Dịch giả: Nguyễn Xuân Hồng
Chương 70

Một ma phương. Katherine gật đầu nhìn ô vuông toàn con số trong tác phẩm của Durer. Chắc người khác phải nghĩ Langdon mất trí, nhưng Katherine nhanh chóng nhận ra rằng anh có lý.
Thuật ngữ ma phương dùng để chỉ một thứ đầy chất toán học chứ không phải ma mị gì. Nó là tên gọi của một ma trận gồm các con số sắp xếp liên tiếp sao cho tổng các hàng, cột và đường chéo là như nhau. Ma phương do các nhà toán học Ai Cập và Ấn Độ phát minh ra từ khoảng bốn nghìn năm về trước, nhiều người tin rằng nó chứa đựng trong mình những sức mạnh diệu huyền. Katherine đọc sách và được biết thậm chí hiện nay, dân mộ đạo ở Ấn Độ vẫn vẽ các ma phương 9 ô Kubera Kolam lên bàn thờ pooia(67), về cơ bản, người hiện đại xếp ma phương vào loại “toán học giải trí”, nhưng có một số người vẫn tìm thấy niềm vui từ ô số này qua việc phát hiện ra các hình thể “kỳ bí”. Chẳng khác nào trò chơi sudoku(68) dành cho những thiên tài.
 
Katherine phân tích nhanh ô vuông của Durer, cộng các con số theo hàng và cột.
ẢNH
- Bốn mươi tư, - cô nói - Mọi hướng cộng lại đều thành 44.
- Chính xác, - Langdon đáp - Nhưng chị có nhận ra rằng ma phương này nổi tiếng là vì Durer gắn kèm theo nó những chi tiết dường như vô lý không? - Anh nhanh nhẹn chỉ cho Katherine thấy, ngoài việc sắp xếp cho các hàng, cột và đường chéo cộng lại thành 44. Durer còn tìm cách khiến bốn ô vuông góc một phần tư, bốn ô vuông chính giữa, và thậm chí bốn ô vuông ở bốn góc cộng lại cũng ra tổng đó - Nhưng điều kỳ lạ nhất là Durer đã bố trí được con số 15 và 14 sát nhau ở hàng dưới cùng như một cách chỉ thời điểm ông hoàn thành kiệt tác?
Katherine nhìn lướt các con số, vô cùng kinh ngạc trước các kiểu kết hợp.
Giọng Langdon càng thêm sôi nổi.
- Đặc biệt, lần đầu tiên trong lịch sử, nhờ bức Melencolia I mà một ma phương xuất hiện trong nghệ thuật Âu châu. Nhiều nhà sử học tin rằng đây là cách mã hoá của Durer, suy ra Bí mật cổ xưa đã vượt khỏi phạm vi các trường Nghệ thuật Thần bí Ai Cập và rơi vào tay các hội kín châu Âu - Langdon ngập ngừng - Điều đó đưa chúng ta trở lại với… thứ này.
Anh trỏ mảnh giấy chép hình ma trận chữ cái trên kim tự tháp đá.
ẢNH
- Bố cục rất giống nhau, phải không? - Langdon hỏi.
- Một hình vuông mỗi chiều bốn ô.
Langdon cầm bút chì và cẩn thận ghi lại ma phương số của Durer lên mảnh giấy, cạnh ô vuông chữ cái. Katherine cảm thấy mọi việc dễ dàng đi nhiều. Langdon vẫn đứng lom khom, bút chì trong tay, nhưng lạ thay, sau khi vô cùng hào hứng, anh lại tỏ ra đắn đo.
- Robert?
Langdon ngoảnh nhìn Katherine, vẻ mặt rõ ràng là bối rối.
- Chị có chắc chúng ta phải làm việc này không? Anh Peter…
- Robert, nếu anh không muốn giải mã những chữ này thì để tôi - Cô giơ tay định giằng lấy chiếc bút chì.
Nhận thấy không thể ngăn cản được Katherine, Langdon đành thuận theo và lại tập trung chú ý vào kim tự tháp. Anh thận trọng áp chồng ma phương lên ma trận chữ của kim tự tháp và gán từng chữ cái với từng con số. Sau đó, anh tạo ra một ma trận khác, sắp xếp các chữ cái trong bức mật mã Tam điểm theo một trật tự mới trên cơ sở bố cục ma phương của Durer.
Khi Langdon làm xong, cả hai người cùng kiểm tra kết quả.
ẢNH
Katherine nghi hoặc.
- Vẫn chưa rõ.
Langdon im lặng một lúc lâu.
