫn biết, sáng đó tôi rất không thích nó. Phố Praeh với những cửa hàng sách khiêu dâm chẳng giống gì với đồi trụy thật sự cả, có Edgware Road, nơi cửa hiệu và nhà hàng dường như liên tục thay đổi, có những cửa hàng và đám đông ở Oxford Street và Regent Street. Đi tới Traflagar Square khiến tinh thần tôi lên một chút, nhưng nó nhắc tôi là tôi gần như đã đi hết cuộc hành trình. Và tôi phải bắt đầu thực sự lao vào sứ mệnh của mình. "Xe buýt đưa tôi xuôi khu Strand và thả tôi xuống vòng cung Aldwych, tôi đi ngang qua đường để tới toà nhà mà người ta đã chỉ cho tôi là Nhà Ấn độ. Làm sao tôi có thể nhầm được, với toàn bộ những hoạ tiết Ấn độ trên bức tường bên ngoài như thế? Khi đó tôi rất bối rối. Tôi mặc bộ đồ màu đen, thắt ca vát của trường đại học và đi vào toà nhà ở London, một toà nhà của người Anh, tuồng như là thuộc về Ân độ - một Ấn độ khá là khác với đất nước mà ông tôi đã từng nói đến trước đây. "Lần đầu tiên trong đời tôi cảm thấy tràn ngập trong lòng một cơn điên giận thuộc địa. Và không chỉ là cơn điên giận với London hay nước Anh, nó còn là cơn điên giận vbz người đã tự cho phép mình bị lôi kéo bởi cơn mê đắm nước ngoài. Sự điên giận đó không giảm xuống khi tôi bước vào bên trong. Lại có những hoạ tiết phương Đông nữa. Những người đưa tin là người Anh tầm tuổi trung niên, rõ ràng họ được quản lý bằng một ban quản lý già nua, nếu anh muốn gọi tên nó, ban quản lý này lại được đặt dưới sự điều khiển của một dàn quản lý trẻ cấp cao hơn. Cho đến khi đó tôi chưa bao giờ cảm thấy liên quan mạnh mẽ đến thế với mảnh đất của tổ tiên tôi, của tổ tiên anh đến như vậy. Tôi cảm thấy trong toà nhà đó tôi đã mất đi phần quan trọng nhất của ý tưởng tôi là ai. Tôi cảm thấy tôi đã được trao cho sự hiểu biết tàn độc nhất về chỗ đứng của tôi trong thế giới này. Và tôi ghét điều đó. "Một quan chức cấp thấp đã viết thư cho tôi. Người tiếp tân nói với một trong những người đưa tin người Anh, và người này dẫn tôi đi, không phải với nghi lễ trang trọng, với rất nhiều tiếng hổn hển của người bị hen suyễn, đến một căn phòng có nhiều bàn. Tại một trong những cái bàn đó người đàn ông của tôi đang ngồi. Bàn ông ta trống trơn, và cả người dó cũng dường như xa vắng và có tâm trạng phơi phới. Ông ta nhỏ thó, đôi mắt vui vẻ, một dáng vẻ bề trên, và ông ta không biết tôi đã đến. "Dù mặc áo khóac và thắt ca vát lịch sự, ông ta không giống như tôi chờ đợi. Ông ta không phải dạng người tôi cần ăn mặc nghiêm chỉnh để đến gặp. Tôi nghĩ ông ta thuộc về một dạng văn phòng khác, một toà nhà khác, một thành phố khác. Tên ông ta là tên của đẳng cấp lái buôn của ông ta, và tôi rất dễ dàng tưởng tượng ra ông trong chiếc khố đang ôm một chiếc gối trong một cửa hàng vải tại một ngõ chợ, với đôi chân trần và những ngón tay mân mê ngón chân, ngồi gãi những mảng da chết. Ông ta thuộc loại người có thể nói "Áo sơ mi nhé, ông muốn mua áo sơ mi không?" và, quay lưng hẳn lại chiếc gối ôm, lôi ra một đống quần áo từ tấm vải trải trên sàn