Không ai biết đích xác chợ có từ bao giờ, nhưng bất cứ ở đâu, dù là nơi phồn hoa đô hội hay nơi lâm sơn cùng cốc, phàm nơi nào có người ở thì đều thấy có nó. Đấy là nơi, theo cách nói của các nhà kinh tế, để người ta trao đổi lao động với nhau. Hoạt động của chợ, thoáng trông thì có vẻ hỗn độn, nhưng, cũng như vũ trụ, chợ vẫn có lề luật, trật tự nhất định của nó. Khác hẳn với thiên nhiên hoang dã hồn nhiên tự phát: Hổ đói thì tìm hươu nai chồn cáo mà vồ, mà phanh thây xé xác, mà ăn thịt... ăn không hết thì tìm cách giấu đi, lúc đói có cái mà ăn, tránh không để cái bọn khoẻ mạnh lười biếng khác dùng sức mà cướp đi mất. Cũng như vậy, chồn cáo lại tìm bắt gà vịt, hươu nai thì tìm cỏ; Hươu nai chỉ gặm một phần, chứ không làm cho cỏ bị chết; Và xét trên một khía cạnh nào đó, chúng còn kích thích sự phát triển cho loài cỏ. Còn cỏ thì nhẫn nhục toả bộ rễ nhỏ bé, nhẫn nại bòn mót, hút lấy chút sinh chất của đất mà sống. Đất thì vốn là Mẹ rồi! Khi nghĩ về chợ ta thường liên tưởng ngay đến cái ồn ào không thể kiểm soát, cái xô bồ chen chúc, rác rưởi tanh ủng, tục tĩu ô trọc, dối trá lọc lừa, thật giả lẫn lộn, giành giật quyết liệt, mặt mũi đỏ gay, tay năm tay mười cùng những mưu toan, thủ đoạn hầu chém đẹp vào hầu bao của những người đồng bào,... đến nỗi, có người đã mượn cái tên của nó như một điển cố văn chương mà thốt lên: "Chợ trời thật giả đâu chân lý!". Cái lối mượn chữ để phát biểu như vậy đôi khi cũng không khỏi có phần bất công. Đành rằng cái sự thật giả nhập nhằng ấy là có thật, nhưng chính chợ lại là nơi dạy ta nhiều đạo lý và chính cái sự nhập nhằng ấy đã làm cho chợ trở thành Trường Tu cao nhất, là nơi sát hạch vừa nghiệt ngã vừa minh bạch, khẳng định chính xác hàm lượng chất Người chứa trong tâm của mỗi chúng sinh. Gian truân thật đấy, nhưng là con đường ngắn nhất để những người phát tâm hướng Thiền, hoặc là tiếp cận nhanh chóng với vầng hào quang thanh thoát ngời ngời của xứ Tây trúc, hoặc chui tọt ngay xuống âm tào địa phủ, ngồi đánh "Tá lả" với lũ quỷ đầu trâu mặt ngựa. Phật mẹo lắm, Ngài thường giả làm chúng sinh, đi lang thang trong các chợ để tìm kiếm nhân sự, phát hiện và bồi dưỡng các chúng sinh ưu tú thành các môn đồ của mình, nhằm kiện toàn bộ máy tổ chức mà chất lượng xem ra cũng không được đều đều theo thời gian. Nghe đâu, Ngài đã cho thôi việc, kỷ luật hai thủ thư đã nhận hối lộ của thày trò Đường Tăng chiếc bát tộ đựng cơm và hạ phóng hai vị này xuống trần gian bắt làm kiếp chúng sinh để cải tạo tư tưởng. Việc này hình như có gây ra vài phản ứng phụ; Nếu không, tại sao bây giờ, bên Trung Quốc, chính phủ lại xử án nhiều người ham "bát tộ" đến thế? Và chúng sinh, dầu có sợ sệt và kính trọng Phật đến đâu, cũng không khỏi ít nhiều có sự bất mãn: Tại sao Phật lại đưa các môn đồ kém phẩm chất của Ngài xuống sống lẫn với chúng con để cải tạo? Như thế, chẳng hoá ra chúng con, từ lúc mới sinh ra, đã mang cái án cải tạo chung thân trên đầu?! Mà cũng chỉ là ấm ức ngấm ngầm vậy thôi, chúng sinh vốn đã thuộc lòng và quá hiểu chữ nhẫn. Phật có nhiều quyền năng lắm, nói ra biết đâu Ngài lại chẳng nổi giận, sau này không cho vào xứ Niết Bàn cư trú nữa mà phê một câu "Chuyển Diêm vương xử lý" thì khốn! Và, nếu như cuộc đời này không có chợ, thì đố có ai mà sáng chế ra được các loại luận thuyết xã hội, hiện đang được lưu giữ một cách bề thế trong các thư viện quốc gia