- Thực ra, không phải là chưa rõ đâu - Mắt anh lại sáng lên vì phát hiện mới - Nó là… chữ Latinh.
Trong hành lang dài, tối om, ông già mù gắng sức dò dẫm để về văn phòng của mình càng nhanh càng tốt. Đến nơi. Ông gần như đổ sụp xuống ghế, xương cốt già nua thư thái vì được nghỉ. Máy trả lời đang phát tín hiệu. Ông nhấn nút và lắng nghe.
- Warren Bellamy đây, - giọng thì thào gấp gáp của người bạn đồng thời là một huynh đệ Tam điểm vang lên - Tôi e rằng có tin khẩn…
Katherine Solomon đưa mắt nhìn ma trận chữ cái, xem xét lại nội dung. Hoàn toàn đúng, giờ đây một từ Latinh hiện rõ trước mắt cô. Jeova.
ẢNH
Katherine không học chữ Latinh, nhưng từ này rất quen thuộc vì cô đã đọc nhiều tài liệu tiếng Do Thái cổ. Jeova. Jehovah. Cô tiếp tục lướt xuống dưới, đọc ma trận như đọc một cuốn sách, kinh ngạc nhận ra mình có thể nắm bắt được bộ văn bản của kim tự tháp.
Jeova Sanctus Unus.
Katherine hiểu ngay ý nghĩa. Cụm từ này xuất hiện rất nhiều trong các bản dịch hiện đại của kinh văn Do Thái. Trong Torah(69) chúa của người Do Thái được biết đến với nhiều tên gọi - Jeova, Jehovah, Jeshua, Yahweh. Nguồn cội, Elohim - nhưng nhiều bản dịch tiếng La Mã đã biến danh pháp này thành một cụm từ Latinh duy nhất: Jeova Sanctus Unus.
- Đức Chúa đích thực ư? - cô thì thào tự nhủ. Chắc chắn cụm từ này không thể giúp họ tìm được Peter - Đó là thông điệp bí mật của kim tự tháp ư? Một Đức Chúa đích thực? Tôi cứ nghĩ đây là một tấm bản đồ cơ đấy.
Langdon cũng lúng túng không kém, vẻ hào hứng trong mắt anh đã tan biến.
- Cách giải mã này rõ ràng là đúng, nhưng…
- Kẻ giam giữ anh trai tôi muốn biết vị tr í- Katherine vén tóc ra sau tai - Kết quả này sẽ không làm hắn hài lòng đâu.
- Katherine, - Langdon thở dài - Tôi cũng sợ như vậy. Suốt đêm, tôi có cảm giác chúng ta đang phải xử lý cả một mớ huyền tích. Có lẽ dòng chữ khắc này trỏ tới một địa điểm ẩn dụ, cho chúng ta biết rằng chỉ có thể tiếp cận tiềm năng thật sự của con người thông qua một Đức Chúa đích thực.
- Chẳng có nghĩa gì! - Katherine đáp, hàm bạnh ra vì thất vọng - Gia đình tôi đã bảo vệ cái kim tự tháp này hàng bao thế hệ. Một Đức Chúa đích thực? Đó là bí mật ư? Và CIA coi đây là vấn đề an ninh quốc gia ư? Hoặc là họ đang nói dối hoặc là chúng ta còn bỏ sót điều gì!
Langdon nhún vai.
Bỗng nhiên, điện thoại của anh đổ chuông.
Trong văn phòng xếp đầy những cuốn sách cũ. Ông già còng người trên bàn, cầm chặt ống nghe trong bài tay viêm khớp.
Chuông đổ liên tục.
Cuối cùng, một giọng nói ngập ngừng vang lên.
- A lô? - Giọng trầm tĩnh nhưng không chắc chắn lắm.
Ông già thì thào.
- Tôi nghe đồn anh cần một chỗ kín đáo.
Người ở đầu dây bên kia giật mình.
- Ai đấy? Có phải Warren Bell…
- Xin đừng nói tên, - ông già ngắt lời - Cho tôi biết có phải anh đã bảo vệ được tấm bản đồ người ta uỷ thác cho anh không?
Lại giật mình im lặng.
- Vâng… nhưng tôi không nghĩ điều này quan trọng. Nó chẳng thể hiện gì nhiều. Nếu đó là một bản đồ thì dường như nó mang tính ẩn dụ hơn là…
- Không, bản đồ rất thật, tôi dám cam đoan với anh, và nó chỉ tới một địa điểm hữu hình. Anh phải giữ nó an toàn. Tôi khó lòng giải thích cho anh hiểu nó quan trọng đến thế nào. Anh đang bị truy đuổi, nhưng nếu anh có thể kín đáo tới chỗ tôi, tôi sẽ cho anh một chỗ ẩn náu… và câu trả lời.