quầy hàng của mình. "Ông không bày quần áo trên bàn cho tôi xem, mà là lá thư của tôi, lá thư ông đã viết, và ông đòi xem. Ông hiểu rằng tôi đang tìm việc và đôi mắt tí hin của ông ta lấp lánh sự vui thích. Tôi cảm thấy rất ngượng ngùng trong bộ cánh của mình. Ông nói "Anh nên đến gặp ông Verma thì hơn", Người đưa tin người Anh, thở gấp, và dường như bị sốc với mỗi hơi thở, dẫn tôi đến một văn phòng khác. và tại đó ông ta bỏ tôi lại. "Ông Verma đeo cặp kính đen. Ông ngồi trong một văn phòng ít người hơn và trên mặt bàn có nhiều giấy tờ tài liệu hơn. Trên tường có những bức ảnh, từ thời anh, về những toà nhà và phong cảnh Ấn độ. Ông Verma trông nghiêm trọng hơn người đàn ông ban nãy. Chức vụ của ông cao hơn, và ông có thể dùng cái tên Verma để chứng minh đẳng cấp cao hơn của mình. Ông bối rối với lá thư của tôi, nhưng ông cũng không thấy thoải mái vì bộ cánh và chiếc cà vạt trường đại học của tôi và ông có vẻ chán ngán khi phỏng vấn tôi. Điện thoại kêu nhiều lần và cuộc phỏng vấn của chúng tôi không tiếp thục được. Một lúc, sau khi nói chuyện điện thoại, ông Verma để tôi lại và đi ra khỏi phòng. Ông đi một lúc và khi trở về, cũng một số giấy tờ, ông dường như ngạc nhiên khi nhìn thấy tôi. Ông nói với tôi rằng tôi nên đến một văn phòng khác tại một tầng khác, và lần đầu tiên thực sự để ý đến tôi, hỏi tôi đến đây bằng cách nào. "Căn phòng tôi gõ cửa là một phòng lớn tối om, với một người đàn ông nhỏ bé ngồi trước một chiếc máy chữ chuẩn kỉêu cũ với bàn phím to đùng. Ông nhìn tôi với sự kinh hoàng – đó là hiệu quả của bộ cánh và chiếc ca vát của tôi, với bộ quần áo của người thuộc hai thế giới – và ông chỉ bình tĩnh lại khi đọc lá thư của tôi. Ông bảo tôi đợi. không có ghế. Tôi phải đứng. "Một tiếng chuông gọi vang lên, và người đánh máy kiêm thư ký nhảy dựng lên. Sau khi nhảy lên, có vẻ như ông ta đứng trên đầu ngón chân, ông ta nhanh chóng điều khỉên đôi vai lên xuống theo một kiểu khúm núm, cử chỉ này khiến ông ta nhỏ bé hẳn di so với trước, và với một bước sải chân đáng ngạc nhiên bằng đầu ngón chân, một bước nhảy, ông ta đi ra đến những cánh cửa gỗ ngăn cách chúng tôi với căn phòng phía bên kia. Ông gõ cửa, mở ra, và với một dáng đi gù gù, vẻ khúm núm trước đó, ông ta biến mất. "Mong muốn làm nhà ngoại giao của tôi giờ đã tan biến. Tôi ngắm nhìn những bức ảnh khổ lớn Gandhi và Nehru và tự hỏi rằng bằng cách nào, ngoài bố cảnh nghèo nàn như thế này, những người đó lại có thể bắt người khác coi mình là người được. Thật lạ lùng, trong toà nhà giữa trung tâm London đó, nhìn thấy những con người vĩ đại theo cách mới mẻ này, từ bên trong như thế. Cho đến lúc đó, từ bên ngoài, không biết đến chúng như tôi đã đọc trên báo và tạp chí, tôi đã ngưỡng mộ họ. Họ thuộc về tôi; họ nấng tôi lền và cho tôi một chỗ trong thế giới. Giờ đây tôi cảm thấy ngược lại. Trong căn phòng đó những bức ảnh của những con người vĩ đại này làm tôi cảm thấy tôi đang ở đáy một cái giếng. Tôi cảm thấy rằng trong căn phòng