bằng đủ loại công nghệ tân thời và đang không ngừng tăng thêm về số lượng trong từng thập kỷ! Và con người, dù có tài bằng "Giời" thì cũng không có cách gì mà bén mảng được đến Mặt Trăng, sao Hoả hay mò mẫm xuống tận đáy các đại dương bao la sâu thẳm như bây giờ. Chợ vốn ồn ào, bởi linh hồn của chợ là con người. Không có người, chợ chỉ là cái bãi đất trống hoặc là cái nhà hoang. Có một số nhà giáo, bất lực trước tình trạng học trò mất trật tự trong lớp, không giữ được bình tĩnh, đã phải quát lên: "Đây là lớp học hay là cái chợ vỡ!". Chợ thì ồn rồi, nhưng chợ vỡ thì ghê gớm lắm; Thậm chí lúc ấy có người còn không giữ nổi cả tính mạng, nói chi đến hàng đem đi bán hoặc mua sắm được! Dân gian vẫn quen nghĩ rằng liền bà vốn lắm điều và chợ búa là việc của họ; Liền ông còn bận nghĩ nhiều việc nhớn! Ở chợ, về số lượng, bao giờ liền bà cũng nhiều hơn là liền ông, nên mới có câu: "Hai người đàn bà và một con vịt thành một cái chợ!". Lợi dụng thành ngữ này, bọn có học hành chút ít đã dùng sảo luận để chứng minh rất hùng hồn rằng một người đàn ông đích thực là một con vịt (cũng còn may chưa phải là vịt trời)! Chuyện thế này: Có hai gã, thuộc trường phái cờ "vồ" đang tỷ thí với nhau; Cạnh dó, đứng chầu rìa là một gã ham cờ và cùng trường phái. Một người quen đi qua, thấy ồn ã quá, bảo: "Hưng và Mão, thêm Phan "loe" thành ra cái chợ!". Lúc trở về, vẫn đi qua đấy và nhận ra độ hào hứng của đám cờ vẫn liên tục phát triển; Phan "loe" đang hò hét, gà một nước "đậm đà tâm hồn ăn uống", người ấy lại bảo: "Bây giờ là thời đại văn minh, nam nữ ngang bằng, do đó Hưng và Mão tương đương hai người đàn bà; Câu khi nãy có thể nói lại là Hai người đàn bà với Phan loe thành một cái chợ. Mặt khác, lại biết Hai người đàn bà và một con vịt thành một cái chợ. So sánh hai câu trên: Phan loe đích thị là một con vịt![1]" Thủ đô của nước ta, nơi có hàm lượng văn hiến cao từ ngót một thiên niên kỷ nay, đã bắt đầu bằng một cái chợ ven sông Hồng. Dân Việt ta vốn thuần phác và đầy bản lĩnh bèn, chẳng ngại ngùng gì, gọi luôn kinh đô là đất Kẻ chợ; người kinh đô là dân Kẻ chợ. Tất nhiên, cũng còn nhiều cái khiến ta không khỏi phân vân. Tỷ như: Cái tinh tế, sự lịch lãm, cái nếp nền nã nhã nhặn... của dân kẻ chợ, từ lâu lắm, đã đạt đến tầm cao của mỹ học, được cả nước ca tụng và ví với phẩm chất của hoa nhài. Nhưng không hiểu thế nào, các cụ - kể cả các cụ Kẻ chợ - lại dặn con cháu chớ có dùng hoa nhài để thờ cúng, dù đó là thờ ông bà tổ tiên hay các bậc linh thiêng siêu việt, có sắc phong và đền thờ của nhà nước ban tặng, tưởng thưởng. Hỏi tại sao, thì bảo: Nó là loài hoa chỉ nở vào lúc mặt trời đã đi ngủ! Và nữa: "Chả biết thế nào mà thủ đô thường là nơi vua ở chứ không phải là nơi vua phát tích" [2]. Người chưa có thì đến chợ tìm mua cái mình cần, kẻ có thì đến chào mời để bán cái mình có. Chỉ cần chất lượng trung thực, tiền nào của ấy, cái gì đem đến cũng đều bán được; Cái gì người ta cần, đến chợ đều tìm được; Thượng vàng hạ cám, không gì là không có. Hàng chất lượng thấp, giá bán lại không trung thực thì dẫu người bán có khéo léo niềm nở chào mời đến thế nào, thiên hạ cũng chỉ lơ láo cười nhạt rồi đi qua cho nhanh. Hàng chất lượng cao, giá cả phải chăng thì dù người bán có thái độ khủng khỉnh, kênh kiệu, người mua vẫn nhẫn nại tìm đến. Đôi khi, những kẻ có hàng cũng làm cao lắm, họ chẳng thèm ra chợ chào mời