Người kia ngập ngừng, rõ ràng là không chắc chắn lắm.
- Anh bạn, - ông già lại nói, thận trọng cân nhắc từ ngữ - ở một chỗ trú trong thành Rome, phía bắc sông Tiber, có mười tảng đá lấy từ núi Sinai, một hòn từ thiên đường, và một hòn khác mang nét mặt người cha bí ẩn của Luke. Anh biết chỗ tôi rồi chứ?
Đầu dây bên kia im lặng hồi lâu, sau cùng trả lời.
- Vâng, tôi biết.
Ông già mỉm cười. Tôi chắc thể nào anh cũng đoán ra, Giáo sư ạ.
- Đến ngay đi. Nhất định đừng để bị bám đuôi.
Chú thích:
(67) Pooja hay puja là một nghi lễ trong tạ ơn hoặc một nghi thức tôn giáo trong Ấn Độ giáo, được tiến hành như một hình thức lễ vật dâng lên các vị thần, những người tôn quý, hoặc khách đặc biệt. Nghi lễ này được tiến hành trong nhiều dịp và ở nhiều bối cảnh, từ puja hằng ngày thực hiện tại nhà, đến các nghi lễ ở đền miếu và các lễ hội lớn. Puja hình thành từ ý tưởng dâng lễ lên cho thần để nhận được sự phù hộ của thần - ND.
(68) Sudoku là lên tiếng Nhật (nghĩa đen là “số độc nhất”) của một loại trò chơi logic, cách chơi là điền số từ 1 đến 9 vào những ô trống sao cho mỗi cột dọc, mỗi hàng ngang, mỗi phân vùng nhỏ (ô 3x3) có đủ các số từ 1 đến 9 mà không được lặp lại. Bảng câu đố hình vuông, mỗi chiều có 9 ô nhỏ, hợp thành 9 cột. 9 hàng và được chia thành 9 ô lớn 3x3. Một vài ô nhỏ được đánh số, đó là những gợi ý duy nhất để bạn tìm lời giải. Tuỳ theo mức độ nhiều hay ít của các gợi ý, các câu đố được xếp loại dễ, trung bình, khó hay cực khó - ND.
(69) Torah (tiếng Do Thái nghĩa là “lời răn”, hoặc “luật lệ”) là 5 cuốn sách của Moses và cũng là toàn bộ các văn bản tôn giáo và luật pháp cơ bản của Do Thái giáo - ND.

Truyện Biểu Tượng Thất Truyền Chương 1 Chương 2 Chương 3 Chương 4 Chương 5 Chương 6 Chương 7 Chương 8 Chương 9 Chương 10 Chương 11 Chương 12 Chương 13 Chương 14 Chương 15 Chương 16 Chương 17 Chương 18 Chương 19 Chương 20 Chương 21 Chương 22 Chương 23 Chương 24 Chương 25 Chương 26 Chương 27 Chương 28 Chương 29 Chương 30 Chương 31 Chương 32 Chương 33 Chương 34 Chương 35 Chương 36 Chương 37 Chương 38 Chương 39 Chương 40 Chương 41 Chương 42 Chương 43 Chương 44 Chương 45 Chương 46 Chương 47 Chương 48 Chương 49 Chương 50 Chương 51 Chương 52 Chương 53 Chương 54 Chương 55 Chương 56 Chương 57 Chương 58 Chương 59 Chương 60 Chương 61 Chương 62 Chương 63 Chương 64 Chương 65 Chương 66 Chương 67 Chương 68 Chương 69 Chương 70 Chương 71 Chương 72 Chương 73 Chương 74 Chương 75 Chương 76 Chương 77 Chương 78 Chương 79 Chương 80 Chương 81 Chương 82 Chương 83 Chương 84 Chương 85 Chương 86 Chương 87 Chương 88 Chương 89 Chương 90 Chương 91 Chương 92 Chương 93 Chương 94 Chương 95 Chương 96 Chương 97 Chương 98 Chương 99 Chương 100 Chương 101 Chương 102 Chương 103 Chương 104 Chương 105 Chương 106 Chương 107 Chương 108 Chương 109 Chương 110 Chương 111 Chương 112 Chương 113 Chương 114 Chương 115 Chương 116 Chương 117 Chương 118 Chương 119 Chương 120 Chương 121 Chương 122 Chương 123 Chương 124 Chương 125 Chương 126 Chương 127 Chương 128 Chương 129 Chương 130 Chương 131 Chương 132 Chương 133 ĐOẠN KẾT