này toàn bộ nhân tính chỉ được phép với những con người này và chối từ mọi người khác. Mọi người đều cúi gục trước nhân tính của họ, hoặc một phần, những người lãnh tụ của họ. mọi người sẵn lòng làm mình bé nhỏ đi để tôn vinh thêm nữa những người lãnh đạo này. Những ý nghĩ đó làm tôi ngạc nhiên và đau đớn. Chúng còn hơn là dị giáo. Chúng phá huỷ những gì còn sót lại trong lòng tin của tôi về cách thức trật tự mà thế giới đang theo. Tôi bắt đầu cảm thấy bị gạt ra và cô đơn. "Khi người thư ký quay trở lại văn phòng, tôi nhân ra ông ta vẫn bước đi bằng đầu ngón chân, vẫn khúm núm, vẫn chúi người về phía trước. Tôi thấy rằng trông thật giống một sự khúm núm, khi so vai vào ông ta đã nhảy khỏi ghế của mình, nhảy đến cửa, không phải một hình dạng ông ta khoác lấy, mà chính là bản chất tự nhiên của ông ta. Ông ta bị gù. Đó là một cú sốc. Tôi bắt đầu lẫn lộn nghĩ lại về những cảm giác trước đó khi ông đi ngang qua tôi đến cánh cửa vào văn phòng phía trong, nơi người đàn ông da đen to béo bận đồ đen, một trong những người Ấn da đen, đang ngồi tại một cái bàn lớn màu đen, mở những chiếc phong bì với một con dao rọc giấy. "Đôi gò má bóng nhẫy của ông ta đi với cặp môi dày tạo ra cảm giác ông ta đang bĩu môi. Tôi ngồi xuống một cái ghế cách bàn ông ta một quãng. Ông ta không ngẩng lên nhìn tôi và cũng không nói gì cả. Và tôi cũng không nói, tôi để ông ta mở những lá thư. Bài tập đó ông ta phải làm đến hơn một giờ trong đời ông ta, con người sùng đạo phương Nam đó. Ông bốc mùi đẳng cấp và đền đài, và tôi chắc rằng dưới bộ cánh màu đen đó ông đeo toàn bùa. "Cuối cùng, nhưng vẫn không ngẩng đầu lên, ông ta nói "Thế nào?" "Tôi nói "Tôi đã viết thư xin một công việc ngoại giao. Tôi nhận được thư trả lời từ ông Aggarwal và tôi đến đây gặp ông ấy" "Vẫn mở thư của mình, ông nói "Mister Aggarwal". "Tôi mừng là ông ta đã tìm thấy điều gì dó mà chúng tôi có thể bàn luận được. "'Aggarwal có vẻ không biết nhiều lắm. Ông ấy gửi tôi đến chỗ Verma.' "Ông đã gần nhìn lên đến tôi. Nhưng ông không nhìn. Ông nói "Mister Verma". "Verma cũng có vẻ không biết nhiều lắm. Ông ấy nói chuyện rất lâu với một người tên là Divedi.' "'Mister Divedi.' "Tôi đầu hàng.Ông ta có vẻ như đã loại được tôi. Tôi nói, mệt lử. 'Và ông ấy gửi tôi đến chỗ ông'. "'Nhưng trong thư anh nói anh đến từ châu Phi. Thế nào mà anh có thể làm nhà ngoại giao được chứ? Làm sao anh có thể chia sẻ sự trung thành của mình được?' "Tôi nghĩ, làm sao ông dám giảng cho tôi về lịch sử và sự trung thành của tôi, hỡi tên nô lệ kia? Chúng tôi đã trả giá đắt cho những kẻ như ông. Ông trung thành với ai nữa, ngoài chính bản thân, gia đình và đẳng cấp của ông? "Ông ta nói 'Các anh sống sung sướng ở châu Phi. Bây giờ thật khó cho các anh trở lại. Nhưng anh phải làm rất nhiều việc với người địa phương.' "Đó là điều ông ta đã nói. Nhưng tôi không nói với anh điều ông ta thực sự nói chính là đạo đức và sự may đời của ông ta. Với ông ta sự thuần khiết của đẳng cấp, cưới xin