Đó là ý nghĩ bật lên ngay khi tôi đọc thông tin: Hàng quán rong sẽ bị xử phạt 10 – 15 triệu đồng nếu không có giấy chứng nhận vệ sinh an toàn thực phẩm. Bán hàng rong là thành phần lao động chạy ăn từng bữa, phần đông là dân nghèo, dân nhập cư. Vốn liếng trên đôi gánh hàng rong có khi chỉ hơn trăm ngàn, nhiều lắm là một – vài triệu. Xử phạt gấp năm – bảy lần tổng vốn, thấy trước là không thu được, chỉ thu được cái gánh hàng rong, có khi là vốn liếng từ quỹ vay xóa đói – giảm nghèo mà có. Biết là thế mà vẫn đưa ra mức phạt trên trời. Nói thách vậy, hẳn chuyện không đơn giản ở chỗ phạt vì vệ sinh an toàn thực phẩm, có lẽ đây chỉ là một cái cớ. Và là chuyện đáng suy ngẫm. Theo tôi được biết, ngay cả những cơ sở buôn bán hàng ăn có nhà cửa đàng hoàng, mức phạt vệ sinh an toàn thực phẩm cũng chỉ bằng một phần năm, một phần bảy số đó. Vậy vì sao lại nói thách mức phạt với người nghèo thuộc loại “rớt mồng tơi”, mà có nhiều gánh hàng rong đã đưa bao nhiêu đứa con đến trường, đưa bao nhiêu cử nhân, bác sĩ, kỹ sư thành tài và phục vụ đất nước. Nếu muốn dẹp hàng quán rong, cần phải nghĩ cách để bao nhiêu con người giải quyết công ăn việc làm thế nào, sống ra sao. Bài toán nan giải này, không thể giải bằng biện pháp “Nói Thách” tiền phạt ngất ngưỡng như vậy. Ta có thể chỉ định riêng ở các tuyến đường, khu vực nào dành cho người bán rong, nhưng quy hoạch cho đẹp theo kiểu ta đã làm với các chợ đêm, bãi gửi xe. Vừa có thể giúp người nghèo có chỗ buôn bán sinh nhai, vừa có thể kiểm tra về an toàn thực phẩm, vừa biến chỗ bán rong thành một kiểu chợ bán hàng quán dân dã, thậm chi có thể là một điểm tham quan (Giống như các hàng rong trong các kỳ hội chợ, lễ hội). Còn những cách khác nữa. Cách nào mà vẫn giúp dân sống được, mình dễ quản lý, đó mới là cái tình của nhà quản lý với người dân nghèo trong cuộc mưu sinh khó nhọc của họ.