như mấy cái con mẹ sắn váy quay cồng, tất tất tưởi tưởi, chua ngoa gay gắt (bán hàng thì cũng phải giữ lấy phẩm giá chứ!). Còn những kẻ muốn mua thì cứ phải dò dẫm, hỏi han địa chỉ và cách thức mà tìm đến; Lắm khi còn phải lạy lục, cung kính đến gẫy cả lưng mới mua được. Hàng đặc biệt cũng có khác! Nhưng mà, rốt cuộc, loại hàng nào cũng vậy, vẫn tuân theo luật chung "Tiền nào của đấy", chất lượng hàng sẽ được định đoạt theo túi tiền của kẻ mua. Mua được rồi thì phải lo để được bảo hành. Bình thường, nếu ta mua một cái máy giặt, một cái ti vi, một cái xe máy hoặc có khi chỉ là cái cối xay hoa quả... nhà cung cấp phải ghi thời hạn bảo hành vào hoá đơn; độ dài thời hạn này và chất lượng dịch vụ sau bán hàng sẽ quyết định sự hài lòng của người mua, điều mà tất cả các nhà cung cấp nghiêm túc luôn mong muốn. Trong quá trình sử dụng, nếu máy móc bị trục trặc và vẫn còn trong thời hạn bảo hành, chỉ cần nhấc điện thoại, ới một cái, là chỉ lúc sau sẽ có thợ đến xem xét, xử lý thoả đáng, sao cho các "Thượng đế" không còn gì để phàn nàn. Nhưng đối với thứ hàng mua được của những kẻ làm cao này thì - tuyệt đối - chớ có nghĩ như thế, khôn hồn thì phải bắc "Cầu Kiều" mà rước nhà phân phối! Người tiêu dùng phải cáng đáng toàn bộ các chi phí bảo hành - mà chi phí và thời hạn cho việc này cứ lên lên xuống xuống, đỏng đảnh thất thường như gái mười tám có chút nhan sắc - Nhưng được cái, nếu khéo làm hài lòng nhà phân phối, phần lớn các trường hợp đều được gia hạn bảo hành dài dài. Và trong thời gian đó, người tiêu dùng không những thu hồi được vốn ban đầu mà còn tích luỹ dư dả, thừa sức để có thể làm một cuộc lên đời cho thiết bị và công nghệ của mình. Người bán hàng ở chợ phần lớn hay nói thách. Cái chiếu trải giường đáng giá ba mươi ngàn thì nói tếu lên tám mươi ngàn! Thực ra, cũng chỉ tại bởi người ta chỉ quen và thích dùng "cuốc", có mấy ai thích dùng "xẻng"! Người mua bao giờ chả muốn chỉ phải trả ít tiền và hiện tượng này lại sảy ra từ trước khi có bộ Tư bản rất lâu. Nói vống lên như thế để người mua hạ xuống là vừa, người bán không bị lỗ vốn mà vẫn có chút lãi. Trường hợp gặp người không có kinh nghiệm, tức là mấy con "gà", có khi lại bán được với giá rất cao. Cứ thế, lâu dần, thấy lối nói thách cũng không phải là không hay và cuối cùng đâm thành thói quen. Các công chức ngày nay cũng đem trọn vẹn thói quen nói thách này vào các công sở nhà nước. Điều này thấy rất rõ trong nền kinh tế có kế hoạch tập trung: Nhu cầu vốn của các dự án, các chương trình mua sắm, xây dựng cơ bản... đều được kê vống lên để cấp trên... cắt đi là vừa. Nhưng cũng có một số cấp trên tự nguyện làm "gà" và một số cấp dưới "biết đều" và "sáng dạ", lập tức nhận thức sâu sắc được sự hy sinh cao cả đó và trong xã hội, cũng lập tức, xuất hiện những “cặp trời sinh". "Châu" không tìm về "Hợp phố" thì đi đâu?! Mỗi cái chợ là một cuốn lịch sử, là một pho truyện đặc sắc, nhiều vẻ của một tiểu vùng dân cư. Chợ phát triển không ngừng cả về quy mô lẫn hình thái: Từ một khoảng trống ngã ba đường hoặc một bến sông lộng gió, nó tiến lên quy mô nhà cao tầng có nhiều khung nhôm cửa kính, điện đóm sáng trưng kèm theo hệ thống điều hoà không khí trung tâm; Từ phạm vi tiểu vùng tiến lên đẳng cấp khu vực và hiện đang có xu thế tiến lên toàn cầu hoá. Về hình thái, do yêu cầu của thực tế, nó từ chợ phiên tiến lên chợ ngày, từ chợ thông