sắp xếp, ăn chay đúng đắn, là những điều bất khả xâm phạm. Mọi người khác đều đã bước chân lên sự nhơ bẩn, và phải trả giá. Cũng giống như thông điệp của những bức ảnh của Gandhi và Nehru tại căn phòng bên ngoài. "Ông ta nói 'Nếu anh trở thành công dân Ấn độ, sẽ có những kiểm tra nhất định. Chúng tôi đã sắp xếp để chúng được thực hiện tại một trong những trường đại học ở đây. Ông Verma có thể nói với anh. Nhẽ ra ông ấy không nên gửi anh đến chỗ tôi mới phải'. "Ông ta bấm một cái chuông trên bàn. Cửa mở, và người thư ký gù lưng đưa vào một người cao gầy, với đôi mắt sáng, lo lắng và một vẻ khúm núm bợ đỡ. Người mới đến cầm một cái cặp nghệ sĩ, và ông ta có một chiếc khăn quàng cổ dài, màu xanh lá cây quấn lấy cổ, dù trời khá ấm áp. Không để ý đến tôi, mắt chỉ chăm chăm vào người da đen, ông ta mở chiếc cặp và bắt đầu lấy ra những bức tranh. Ông ta cầm từng chiếc một đặt trước ngực, chìa về phía người da đen một nụ cười thường trực mở rộng lo lắng, rồi nhìn xuống cái ông ta đang trưng ra, để với cái đầu cúi xuống những bức tranh của mình, và với sự khúm núm đã có ở đó, trông ông ta giống như một người đang ăn năn hối cải, đang trình bày tội lỗi với những người khác. Người da đen không nhìn người nghệ sĩ, chỉ nhìn các bức tranh. Chúng vẽ những ngôi đền và những người phụ nữ hớn hở đang uống trà – có thể là một cách giới thiệu về nước Ân độ mới. "Tôi đã bị xua đuổi. Người thư ký gù lưng, căng cứng trên chiếc máy chữ cũ, to, nhưng không gõ, những ngón tay xương xẩu như những con tôm đặt trên bàn phím, nhìn tôi lần cuối vẻ đe doạ. Lần này, dù sao qua cái nhìn của ông ta, tôi cũng có một câu hỏi "Giờ anh đã hiểu tôi là ai chưa?" "Đi xuống cầu thang, bao quanh bởi những hoạ tiết về Ấn độ vua chúa, tôi nhìn thấy ông Verman, lại rời xa cái bàn của mình, và với nhiều giấy tờ hơn, nhưng ông ta đã quên tôi. Người đàn ông thuộc đẳng cấp thương gia lười biếng trong văn phòng tầng dưới dĩ nhiên vẫn nhớ tôi. Tôi nhận của ông nụ cười mỉa mai, và rồi tôi đi ra khỏi chiếc cửa quay, hoà vào không khí London. "Chuyến đi ngắn ngủi của tôi vào ngành ngoại giao đã kéo dài hơn một giờ đồng hồ. Lúc đó đã quá mười hai giờ trưa, quá muộn để uống cà phê và ăn bánh, khi một qúan bar snack nhắc nhở tôi. Tôi tiếp tục bước đi. Tràn đầy giận dữ. Tôi đi theo vòng cung Aldwych đến tận cùng, di qua phố Strand, và xuôi dòng sông. "Trong khi bước đi, một ý nghĩ đến với tôi, đã đến lúc về nhà. Tôi không nghĩ về thị trấn của chúng ta, về nơi bên bờ biển châu Phi của chúng ta. Tôi nhìn thấy một đường quốc lộ dọc hai bên là những cây cối khá cao. Tôi nhìn thấy những cánh đồng, lâu đài, một ngôi làng với những cái cây thấp. Tôi không biết quyển sách hay bức tranh nào đã cho tôi hình ảnh đó, hoặc tại sao một chỗ như thế l.ai có thể tạo cho tôi cảm giác an toàn. Nhưng hình ảnh đó đã đến với tôi, và tôi ngắm nghía nó. Những buổi sáng, màn sương, những bông hoa tươi mát, bóng của những cái cây vào lúc giữa ngày, những ánh lửa vào buổi tối. Tôi cảm thấy tôi đã biết cuộc sống đó, và nó vẫn còn chờ đợi tôi ở đâu đó. Dĩ nhiên thật là tuyệt. "Tôi thức tỉnh về nơi tôi đang ở. Tôi đang bước đi trên bờ kê bên cạnh dòng sông, đi mà không nhìn gì hết. Trên tường của bờ kê đó có những ngọn đèn kim loại màu xanh lá cây. Tôi kỉêm tra những cái đèn đó, từng bóng đèn, từng cọc đèn một. Tôi đã xa nơi tôi bắt đầu, và trong một lúc tôi đã rời khỏi những cái cột để kiểm tra những trụ đỡ bằng kim loại của những chiếc ghê dài trên vỉa hè. Những trụ đỡ này, khi tôi kinh ngạc ngắm nhìn, có dáng vẻ những con lạc đà. Lạc đà với những cái bướu của chúng! Một thành phố kỳ cục, khúc ca lãng mạn Ấn độ trong toà nhà đó, bản tình ca của sa mạc nơi này. Tôi dừng lại, bước chầm chậm trở lại, và bỗng dưng tôi phát hiện ra vẻ đẹp của dòng sông và bầu trời, những màu sắc dịu nhẹ của các toà nhà, sự chăm chút chúng được hưởng, "Tại châu Phi, trên bờ biển, tôi đã chỉ chú ý tới một màu trong tự nhiên – màu của biển. Mọi thứ còn lại chỉ là cây bụi, với màu xanh lá cây sống động, hoặc nâu và cứng đờ. Cho đến lúc này tại nước Anh tôi đã rảo bước, mắt nhìn vào những giá hàng trong các cửa hiệu, tôi đã không nhìn thấy gì hết. Một thành phố, thậm chí London, chỉ là một chuỗi phố và tên phố, và phố là một dãy dài cửa hiệu. Giờ đây tôi đã nhìn thấy thứ khác. Và tôi hiểu London không chỉ đơn giản là một nơi như thế, như người ta nói về núi, nơi đã được con người tạo ra, mà con người đã chú ý đến từng chi tiết như từng phút, như những con lạc đà đó. "Cùng lúc đó tôi bắt đầu hiểu rằng sự kinh sợ của tôi trước việc phải trở thành mtnn phiêu bạt là hoàn toàn sai, rằng với tôi giấc mơ về ngôi nhà và sự an toàn không gì hơn là một giấc mơ về sự cô độc, không ngày tháng, ngu xuẩn và yếu ớt. Tôi thuộc về mình tôi thôi. Tôi việc gì phải hạ thấp nhân cách của mình trước bất kỳ ai. Đối với ai đó giống như tôi thì chỉ có một nền văn minh và một nơi – đó là London hoặc một nơi nào giống thế. Mọi thứ khác của cuộc sống đều chỉ là làm ra để mà tin\.Nhà – để làm gì kia chứ? Để trốn? Để cúi gập người trước những người vĩ đại của chúng ta? Đối với những người ở hoàn cảnh của chúng ta, những người bị dắt lối vào sự nô lệ, đó là cái bẫy lớn nhất. Chúng ta chẳng có gì hết cả. Chúng ta an ủi chính mình với ý nghĩ rằng những người vĩ đại của bộ lạc chúng ta, Gandhi và Nehru. "Tại đây, hãy lấy nhân tính và đưa cho tôi. Hãy nhận lấy nhân tính của tôi và hãy trở thành một người vĩ đại, chính anh ấy, cho lợi ích của tôi!" Không! Tôi muốn trở thành người bình thường, cho chính bản thân tôi. "Vào một số thời điểm tại một số nền văn minh các nhà lãnh đạo vĩ đại có thể mang đến nhân tính cho dân tộc mà họ lãnh đạo. Điều này khác với những người nô lệ. Đừng chê trách các nhà lãnh đạo. Đó chỉ là một phần khó chịu của tình thế. Tốt hơn là rút khỏi toàn bộ việc làm ăn, nếu anh có thể. Và anh có thể mà. Anh có thể nói – và tôi biết Salim ạ, rằng anh đã nghĩ đến điều đó – rằng tôi đã quay lưng l.ai