thường bổ sung thêm các loại chợ trời, chợ chuyên ngành, chợ "sex", chợ nhân công, chợ chứng khoán, chợ trên mạng (internet) và - ở một số quốc gia có nền chính trị lạc hậu, độ dân chủ mới chỉ đạt mức bằng một phần triệu nước ta -... có cả chợ Hành lang (Lobby) nữa. Trong loại chợ này, người ta có thể thương thảo, mặc cả, cò kè, thoả thuận, thậm chí mua bán, đổi chác tất cả những gì thuộc về quan trường, chính trường: Từ nhân sự, lá phiếu, ghế ngồi trong nghị viện hoặc trong chính phủ... đến việc cho ra đời một chính sách, một đạo luật cốt chỉ mưu lợi riêng cho một vài nhóm người "ưu tú" nào đó. Nhưng không hiểu tại sao, trong ngôn từ, dân chúng lại luôn ghép chữ chợ với chữ búa: Chợ búa. Là tiếng đệm cho thuận mồm, cho thuận tai để làm tăng hiệu ứng truyền cảm ư? Nếu thế, sao lại không phải là Chợ cheng, chợ phéng, chợ rợ...? Vậy búa là gì? Cứ như theo kho chữ của dân ta, nó là tên vài loại dụng cụ, khi sử dụng phải dùng lực mạnh: để Ngu Công đập đá dời non, để Ngô Quyền đóng cọc xuống lòng sông Bạch đằng chống quân Nam Hán, để người thợ ghép hai loại vật chất ở thể định hình vào với nhau, để Thạch Sanh đốn cây, bổ củi... để lũ Pôn Pôt đập vào đầu những người đồng bào không đồng chính kiến với chúng, giản đơn kết thúc mạng sống của những cái đầu trong đó chứa những bộ não. Vì vậy người ta mới cảnh báo nhau: Đừng đao to búa lớn với nhau như vậy! Hoặc giả khinh bỉ: Cái phường đao búa ấy mà! Búa đi một mình thì là dụng cụ gia đình, đi với đao thì lại thành dụng cụ giết chóc. Nhớ lại, một lần đi chợ, được chứng kiến cảnh: Một chị nạ dòng, sau khi mua thịt, đi hàng khác nhờ cân lại xem có đủ lạng không. Thấy thiếu, chị ta quay lại hàng thịt mình vừa mua, giận dữ đùng đùng, đòi người bán phải cân bù cho đủ. Người bán thịt, cũng nạ dòng nốt, tay huơ huơ chiếc búa chặt xương, tiến gần lại kẻ khiếu nại chính đáng kia, thủng thẳng: "Mày trả giá bèo như thế thì bà bán cho mày bằng cái cân như thế. Phắn ngay cho nhẹ vía!". Nhìn cái lưỡi búa, được mài rất kỹ, cứ lấp la lấp lánh làm duyên dưới ánh nắng mùa xuân rạo rực, đang lăm lăm trên tay của một kẻ vốn quen xả thịt chặt xương, kẻ khiếu nại kia, mặt mũi tái nhợt, lùi dần lùi dần, rồi xoay lưng rảo bước. Khốc liệt quá! Chả trách, người ta hay nói một câu rất khó nghe: "Lẽ phải thuộc về kẻ nào có đao búa trong tay!". Vòng vèo hoa mỹ quá thể! Nhưng nếu không có chợ thì biết mua gạo muối ở đâu? biết mua nồi niêu ở đâu? biết mua sách vở giấy bút và đàn sáo ở đâu? Ai chả có cha già mẹ héo, phải có chỗ nào đấy để mua thuốc thang cho cha mẹ chứ?! Liệu có thể sống mà không có chợ không? Sống không có chợ thì xin mời quý vị cứ việc "bồng bế nhau lên" mà "ở non". Trên non có vô khối là hang là hốc. Mà như thế thì thà... đi tu tiên cho rồi! Chợ búa, cũng như một nhà máy điện nguyên tử, một thứ cây ngũ cốc; phải thành tâm, nghiêm cẩn chăm sóc, nhất định không thể nông cạn mà xem thường được. Tháng 8 năm 2005 Chú thích[ Hưng và Mão đánh cờ + Phan loe = cái chợ (1) Vì Nam nữ bình đẳng nên viết được: Hưng và Mão = hai người đàn bà (2) Thay (2) vào (1) được Hai người đàn bà + Phan loe = cái chợ (3) Lại biết Hai người đàn bà + một con vịt = cái chợ (4) Trừ vế cho vế của hai đẳng thức (3) và (4) cho nhau, ta có: Phan loe - một con vịt = 0. Chuyển vế, được Phan loe = một con vịt. [2] Nguyễn Triều. Người Hà Nội gốc "Hàng" và người Hà Nội gốc "Lội".