cộng đồng của mình và biến đi. Tôi nói "Biến đi đâu và khỏi cái gì? Bạn có gì để cho tôi? Cống hiến của bạn là gì? Và liệu các người có đưa trả lại cho tôi nhân tính được không?" Dù sao đó là điều tôi đã quyết định vào buổi sáng hôm đó, bên dòng sông thành London, giữa những chiếc cột đèn và lạc đà, công việc của một số nghệ sĩ đã chết đã thêm vào vẻ đẹp cho thành phố. "Đó là năm năm trước đây. Tôi thường tự hỏi điều gì có thể xảy đến với mình nếu tôi không quyết định như vậy. Tôi cho là tôi có thể chìm xuồng. Tôi nghĩ tôi có thể tìm thấy một cái hố nào dưới và chui vào đó để trốn hdc đi qua. Dù sao, chúng ta dã tự gắn mình vào những ý tưởng mà chúng ta có với trách nhiệm của mình. Nhẽ ra tôi đã trốn vào cái hố của mình và bị què quặt bởi sự đa cảm của mình, làm điều mà tôi làm, và làm nó thật tốt, nhưng luôn ngóng về một cái gì đó. Và tôi có thể không bao giờ thấy thế giới là nơi giàu có đến vậy. Anh có thể không thấy tôi ở đây, châu Phi này, làm điều tôi đang làm. Tôi có thể đã không muốn làm điều đó, và không ai có thể muốn tôi làm điều đó. Tôi có thể nói "Giờ tất cả đã hết với tôi, thế nên tại sao tôi phải để mình bị người khác sử dụng? Người Mỹ muốn chiến thắng thế giới này. Đó là cuộc chiến của họ, chứ không phải của tôi. Và điều đó hẳn là phải ngu ngốc lắm. Thật ngu ngốc khi nói về người Mỹ. Họ không phải một bộ lạc, như anh có thể nghĩ từ bên ngoài. Họ là những cá nhân chiến đấu để tạo ra con đường của mình, cố gắng hết mức để anh hoặc tôi không chìm xuồng. "Sau đó khi tôi rời khỏi trường đại học, mọi chuyện thật không dễ dàng. Tôi vẫn cần có một công việc, và giờ đây điều duy nhất tôi biết là cái tôi không muốn làm. Tôi không muốn chuyển từ nhà tù này sang nhà tù khác. Những người như tôi phải tự tạo ra công việc riêng cho mình. Đó không phải cái gì đó đến với bạn trong một chiếc phong bì màu nâu. Công việc ở đó, đang chờ đợi. Nhưng nó không ở đó cho anh hoặc bất kỳ ai khác anh có thể khám phá, và anh khám phá nó bởi vì nó dành cho anh và chỉ mình anh mà thôi. "Ở trường đại học tôi từng tham gia diễn một vài vở kịch – bắt đầu bằng một vai thoáng qua trong một bộ phim nhỏ ai đó đã làm về một cậu bé và một cô bé đi dạo trong công viên. Tôi thuộc những người còn lại của nhóm đó ở London và bắt đầu đóng nhiều. Không quan trọng gì lắm đâu. London đầy những nhóm kịch nhỏ như thế. Họ tự viết kịch bản, và họ có tiền từ các hãng và các hội đồng địa phương ở khắp nơi. Và nhiều người trong số họ sống trong sự buồn khổ. Đôi khi tôi đóng những vai người Anh, nhưng thường thì họ viết vài vài riêng cho tôi, thế nên với tư cách một diễn viên tôi thấy mình trở thành người mình không muốn trong cuộc đời thực. Tôi đóng sĩ quan người Ấn độ đi thăm một bà mẹ thuộc đẳng cấp lao động đang hấp hối, tôi lại đóng một sĩ quan Ân độ khác bị kết tội hiếp dâm, tôi là một người lái xe buýt không ai muốn làm việc cùng…và vân vân. Một lần tôi đóng vai Romeo. Một lần khác là sự cải biên Người lái buôn thành Venise, thành chủ nhà băng Malindi, và tôi đóng vai Shylock. Nhưng mọi sự đã trở nên phức tạp quá mất rồi. "Đó là một cuộc sống trôi dạt, và thoạt tiên rất hấp dẫn. Rồi nó trở nên nặng nề. Mọi người bỏ đi và có những công việc, anh cũng hiểu họ đã có những mối quan hệ vững chắc từ lâu rồi. Đó luôn luôn là sự bỏ rơi, và có những lúc trong hai năm đó tôi đã cảm thấy mất phương hướng và phải đấu tranh rất khó nhọc để tiếp tục tâm trạng đã đến với tôi bên dòng sông đó. Giữa tất cả những con người đẹp đẽ đó tôi là kẻ duy nhất bị bỏ rơi. Tôi không muốn là kẻ bị bỏ rơi. Họ làm những gì có thể để tạo chỗ cho tôi, và đó đã là hơn bất kỳ ai ở ngoài có thể nói cho chúng ta. Đó là một khác biệt về mặt văn minh. "Một ngày Chủ nhật tôi được đưa đến ăn trưa tại nhà một người bạn của một người bạn. Không có gìl à bohemien về ngôi nhà hoặc bữa ăn, và tôi phát hiện ra tôi được mời vì một trong số những người khách vĩ đại là người Mỹ rằng quan tâm đến châu Phi. Ông nói về châu Phi theo một cách thật khác thường. Ông nói về châu Phi như thể châu Phi là một đứa trẻ bị ốm và ông ta là người đỡ đầu. Sau đó tôi trở nên thân thiết hơn với người đàn ông này, nhưng vào bữa trưa đó ông ta đã làm tôi điên tiết và tôi rất cáu với ông. Đó là vì trước đây tôi chưa bao giờ từng gặp loại người đó. Ông có tiền để chi cho châu Phi, và ông ta muốn một cách tuyệt vọng làm được điều đúng đắn. Khi nghĩ toàn bộ số tiền đó sẽ bị tiêu phí tôi không thấy vui. Nhưng ông ta cũng có những ý tưởng lớn đơn giản nhất về sự tái sinh ở châu Phi. "Tôi nói với ông ta là châu Phi sẽ không được cứu rỗi hoặc vươn lên bởi những bài thơ của Yevtushenko hoặc bởi cách nh với mọi người về sự yếu ớt của bức tường Berlin. Ông ta không có vẻ gì là ngạc nhiên. Ông muốn nghe nữa và tôi nhận ra mình được mới đến bữa trưa để nói những điều mà tôi đã nói. Và chính ở đó tôi bắt đầu hiểu mọi thứ mà tôi nghĩ đã làm tôi không quyền lực trong cái thế giới này và đồng thời biến tôi thành có giá trị, và rng đối với người Mỹ đó tôi hấp dẫn bởi vì tôi là chính tôi, một người không có khuynh hướng. "Đó là sự bắt đầu. Đó là cách tôi trở nên ý thức với những tổ chức đang sử dụng sự vượt trội kinh tế của phương Tây để bảo vệ thế giới đó. Những ý tưởng tôi đưa ra thật hung hăng trong bữa trưa hôm đó, và đã bình tĩnh hơn và thực tế hơn sau đó, là những ý nghĩ khá đơn giản. Nhưng chúng chỉ có thể đến từ ai đó giống tôi, ai đó thuộc về châu Phi, nhưng không hề có ích gì cho kiểu tự do vừa mới có ở châu Phi này. "Ý tưởng của tôi là thế này. Mọi thứ đã dồn lại để đẩy tới châu Phi vào một dạng độc tài. Do đó châu Phi đầy những người tị nạn, những người trí thức thế hệ đầu tiên. Các chính phủ phương Tây không muốn biết, và những người châu Phi cũ không có cách nào để hiểu – họ vẫn chiến đấu trong những cuộc chiến tranh cũ. nếu châu Phi có một tương lai, thì đó chính là trách nhiệm của những người tị nạn này. Ý tưởng của tôi là đưa họ ra khioi những đất nước mà họ không thể hoạt động và gửi họ, dù chỉ trong một thời gian ngắn, đến những nơi trên lục địa, những nơi nào có thể. Một sự trao đổi lục địa, để tạo cho chính những người đó niềm hy vọng, để cung cấp cho người châu Phi những thông tin tốt hơn về chính châu Phi,và để bắt đầu cuộc cách mạng thực sự của châu Phi. "Ý tưởng đã được thực hiện rất tốt. Mỗi tuần chúng tôi nhận được những đơn yêu cầu từ các trường đại học nơi có thể duy trì kiểu cuộc sống trí thức mà không dính dáng vào chính trị của địa phương. Dĩ nhiên, chúng tôi đã thu hút sự đổ bộ tự do, của người da đen và da trắng, và chúng tôi đã gặp rắc rối với những tay chống Mỹ chuyên nghiệp. Nhưng ý tưởng này tốt. Tôi không cảm thấy mình phải biện hộ nó. Thực hiện tốt được như hiện nay lại là một vấn đề khác. Và có thể chúng ta không có thời gian. Anh đã nhìn thấy những cậu bé ở Khu này. Chúng làm mọi thứ vì điều đó, và đó là nơi nó có thể đạt được đến tận cùng. Có những lúc tôi cảm thấy châu Phi chỉ đơn giản là có con đường riêng của mình – những con người đói khát là những con người đói khát. Và đó là lúc tôi coi mọi cái thật thấp kém. "Làm một công việc giống như thế nghĩa là phải sống torng một sự lắp đặt – anh không cần nói với tôi điều đó. Nhưng mọi người đều sống trong sự lắp đặt. Văn minh là một sự lắp đặt. Và sự lắp đặt đó là chính tôi. Trong đó, tôi có giá trị, chỉ như tôi vốn có. Tôi không phải bật cái gì lên hết cả. Tôi khám phá chính tôi, tôi không cho phép ai bóc lột tôi. Và nếu được, nếu ngày mai những người ở trên quyết định chúng ta không đi đâu, tôi giờ đây đà học được rằng có những cách khác để có thể tự khai thác chính mình. "Tôi là một người may mắn. Tôi nắm thế giới ở trong tôi. Anh thấy đấy. Salim, trong thế giới này những người ăn mày là những người duy nhất có thể lựa chọn. Mọi người khác đều có sự thiên lệch về chính mình. Tôi có thể lựa chọn. thế giới là một chốn giàu có. Nó phụ thuộc hoàn toàn vào điều bạn lựa chọn trong đó. Bạn có thể là người tình cảm và ôm riết lấy ý tưởng về sự thất bại của bạn. Bạn có thể là một nhà ngoại giao Ấn độ và luôn đứng bên thua cuộc. Nó giống như kinh doanh ngân hàng ấy. thật ngu xuẩn khi kinh doanh ngân hàng ở Kenya hoặc Sudan. Nhiều hay ít cũng giống cái mà gia đình tôi đã làm ở bờ biển. Các ngân hàng sẽ nói gì trong những báo cáo thường niên về những chỗ như thế? Rằng nhiều người nằm ngoài khu vực tiền tệ sao? Anh không thể trở thành một Rothschild ở đây. Nhà Rothschild đã biết lựa chọn châu Âu đúng lúc. Những người Do thái khác, cũng tài năng như vậy, đi làm ngân hàng cho đế chế Ottoman, tại Thổ Nhĩ Kỳ hay Ai Cập hoặc nơi nào đó, đã không được như thế. Không ai biết tên họ. Và đó là điều chúng ta đã làm trong hàng thế kỷ qua. Chúng ta khúm núm trước ý nghĩ của mọi người khác. Chúng ta đã chọn sai bên. Tôi đã mỏi mệt phải đứng ở bên thua cuộc rồi. Tôi không muốn bỏ qua. Tôi biết chính xác mình là ai và tôi đứng ở đâu trong thế giới này. Nhưng giờ đây tôi muốn chiến thắng, chiến thắng, chiến thắng".